trong cuộc thi '' sứ giả rừng xanh'', mỗi con vật được trao 1 cơ hội giới thiệu về vẻ đẹp và tài năng của mình , em hãy đóng vai 1 con vật và viết bài
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
từ in đậm thay thế cho từ chú Tư
cánh thay thế từ ngữ ở đây có tác dụng tránh lặp lại giữa các từ ngữ
1.Đám trẻ vây kín quanh bể để ngắm nhìn bộ vây tuyệt đẹp của con cá.
2.Mặt trời chưa mọc mà quán bún mọc nhà bác Nga đã sáng đèn.
3.Bố Minh được điều về Bình Phước quản lí vườn điều.
4.Mùa đông em thích ăn thịt nấu đông.
5.Trong mắt có nước mắt.
6.Mùa xuân hoa lựu nở đầu xuân.
7.Những quả đỗ để trong túi đỗ.
8.Chiếc áo treo trên giá có giá rất đắt.
TK:
Tỷ lệ từ Hán Việt trong tiếng Việt rất cao. Do hiện tượng gần âm đọc hoặc không nắm rõ nghĩa của từ, nhiều người thường sử dụng nhầm lẫn một số từ Hán Việt. Dưới đây là một vài trường hợp phổ biến.
1. Ca thán. Để chỉ việc “than thở và oán trách”, nhiều người dùng từ ca thán. Chẳng hạn: “Anh này suốt ngày chỉ biết ca thán”. Đây là cách dùng sai do thói quen nhưng lại rất phổ biến trong lời nói hằng ngày, thậm chí cả trên báo chí. Ca trong tiếng Hán có nhiều nghĩa nhưng không có nghĩa nào liên quan đến việc than thở, oán trách. Ca thán không có trong tiếng Việt. Từ đúng phải là ta thán. Đây là một từ ghép đẳng lập. Trong đó, ta 嗟 có nghĩa “than thở”; thán 嘆 có nghĩa “than, thở dài”.
2. Sát nhập. Để biểu đạt ý nghĩa “nhập vào với nhau làm một”, nhiều người hay dùng từ sát nhập. Ví dụ: “Từ nay, hai thôn Đông và Tây được sát nhập thành một”. Từ sát nhập này được ghi nhận trong một số từ điển tiếng Việt. Tuy nhiên, từ đúng phải là sáp nhập. Trong tiếng Hán không có từ sát nhập với nét nghĩa như trên; chỉ có sáp nhập, trong đó, sáp 插 có nghĩa là “cắm vào, cài vào, tra vào, chen vào…”, nhập 入 nghĩa là “vào”. Một số từ Hán Việt ban đầu viết sai nhưng lâu dần được chấp nhận thành viết đúng (do thói quen sử dụng) là hiện tượng khá phổ biến trong tiếng Việt. Sát nhập là một trường hợp như vậy.
3. Mãn tính. Để chỉ bệnh có “tính chất kéo dài và phát triển chậm”, nhiều người viết bệnh mãn tính. Ví như: “Viêm phế quản mạn, suy thận mạn, viêm xương khớp… là những bệnh mãn tính”. Tuy nhiên, từ viết đúng phải là mạn tính. Mạn 慢 có nghĩa “chậm chạp, trì hoãn”. Tính 性 có thể hiểu là “tính chất”. Mạn tính nghĩa là “có tính chất chậm”. Cho nên, đối lập với [bệnh] mạn tính ta có từ [bệnh] cấp tính (cấp 急: gấp, vội vàng; cấp tính: có tính gấp, vội). Còn mãn 滿 có nghĩa “đầy, tràn ra”. Viết bệnh mãn tính thì tối nghĩa.
Sử dụng từ Hán Việt mang lại nhiều hiệu quả diễn đạt. Tuy nhiên, nếu sính dùng hoặc dùng theo thói quen mà không nắm rõ nghĩa của từ thì rất dễ dùng sai. Với những trường hợp dễ nhầm lẫn như nêu ở trên, người viết/ nói nên nắm vững ý nghĩa của từ trước khi sử dụng.
Xin chào tất cả mọi người, tôi là Hổ, vua của rừng xanh. Tôi tự hào về bộ lông sọc đen trên nền vàng rực rỡ, đôi mắt sáng lấp lánh như đôi ngọc lục bảo và bộ răng nanh sắc như lưỡi kiếm. Những đặc điểm này không chỉ làm nổi bật vẻ đẹp của tôi mà còn thể hiện sức mạnh và uy quyền của tôi trong rừng xanh. Tôi cũng muốn giới thiệu về tài năng săn mồi của mình. Tôi có thể chạy với tốc độ lên đến 60 km/h và nhảy xa hơn 6 mét. Điều này giúp tôi dễ dàng bắt được con mồi. Tôi cũng có khả năng leo cây tốt để trốn tránh kẻ thù hoặc săn mồi. Tuy nhiên, tôi không chỉ là một kẻ săn mồi. Tôi cũng là một người bảo vệ rừng xanh. Tôi giữ gìn sự cân bằng trong chuỗi thức ăn bằng cách kiểm soát số lượng của các loài động vật khác. Tôi hy vọng rằng mọi người sẽ hiểu và tôn trọng sự tồn tại của tôi cũng như các loài động vật khác trong rừng xanh. Chúng tôi đều có vai trò quan trọng trong việc duy trì sự cân bằng của thiên nhiên. Hãy cùng chúng tôi bảo vệ rừng xanh, ngôi nhà chung của chúng ta. Xin cảm ơn mọi người đã lắng nghe!