Đề bài: Cho chủ đề: “Hồ Chí Minh vĩ đại của nhân dân Việt Nam” Em hãy viết thành một bài văn thuyết minh
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
1.
My school is very excellent having red colour three storey building. I to go school on daily basis in the proper uniform. My class teacher is very kind and teaches us to follow school discipline. My school is located at very nice place and away from all the crowd and noise of the city. My school has two small green gardens near to the main gate where lots of colourful flower beds, grassy lawns, fruits trees and two beautiful showers.
My school has lots of facilities such as one computer lab, two science labs, one big library, one common reading room, one big playground, one nice stage and one stationary shop. My school has classes for nursery to 12th class students. My school has around fifty seven highly qualified teachers including men and women, 20 helpers, one principal and 10 gate keepers. My teacher teaches us very politely and makes us learn subjects in very creative and attractive ways.
2.My mother is the one who I love most in my life. For what she’s done, she deserved with the whole world. My mother is a 43-year-old household wife. She’s tall, slim and especially she has a beautiful long black hair. She always smile thus everyone consider her a friendly person. My mom loves every members of the family with all her heart. She agreed to be a household woman instead of working out. My mother takes care of the household chorces. She wakes up earliest in the morning and goes to bed latest in the night. And during the day, she’s very busy. I remember once when my mother got sick so nobody did the house work and everything went to crazy. From then, my father and I join hand to help mother whenever we have free time. She’s really happy about that. When I was a kid, mom taught me to play piano at each weekend. I still remember the songs which includes many childhood’s experiences. Not only taught me to play piano, she also taught me to be a better human. I love the moral stories that she told me before I fell asleep every night. We’re really appreaciate mother’s effort, patient and her hard work to conserve the family’s happiness. My mother is an indispensable part of my life. When I grow up, I want to be a woman her.
3.
The name of my best friend is Jyoti. She is my good friend and cares for me a lot. She behaves me well and helps always. I met her in class 6 and became best friend. She is my true friend because she understands me very well and cares for my every need. I her very much. I never had any friend her ever before. She comes to my home and I too go to her home. Our parents respects us very much and our friendship. She is so precious for me and I never want to lose her. Whenever I get absent in the classroom, she helps me in doing all the left home works and class works.
She is much similar to me in many aspects. She never argues me and describes me well anything which I get stuck. She is an open minded girl and never feels bad for my misbehave. She is very entertaining in nature and makes me laugh through her interesting jokes and talks in the spare time. She is very cute and attractive, attracts everyone through her smile and nice way of talk. She promotes me always to do better in the classroom and exams. We are good in sports and academic activities. She takes my opinions in her every tough work to do in the right way. We manage to share things in our difficult times. We always perform better in the class tests and main exams.
chúc bạn học tốt nha
Cùng với loại cổ tích thần kì như truyện Sọ Dừa, truyện Tấm Cám, Thạch Sanh,... kho tàng truyện dân gian nước ta còn có loại cổ tích sinh hoạt, cổ tích sinh hoạt gần như không có yếu tố thần kì, được cấu tạo theo cách "xâu chuỗi" các mẩu chuyện từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, vổ cùng hấp dẫn. Truyện Em bé thông minh là một áng cổ tích như thế. Có thế coi tác phẩm thuộc loại truyện "Trạng". "Trạng" là người thông minh, tài trí hơn người, có khả năng ứng đáp linh hoạt, hoá giải được mọi bài toán, câu đố hiểm hóc. Truyện "Trạng" đề cao trí khôn dân gian, kinh nghiệm sống được vận dụng sáng tạo, đem lại tiếng cười vui vẻ, hồn nhiên mà thâm thuý. Điều thú vị là nhân vật "Trạng" trong các truyện này nhiều người chẳng được học hành, theo đòi sách vở như các ông Tiến sĩ, Trạng nguyên mà chỉ là một anh nông dân nghèo rớt mồng tơi hoặc một em bé còn ăn bám bố mẹ. Chính em bé đó, bằng trí thông minh, tài ứng đối đã khiến mọi người sửng sốt thán phục. Em bé đó là nhân vật trung tâm của truyện Em bé thông minh. Trí khôn của em không chỉ khiến nhiều người khảm phục mà đã nhiều lần cứu nguy cho cả làng, cả nước, cho ngàn vạn người.
1. Trí khôn, mưu kế của em bé được thử thách như thế nào ?
a) Em bé đã phải bốn lần đối mặt với câu đố, bốn bài toán trí tuệ hóc búa. Lần thứ nhất, em phải đáp lại câu đố của quan : "Trâu của lão cày một ngày được mấy đường ?". Lần thứ hai, em phải tìm ra thâm ý của nhà vua : nuôi làm sao cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ. Lần thứ ba cũng là thâm ý, thử thách của vua : từ con chim sẻ "phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Và lần thứ tư, vừa là lời thách đố vừa trêu tức, "chơi xỏ" của sứ thần nước ngoài đối với triều đình, với toàn dân tộc ta là xâu một sợi chỉ qua ruột con ốc vặn rất dài.
b) Lời thách đố mỗi lần một tăng lên, lần sau khó hơn lần trước. Lần thứ nhẩt, viên quan đố, lần thứ hai và thứ ba là lời thách đố của nhà vua. Cả hai đều chỉ nhằm tìm người tài giỏi, thông minh. Riêng lần thứ tư thì người đố là "sứ thần" của nước khác. Nhân vật ra đố khác rồi, ý nghĩa cuộc đố cũng khác. Đây không chỉ là tìm người thông minh mà còn hàm ý thử thách trí khôn của cả triều đình, của toàn dân tộc. Xét về tính chất thì sự oái oăm, độ hóc búa của các câu đố, những dữ kiện mà người đố đưa ra mồi lúc thêm kì quặc. Hoặc là một việc làm "lẩn thẩn" : đếm đường cày mỗi ngày, hoặc là một hiện tương vô lí, trái lẽ đời : trâu đực đẻ con, một con sẻ bé tẹo làm thành ba mâm cỗ. Có khi là một việc không chí "lẩn thẩn" mà còn kì quặc, éo le đến độ... chỉ có thánh thần mới làm được. Thêm nữa, tính oái oăm, căng thẳng còn được thể hiện ở sự lựa chọn người giải đố. Lần thứ nhất, viên quan yêu cầu em bé giải đố. Lần thứ hai, nhà vua thử thách hai bố con. Con số gấp đôi. Lần thứ ba, nhà vua thách đố cả dân làng. Số người bị lôi vào trận đấu trí tuệ tăng gấp mười, gấp trăm lần rồi! Đến lần thứ tư thì... đáng sợ quá. Sứ thần nước khác thách đố cả triều đình, gồm toàn những người quyện cao, trí sáng. Cứ mỗi lần như thế, hầu như mọi người, già trẻ, lớn bé, dân thường, vua chúa đểu... bị đẩy vào thế... bí. Dân làng thì "lo lắng, không hiểu thế là thế nào, coi dó là tai hoạ". Vua qiian thì "vò dầu suy nghĩ", "lắc đầu bó tay". Trong khi đó, em bé - nhân vật chính của câu chuyện - vốn bị mọi người thờ ơ, coi thường, thì vẫn bình thản như không, thậm chí "còn đùa nghịch ở sau nhà". Dường như đối với em, mọi sự trên đời, mọi lời thách đố chẳng có gì ghê gớm, khó khăn. Nó là cuộc đời diễn biến hằng ngày mà em từng thấy, từng chơi đùa vui vẻ, hồn nhiên như tâm hồn, trí tuệ của tuổi thơ trong sáng. Mỗi lần kể vẽ một câu đố, tác giả truyện cổ tích này không chỉ đặt ra tình huống đơn giản là sự đối đầu giữa người đố và em bé, một người đối với một người, người lớn đối với trẻ em. Không ! Tình huống đố và yêu cầu giải đố mỗi lúc một tăng cao, cả về số lượng lẫn chất lượng. Từ đó, ngầm một sự so sánh thú vị : lần thứ nhất so sánh em bé với người cha, lần thứ hai so sánh em với dân làng, lần thứ ba khi em bé đố lại thì là so sánh chính em với nhà vua và đến lần thứ tư, rõ ràng người kể chuyện muốn so sánh một mình em bé với cả triều đình gồm vua, quan, các ông trạng, các đại thần. Cả bốn lần, nhờ sự so sánh ấy, vị trí em bé được đề cao, trí tuệ em bé toả sáng dần. Em bé, em là... thần đồng đấy ư ?
2. Vị thần đồng ấy có trí thông minh như thế nào khi giải các câu đố ?
a) Ta hãy lần lượt quan sát cách giải và lắng nghe lời giải của chú bé : Lần thứ nhất, em bé đố lại viên quan : "ngựa của ông đi một ngày được mấy bước". Lần thứ hai, em bé vặn lí với nhà vua : "Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ !". Lần - thứ ba, em cũng đố lại vua, xin vua rèn cái kim thành con dao để xẻ thịt một con chim sẻ làm ba mâm cỗ. Và lần thứ tư, em bé dùng kinh nghiệm sống của nhân dân : kiến thấy mùi mỡ ắt phải tìm đến ! Điều thú vị là mỗi lần giải đố, em bé lại dùng một "chiêu" khác nhau. Lần thì lấy "gậy ông đập lưng ông" để đẩy đối phương vào thế bí mà chịu thua cuộc. Lần thì chỉ ra cái "chiêu" của đối phương vô lí, phi lí, trên đời không thể xảy ra khiến đối phương bị "tóm gáy", mà đầu hàng, hoặc cười xoà vui vẻ... Điều thú vị hơn nữa là tất cả những lời giải đố, những chiêu võ trí tuệ của em bé đều không chép từ sách vở nào cả mà bắt nguồn từ kiến thức đời sống. Nó tươi tắn, hồn nhiên mà bất ngờ, đầy sức thuyết phục. Đó chính là sự tươi tắn, thuần hậu, chất phác trong tâm hồn và trí tuệ của nhân dân. Chính nhân dân - những tác giả của câu chuyện cổ tích này - đã gửi trí khôn vào nhân vật em bé, nhờ nhân vật nói hộ mình những suy nghĩ, tính toán, những kinh nghiệm sống để giúp nhau gỡ rối, hoá giải các thử thách, khó khăn của các bài toán, câu đố trong cuộc sống hằng ngày.
b) Kết thúc câu chuyện, em bé thông minh được, vua phong là "Trạng nguyên", "Vua lại xây dinh thự ở một bên hoàng cung cho em ở, để tiện hỏi han". Đấy là phần thưởng đích đáng để khẳng định, tôn vinh vị thần đồng. Lời tôn vinh, sự khẳng định ấy có phải chỉ vì em bé thông minh, trí sáng hơn người ? Đúng ! Nhưng chưa đủ. Điểu đáng tôn vinh, đáng quý trọng nữa là mục đích, tác dụng, hiệu quả của những bài toán trí tuệ mà em bé đã giải. Trong bốn lần giải đố thì lần thứ hai và thứ tư đặc hiệt thú vị. Lần thứ hai, từ ba thúng gạo nếp vua ban và ba con trâu đực, em bé đã giúp cho dân làng biến "một tai hoạ" thành "một bữa ăn sướng miệng". Lần thứ tư, em bé chỉ cất tiếng hát vui vẻ "tang tình tang, tính tình tang..." mà các triều thần "mừng như mở cờ trong bụng" và sứ giả nước láng giềng phải thán phục. Sau sự "thán phục" này chắc chắn viên sứ giả sẽ trở về tâu với vua nước họ phải bỏ cái ý định ngông cuồng là "lăm le muốn chiếm bờ cõi nước ta". Như vậy, trí khôn của một em bé đã cứu nguy cho ngàn người, hoá giải những âm mưu đen tối. Trí khôn nói riêng, sự thông minh, tài năng sáng tạo của con người nói chung ứng dụng vào cuộc sống không phải để tỏ ra mình thông minh, hơn đời mà cần hướng vào một mục đích cao cả, để gỡ rối, cứu nguy, để đem lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi người. Hiểu như thế, chúng ta càng thêm mến yêu em bé thông minh, coi trọng việc rèn giũa trí khôn, sự sáng tạo.
Tóm lại, truyện cổ tích Em bé thông minh là loại cổ tích sinh hoạt mà nhân vật trung tâm là nhân vật người thông minh - kiểu nhân vật rất phổ biến trong kho tàng cổ tích Việt Nam và thế giới. Truyện đề cao sự thông minh và trí khôn dân gian (qua hình thức giải những câu đố, vượt những thử thách oái oăm), từ đó tạo nên tiếng cười vui vẻ, hổn nhiên trong đời sống hằng ngày. Tôn vinh trí khôn là việc nên làm, nhưng việc cần tiếp tục làm là phải biết dùng trí khôn để phục vụ cuộc sống, đem lại niềm vui, hạnh phức cho mọi người.
Văn Như Cương (01/07/1937 - 09/10/2017)[1] là một nhà giáo Việt Nam, nhà biên soạn sách giáo khoa phổ thông và giáo trình đại học bộ môn hình học, Ủy viên Hội đồng giáo dục quốc gia Việt Nam. Ông là một Tiến sĩ toán học (bảo vệ thành công luận án tiến sĩ năm 1971 tại Liên bang Xô Viết) được phong học hàm Phó giáo sư[2][3].
Ông là người thành lập và hiệu trưởng (1989-2014) trường dân lập đầu tiên tại Việt Nam[4] là trường trung học phổ thông Lương Thế Vinh, Hà Nội.
Ông có một số nghiên cứu về lãnh vực Tô-pô Hình học trong thời gian làm nghiên cứu sinh ở Liên Xô (tất cả đều đã được dịch sang Tiếng Anh)
Ông viết/dịch một số sách dành cho sinh viên đại học, cao đẳng:
Các sách giáo khoa/tham khảo dành cho giáo viên, học sinh phổ thông:
Ông được đánh giá cao với năng lực sư phạm. Ông cũng nổi tiếng là người thẳng tính và rất thương yêu học trò. Tuy nhiên, cuộc trả lời phỏng vấn của ông trên báo điện tử Vietnamnet về trường hợp của thầy giáo Đỗ Việt Khoa[5], đã có dư luận bức xúc về cách hành xử của ông[6][7].
Nhà toán học Alexey Chernavsky đã nhận xét về các công trình Toán học của ông trong thời gian làm nghiên cứu sinh như sau (Hà Huy Vui dịch):
"Một công trình thú vị được Văn Như Cương, một nghiên cứu sinh từ Việt Nam thực hiện. Văn Như Cương giới thiệu khái niệm về sự nêm vào của một phân hoạch liên tục này vào một phân hoạch liên tục khác. Anh chỉ ra rằng, nếu các thành phần của một compact là phân ngăn trong {\displaystyle \mathbb {R} ^{k}}, thì compact được phân thành các ngăn trong {\displaystyle \mathbb {R} ^{k+1}}.Một phân hoạch liên tục, mà bao đóng của ảnh của hợp các phần tử không suy biến là có chiều bằng không, sẽ được nêm vào vào một phân hoạch của các cung. Từ đó suy ra rằng, không gian thương cũng được nhúng vào {\displaystyle R^{k+1}}.Nếu giả thiêt rằng ảnh của hợp của các phần tử không suy biến có chiều bằng không, thì vấn đề trở nên rất khó. Văn Như Cương đã vượt qua khó khăn này bằng cách xét một phân rã đặc biệt của phan hoạch (thành tổng của các phân hoạch có độ nhỏ tiến tới không). Với cách làm này, không gian thương được nhúng vào {\displaystyle \mathbb {R} ^{k+2}}. Trong những trường hợp đặc biệt, khi số các phần tử không suy biến là đếm được, hoặc khi các phần tử không suy biến cùng nằm trên một mặt phẳng, thì không gian thương được nhúng vào {\displaystyle \mathbb {R} ^{k+1}}.
Một kết quả quan trọng khác của Văn Như Cương là chứng minh tính xấp xỉ được của các ánh xạ phân ngăn bằng các đồng phôi. Chứng minh của anh, sử dụng một cách đặc biệt thông minh kết quả của M.E. Hamstrom, chỉ chiếm ít hơn một trang giấy.
Thật tiếc, là sau khi bảo vệ luận án trở về nước, Văn Như Cương dường như đã dừng việc nghiên cứu toán học của mình." (Theo A.V. Chernavsky, On the work of L. V. Keldysh and her seminar, Russian Mathemaal Surveys, Number 4, Volume 60, 2005.).
Đọc Tắt Đèn,ta thấy chị Dậu là một người phụ nữ đảm đang . Chị Dậu cần cù làm ăn hết năm này sang năm khác, cùng chồng đầu tắt mặt tối, không dám chơi ngày nào, mà vẫn cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Chị không còn một tài sản nào có thể bán để nộp sưu, ngoài mấy đứa con, đàn chó, hai gánh khoai …), đau xót vì phải nhìn đám con ngồi mót khoai, nhưng đã đói vàng cả mắt không nhặt được nữa; đau xót vì phải nghe đứa con van xin “ thầy u đừng bán con”. Đau xót vì phải bỏ cả gia đình, làng mạc lên tỉnh đi ở vú … ), và những đức tính phẩm cách trong sạch ( chị hi sinh tất cả cuộc đời cho chồng, cho con; chị luôn luôn bảo vệ phẩm cách trong sạch và đã có dũng khí để đấu tranh … ), đã có một tác dụng tố cáo lớn, rạch toang cái màn nhung che đậy sự thối nát của bọn quan lại cường hào, địa chủ sống phè phỡn, dâm dục trên xương máu mồ hôi, nước mắt của nông dân.
Chị Dậu là cái đốm sáng đặc biệt của Tắt đèn. Trong cái đêm tối của xã hội cũ, cái “đốm sáng” càng sáng, vì vậy mà ngày nay hình tượng chị Dậu mãi mãi sống trong lòng chúng ta. Chúng ta vừa thương mến, vừa kính phục chị. Xót xa cho cuộc đời chị , chúng ta càng thêm căm ghét cái xã hội bạo tàn đã vùi dập chị.
Ngô Tất Tô" là nhà văn của nông dân và là một trong những tác giả tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ông có vị trí tương đốì vẻ vang trong lịch sử văn học Việt Nam trước Cách mạng.
Tắt đèn là tác phẩm có giá trị hiện thực và sức mạnh tố cáo sâu sắc. Viết về nạn thuế thân, tập trung vào mấy ngày thu thuế, Ngô Tất Tô" đà phản ánh hiện thực nông thôn đương thời một cách tập trung và điển hình. Qua mấy ngày “sưu thuế giới kỳ” này, tình cảnh thảm thương của người nông dân cũng như bản chất tham lam làn ác của bọn thống trị phơi bày ra rõ nét hơn lúc nào hết.
Với số trang hạn chế, Tắt đèn mô tả khá đủ mặt những lực lượng thống trị ở nông thôn trước Cách mạng. Đây là bọn cường hào tàn nhẫn đè nén ức hiếp nông dân, chỉ chờ có dịp “đục nước” để được “béo cò”. Chúng nịnh bợ quan trên bòn hút của người nghèo. Đây là bọn địa chủ “đầu trâu mặt ngựa ăn thịt người không biết tanh”, vừa dô"t nát, vừa keo kiệt ti tiện, mà điển hình là Nghị Quế. Hắn làm giàu một cách rất “cổ điển” là cho vay nặng lãi và chiếm đoạt ruộng đất của nông dân. Luôn luôn tỏ ra “am hiểu thời thế”, “cái gì cũng nhắc đến Tây”. Là nghị viện hẳn hoi, nhưng hắn có đức “không thèm biết chữ”. Đó là bọn quan lại bỉ ổi dùng vợ làm một phương tiện thăng quan tiến chức như tri phủ Tư Ân. Đằng sau chúng, Ngô Tất Tô bằng ngòi bút thâm thúy của mình vẫn cho người đọc hình dung ra ít nhiều hình ảnh đen tối của bọn thực dân — tác giả của những tấm thẻ SƯU. Bằng một ngòi bút hiện thực sắc sảo, chỉ cần một vài nét, nhà vần đã vạch trần bản chất xấu xa của chúng, mặc dù mỗi đứa lại có một dáng vẻ riêng.
Tuy vậy, giá trị to lớn độc đáo của tác phẩm Tắt đèn không phải ở chỗ phê phán xã hội đương thời, mà ở chỗ nhà văn đã xây dựng được một hình tượng chân thực đẹp đẽ về người phụ nữ nông dân. Xây dựng thành công nhân vật chị Dậu, Ngô Tất Tố đã góp vào văn học Việt Nam một nhân vật hấp dẫn. Nói như Nguyễn Tuân, chị Dậu xứng đáng là “tất cả của Tắt đèn”.
Chị Dậu có thể tiêu biểu cho hàng triệu phụ nữ Việt Nam trước Cách mạng. Hai vợ chồng chị “đầu tắt mặt tối không dám chơi ngày nào” mà vẫn “cơm không đủ no, áo không đủ mặc”, gia đình “lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh”. Thế rồi, anh Dậu đau ôm, vụ thuế đến cùng với biết bao tai họa… Viết về số phận của người phụ nữ nông thôn, Ngô Tất Tố đã đặt ra được một vấn đồ bức thiết nhất: cơm áo quyền sông của con người. Hình tượng chị Dậu có sức khái quát cao chính ở điểm này.
Giông như nhiều nhân vật phụ nữ trong văn chương truyền thống, chị Dậu vốn là một phụ nữ xinh đẹp nết na… Gặp hoàn cảnh hoạn nạn, nhân vật này trở thành “đốm sáng đặc biệt” (Nguyễn Tuân) khiến người đọc cảm thương trân trọng.
Chị Dậu một phụ nữ có tinh thần vị tha yêu chồng, thương con tha thiết. Việc chị tìm mọi cách để cứu chồng ra khỏi cảnh cùm kẹp, chị ân cần săn sóc anh Dậu, đặc biệt hành động dũng cảm lấy thân mình che chở cho người chồng đau ốm trước thái độ hung hãn của hai lên tay sai… cũng làm cho người đọc yêu mến và khâm phục. Chính tình yêu thương chồng đã tạo nên ở chị một sức mạnh quyết liệt bất ngờ.
Cũng như nhiều bà mẹ Việt Nam khác, chị Dậu rất mực thương con, chiều con. Cùng quẫn, buộc phái hán đứa con đầu, chị như đứt từng khúc ruột, lúc nào cũng nghĩ “còn có ngày nào đem được nó về nữa không”. Ngay đến khi bị giải lên huyện, nhịn đói với “sợi dây thừng gò ờ hai cánh tay”, chị vẫn nghĩ đến cái Tĩu, thằng Dần, cái Tý.
Chị Dậu là một phụ nữ thông minh, sắc sảo. Chị không biết chữ, chẳng khỏi bỡ ngỡ trước bao mưu ma chước quỷ của bọn thống trị, nhưng chị không phải là người ngu đần. Chị không lạ gì bụng dạ của vợ chồng Nghị Quế, nhìn bọn tai to mặt lớn ở đình làng chị hiểu ra nhiều điều… Quả thật, ta thấy chị bị ức hiếp nhiều hơn là chị bị lường gạt..
Đứng trước khó khăn bất ngờ, tưởng chừng không thể vượt qua – phải nộp một lúc hai suất SƯU, anh Dậu thì đau ốm, đàn con thì bé dại… tất cả trông chờ vào sự chèo chông của chị. Trên thực tế, chị thành chỗ dựa của cả gia đình.
Đây cũng là một phụ nữ có ý thức sâu sắc về nhân phẩm. Chị đã từng phải điêu đứng vì số tiền nộp SƯU, nhưng chị vẫn đủ can đảm ném thẳng nắm giấy bạc vào mặt tên tri phủ Tư Ân. Hai lần bị cưỡng hiếp, chị đều thoát ra được. Đây chính là những biểu hiện đẹp đẽ của nhân phẩm, của tinh thần tự trọng.
Thông minh sắc sảo, có tinh thần quật khởi, ý thức sâu sắc về nhân phẩm… nhân vật chị Dậu còn toát lên vẻ đẹp mộc mạc của người phụ nữ nông thôn. Chị sông ở nơi tăm tối bị ức hiếp đè nén, nhưng tâm hồn vẫn sáng trong như đóa hoa sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Tóm lại, bằng thái độ trân trọng và sự hiểu biết sâu sắc về nông thôn và nông dân, Ngô Tất Tô" đã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu, với tất cả những nỗi khổ sở đau xót, và đặc biệt với những phẩm cách trong sạch. Chính những yếu tô’ tích cực này khiến cho chị Dậu trở thành một “chân dung lạc quan”, luôn muôn “tung ra, khỏi bóng tối” (Nguyễn Tuân), vượt qua cái nhìn bi quan bế tắc của tác giả về tiền đồ của người nông dân.
Về mặt nghệ thuật, tác phẩm Tắt đèn ghi nhận một thành tựu xuất sắc của tiểu thuyết truyền thông.
Tắt đèn có cốt truyện rõ ràng, tình tiết mạch lạc, chặt chẽ, lời văn gọn gàng. Giông như các tiểu thuyết truyền thống, hệ thống nhân vật được chia thành hai tuyến hoàn toàn đối lập nhau: chính diện và phản diện. Nhân vật chính diện thường có ngoại hình đẹp với tư tưởng tình cảm trong sáng. Ngược lại nhân vật phản diện thường có ngoại hình xấu, hành vi tàn ác với tư tưởng tình cảm xấu xa.
Trong Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã khắc họa được một số tính cách gần như những thuộc tính chung cho một giai cấp, một tầng lớp. Chị Dậu là nhân vật chính diện đẹp người, đẹp nết., tiêu biểu cho những người nông dân lao động. Nghị Quế là nhân vật phàn diện ngu dốt, thô lỗ, tham lam, tàn nhẫn… tiêu biểu cho tầng lớp bóc lột. Nhân vật trong Tắt đèn ít khi có sự xung đột nội tâm và hầu như không biến đổi qua hoàn cảnh (chị Dậu trước sau vẫn là một người vị tha, đảm đang, chung thủy, thông minh…).
Nhân vật trong Tắt đèn, phần nhiều có sức khái quát cao, tuy vậy, các nhân vật này cũng khó tránh khỏi tình trạng công thức, lược đồ.
(Trước đây một số sách cho rằng: Qua Tắt đèn, Ngô Tất Tô" đã xây dựng được một nhân vật điển hình – chị Dậu, trong một hoàn cảnh điển hình – làng Đông Xá khi mùa SƯU thuế đến. Đến nay khái niệm “nhân vật điển hình” cần phải hiểu theo một cách chặt chẽ hơn).
Một hạn chế của tác phẩm Tắt đèn là nhà văn chưa nhìn thấy tiền đồ của những người nông dân mà ông trân trọng yêu quý. Tác giả đặt tên cho tác phẩm là Tắt đèn và kết thúc tác phẩm bằng cảnh “trời tôi om như mực” và cái tiền đồ của chị Dậu.
Song, như đã phân tích ở trên, nhân vật chị Dậu có phần nào thoát khỏi cảm quan hiện thực đen tối của tác giả, gieo vào lòng người đọc ít nhiều niềm hy vọng ở sự đổi đời của người nông dân lao động.
this is my bedroom. it is nice. it is oppsite livingroom. There is a computer, a bed, a window, a chair, a picture and a table. the pillows are on the bed. I and young sister are sleep. i love my bedroom.
h mk nha ban
a paradise, my room is the only place where I feel free, warm and comfotable for relaxing after a tiring day at school.
My room has simple design and everything looks neat and clear. It's a beautiful room because it is decorated by myself. I use bright color for the wall and blue ties to inspire an intimate feeling to the space. Besides, my room looks warm and airy with two huge windows on the two sides of the room. It's more lovely senery pictures and some lamps on the wall. I the computer in my room most because it helps me a lot for my study.
In my house I my room most, I myself can do everything in it. I'm the owner of my own space so I always try to keep it clear and neat.
Trong những nhân vật mà em đã học, em ấn tượng nhất là nhân vật Dế Mèn trong văn bản " Bài học đường đời đầu tiên ". Đối với em, Dế mèn là một cậu dế bảnh trai, cường tráng, khỏe mạnh với nhiều hình ảnh như: với đôi càng mẫm bóng, những cái vuốt ở chân, ở khoeo cứ cứng dần và nhọn hoắt, đôi cánh... bây giờ thành cái áo dài kín xuống tận chấm đuôi, lại thêm đầu... to ra và nổi từng tảng rất bướng, hai cái răng đen nhánh lúc nào cũng nhai ngoàm ngoạp như hai lười liềm máy làm việc..., Dế Mèn thật ra dáng con nhà võ. Oai phong hơn, Dế Mèn còn có sợi râu... dài và uốn cong một vẻ rất đỗi hùng dũng. Dương dương tự đắc, chú ta đi đứng oai vệ, luôn tranh thủ mọi cơ hội để thể hiện mình. Thỉnh thoảng, muốn thử sự lợi hại của những chiếc vuốt, chú ta “co cẳng lên đạp phanh phách vào các ngọn cỏ” hay chốc chốc lại trịnh trọng và khoan thai đưa cả hai chân lên vuốt râu. Tự cho mình là nhất, chú không ngần ngại cà khịa với tất cả mọi bà con trong xóm (quát các chị Cào Cào, đá anh Gọng Vó,...). Tính cách của Dế Mèn lại kiêu căng, xốc nổi, điệu đàng, hung hăng và ngộ nhận. Thái độ của Dế Mèn với Dế Choắt là kẻ cả, trịch thượng (qua cách đặt tên là Dế Choắt, ví von so sánh như gã nghiện thuốc phiện, xưng hô chú mày, tính tình khinh khỉnh, giọng điệu bề trên, dạy dỗ). Không những thế, Dế Mèn còn tỏ ra ích kỉ, không cho Dễ Choắt thông ngách sang nhà, lại còn mắng “Đào tổ nông thì cho chết”.Khi trêu chị Cốc, Dế Mèn thật hung hăng, kiêu ngạo: “Sợ gì ? Mày bảo tao sợ cái gì ? Mày bảo tao còn biết sợ ai hơn tao nữa !”. Thậm chí, hát trêu xong, Dế Mèn vẫn tự đắc, thách thức: “Mày tức thì mày cứ tức, mày ghè đầu mày ra cho nhỏ đi, nhỏ đến đâu thì mày cũng không chui nổi vào tổ tao đâu !”. Nhưng khi chứng kiến chị Cốc đánh Choắt, Dế Mèn khiếp hãi “nằm im thin thít”. Biết chắc chị Cốc đi rồi, mới dám “mon men bò lên”. Từ hung hăng, kiêu ngạo, Dế Mèn trở nên sợ hãi, hèn nhát. Qua đó, Dế mèn đã rút ra bài học đường đời đầu tiên cho mình.
Lão Hạc là một người cha rất mực yêu thương con. Đồng cảm với nỗi phẫn chí của đứa con tội nghiệp, lão Hạc chấp nhận để con đi cao su. Làm như vậy, lão đã vì con mà ngậm ngùi chịu cảnh già cả, cô đơn, bệnh tật. Ở một mình, lão dành rất nhiều yêu thương cho con chó Vàng: gọi nó là “cậu” Vàng, ăn gì cũng cho nó ăn cùng, đau khổ, khóc lóc khi trót lừa nó để bán... Lão yêu con chó Vàng đơn thuần vì lão rất yêu loài chó ư? Không, lão yêu nó phần lớn bởi đó là kỉ vật của con trai để lại. Đặc biệt, cuối cùng lão Hạc đã chủ động tìm đến cái chết - một cái chết bi thương - cái chết bằng bả chó. Lão đã chấp nhận cái chết nghiệt ngã ấy để giữ lại cho con trai mảnh vườn đặng khi con về có vườn có đất làm ăn sinh sống. Chao ôi! Tình phụ tử ở lão Hạc thật khiến lòng ta cảm động.
Trở đi trở lại trong sáng tác của nhà văn Nam Cao là hình ảnh người nông dân và người trí thức. Họ là nơi để nhà văn kí thác những quan điểm về nghệ thuật và cuộc đời, nơi nhà văn bộc lộ tâm sự của mình. Người trí thức trong sáng tác của ông là những nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh sống đầy nghiệt ngã. Những kiếp đời mòn mỏi, sống mòn, sống thừa, bị áo cơm ghì sát đất. Đau khổ hơn, họ lại là người trí thức - người luôn ý thức được những nỗi khổ đau của mình trước cuộc đời. Nhân vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một con người như vậy. Ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc được nhà văn giao cho rất nhiều trọng trách. Nhân vật này đứng thứ hai sau nhân vật lão Hạc, vừa như người chứng kiến vừa như người tham gia vào câu chuyện của nhân vật chính, vừa đóng vai trò dẫn dắt câu chuyện vừa trực tiếp bày tỏ thái độ, tình cảm, tâm trạng của bản thân. Đó cũng là chỗ gần gũi và khác cách kể chuyện trong tiểu thuyết - tự truyện Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng. Ông giáo cũng là một con người có hoàn cảnh sông đầy những khó khăn. Tuổi trẻ ông đã từng đi nhiều nơi, vào tận Sài Gòn với những niềm tin và bao khát khao cao đẹp. Một con người như thế rồi cũng bị ném trả lại vùng nông thôn nghèo khổ, nơi hi vọng bị diệt trừ và 11 tưởng chi là một giấc mộng mãi không thành. Những cuốn sách mà ông đã nâng niu quý trọng “mỗi lần mở một quyển ra, chưa kịp đọc dòng nào, tôi đã thấy bừng lên trong lòng tôi như một rạng đông cái hình ảnh tuổi hai mươi trong trẻo, biết yêu và biết ghét...”, rồi cũng phải tự tay minh bán di vì con ốm, vì đã cùng đường đất sinh nhai. Đọc những trang văn của Nam Cao, mặc dù nhà văn không hề miêu tả kĩ cuộc sống của ông giáo nơi quê nhà nhưng tôi cứ có cảm giác một nỗi buồn man mác bao phủ lên cảnh sống của ông. Ông giáo là một nhân vật giàu lòng yêu thương. Có lẽ chính những điều đó là chỗ gần gùi làm cho ông và lão Hạc xích lại gần nhau hơn. Ông giáo tỏ ra cảm thông, thương xót cho hoàn cảnh của lão Hạc — người láng giềng già, tốt bụng, tìm cách an ủi, giúp đỡ lão. Nhất là từ khi thằng con lão Hạc đi xa và khi lão bán cậu Vàng thì ông giáo dường như là chỗ dựa tinh thần, nơi duy nhất của lão Hạc bộc bạch tâm sự của mình. Khi lão Hạc bán cậu Vàng, sang nhà ông giáo với tâm trạng tột cùng đau khổ, thi ông giáo đã ở bên, động viên lão với tấm lòng cảm thông rất mực chân thành. Khi lão Hạc bòn mót tất cả để gủi gắm lại phần để dành cho con, phần để dành lo cho hậu sự của mình, trong khi lão càng ngày càng rơi vào cảnh sống đói khổ, thì ông giáo là người duy nhất hiểu lão: “Tôi giấu giếm vợ, thỉnh thoảng giúp ngấm ngầm lão Hạc”. Người hàng xóm tốt bụng và giàu tình thương của lão Hạc khiến ta xúc động và trân trọng, đó là một nhân cách cao cả. Cũng giống như biết bao nhân vật người trí thức trong sáng tác của Nam Cao, họ đều là những con người đáng thương. Nếu là một người nông dân bình thường thì cái đói, cái nghèo có lẽ là nỗi khổ duy nhất và lớn nhất. Nhưng với những người trí thức của Nam Cao, họ còn phải gánh trên vai cả nỗi khổ về tinh thần. Những con người có học thức ấy luôn bị dày vò, luôn phải trăn trở trong nghĩ suy. Đi hết câu chuyện, ta nhận ra ông giáo là người luôn phải chứng kiến nỗi đau của người khác. Nhìn xung quanh cuộc sống mình không có lấy một niềm vui, một ánh sáng của sự sống. Cuộc đời bi thương, bất hạnh của gia đình lão Hạc, cách nghĩ của chính vợ ông... khiến ông đau xót thốt lên: “Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”. Là người giàu lòng yêu thương nhưng ông cũng bất lực trước hoàn cảnh của người khác. Lão Hạc luôn bên ông, luôn chia sẻ với ông tâm sự những suy ngẫm về cuộc đời nhưng rồi, ông giáo có giữ nổi lão Hạc ở lại cõi đời này đâu. Kết thúc, lão vẫn chết một cách thê thảm, đáng thương. Vợ ông giáo có cái nhìn lệch lạc về lão Hạc nhưng ông cũng chỉ ngậm ngùi “bởi thị khổ quá rồi, có bao giờ thị nhìn thấy nỗi khổ của người khác đâu”. Ta thấy ông giáo là một nhân vật vừa đáng thương vừa đáng trọng. Những triết lí ông rút ra về nỗi buồn trước cuộc đời và con người đã tạo cho ông một tiếng nói riêng trong truyện. “Chao ôi, đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cô" mà hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngô"c, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi,... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương, không bao giờ ta thương”. Ông giáo không chỉ tỏ ra rất hiểu vì sao mà vợ ông lại không chịu giúp lão Hạc và cảm thông với những nỗi khổ của thị. Ông giáo chỉ buồn mà không nỡ giận và còn nhắc nhở mình phải cố tìm hiểu họ, đồng cảm với họ. Mặt khác ông còn buồn vì thấy lão Hạc gần như làm ngơ trước sự giúp đỡ của ông làm cho hai người dần xa nhau. Nhưng khi biết lão Hạc xin bả chó của Binh Tư, nghe câu nói đầy mỉa mai của y dành cho lão Hạc thì ông còn buồn hơn. Ông cảm thấy thất vọng trước sự thay đổi cách sống do không chịu đựng được đói khổ, “túng ăn vụng, đói làm càn” của một người vốn có bản tính trong sạch, giàu lòng tự trọng như lão Hạc. Ông giáo buồn vì bản năng đã chiến thắng nhân tính mất rồi! Nhưng sau cái chết bất ngờ và bi thảm của lão, tâm trạng của ông lại biến chuyển, có thêm những suy nghĩ khác. Trước hết ông thấy cuộc đời không thật đáng buồn vì có những cái chết mang tinh thần hi sinh đầy cao đẹp như của lão Hạc. Cái chết cho thấy nhân tính đã chiến thắng, lòng tự trọng vẫn giữ chân con người trước bờ vực của sự tha hóa. Ông giáo ngỡ ngàng nhận thấy: “nhưng cuộc đời lại đáng buồn theo một nghĩa khác” là ở chỗ, những người tốt như lão Hạc, đáng thương, đáng thông cảm như thế nhưng cuối cùng vẫn có hoàn cảnh bế tắc, hoàn toàn vô vọng, vẫn phải tìm đến cái chết như là cứu cánh duy nhất, như là sự giải thoát tự nguyện và bất đắc dĩ. Và càng đáng buồn hơn vi không phải ai cũng hiểu hết ý nghĩa cái chết của lão. Tâm trạng của ông giáo chứa chan một tình yêu thương và lòng nhân ái sâu sắc nhưng cũng thâm trầm với giọng điệu buồn và bi quan. Chỉ còn đó một chút niềm an ủi với vong linh người vừa chết kia là ông giáo cô' gắng giữ trọn lời hứa, giữ trọn mảnh vườn để có dịp gặp và trao tận tay người con trai lão Hạc. Có một điều không phải dễ dàng bạn đọc nào cũng nhận ra rằng: người đau khổ nhất truyện chưa hẳn đã là những con người nhỏ bé, bất lực như lão Hạc, con lão Hạc, Binh Tư,... mà lại là ông giáo - con người biết tất cả mọi nỗi đau của mọi kiếp người mà đành bất lực “ngậm đau khổ để gửi vào im lặng”. Xây dựng nhân vật ông giáo, Nam Cao như muốn tặng cho lão Hạc một người bạn để an ủi, chia sẻ nhưng cũng với nhân vật này, nhà văn muốn bày tỏ quan điểm, suy ngẫm về kiếp người và cuộc đời. Ta như bắt gặp hình bóng của Nam Cao trong ông giáo. Những nét tương đồng của nhân vật này và nhà văn như một lời tâm sự chân thành mà tác giả gửi vào trang viết. Văn là người. Một trái tim ấm nóng tình nhân đạo, lòng yêu thương với con người cứ bùng lên mãnh liệt trong trang viết của Nam Cao. Có thể không thể thay đổi cuộc đời của những người trí thức trong sáng tác của mình nhưng ta vẫn tin rằng dù cuộc đời có nghiệt ngã đến đâu thì họ vẫn giữ được những nét nhân cách đáng trọng của mình.
Sân trường của tôi to lớn và có nhiều loại cây che bóng mát như : bằng lăng, phượng, sấu ,…Nhưng tôi thích nhất là cây bàng cổ thụ được trồng bên mép trái sân trường.
Nhìn từ xa, cây bàng sừng sững xòe ra những tán lá rộng, che mát cho cả một góc sân trường. Cây cao chừng 5, 6 mét, to bằng một vòng tay tôi ôm mới xuể. Bao bọc quanh thân là một lớp vỏ dày đặc, xù xì, sứt sẹo. Gốc bàng rất lớn. Dưới gốc là nhừng chiếc rễ trồi lên, bò lan xung quanh như những con trăn khổng lồ. Trên thân bàng là những cành lớn, cành nhỏ vươn đều ra bốn phía.
Mùa xuân, cành nào cũng xum xuê lá. Lá xanh đậm, bóng nhẫy. Lẫn trong những vòm lá xanh ấy là những chùm hoa li ti năm cánh vàng mơ thật đẹp. Sau một thời gian, những chùm hoa ấy dần dần nhường chỗ cho những quả bàng lòng thòng rũ xuống. Quả bàng hình dẹt và nhọn đầu, lúc còn non căng mọng một màu xanh thẫm. Vào những ngày nắng to, cây bàng tỏa bóng mát cho chúng tôi vui chơi. Chim chóc rộn ràng cất tiếng hót, chọn những vòm lá xanh um để trú ngụ. Vào giờ ra chơi, chúng em thường ngồi lên những chiếc rễ lớn để ôn bài. Đầu hè, quả bàng chín màu mật ong. Rồi thu đến, lá bang chuyển sang màu đỏ và lần lượt rời cành theo từng cơn gió. Trên nền trời lạnh lẽo, cành bàng trơ trụi trông thật buồn. Sang đông, trên những cành bàng nhú lên vài búp là non trông thật đẹp.
Cây bàng đã gắn bó với chúng em nhiều kỉ niêm. Nó không chỉ là loại cây che bóng mát mà còn làm tăng thêm vẻ đẹp của sân trường.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một danh nhân văn hóa thế giới, là vị cha già của dân tộc Việt Nam. Công lao trời bể của người đối với dân tộc Việt Nam là không thể đong đếm, Người đã hi sinh, dâng hiến cả cuộc đời vì dân, vì nước, vì nền độc lập của dân tộc. Hồ Chí Minh cũng là người mang đến ánh sáng hòa bình sau nhiều năm chịu ách nô lệ cho nhân dân Việt Nam, người đã mang đến cuộc sống tự do, độc lập cho cả một thế hệ Việt Nam hiện nay. Bởi vậy nên có thể nói, nhận định “Hồ Chí Minh là con người vĩ đại của nhân dân Việt Nam”
“Hồ Chí Minh là con người vĩ đại của nhân dân Việt Nam”, để hiểu được nhận định này, trước hết ta cần hiểu đến ý nghĩa của từ “vĩ đại”. “Vĩ đại” là từ dùng để chỉ những con người có tầm vóc lớn lao cả về tư tưởng cũng như bản lĩnh trên một lĩnh vực gì đó. Đặc biệt là những công lao ấy phải mang tính quần chúng, mang đến những tác động tích cực cho đông đảo con người. Trong tương quan ý nghĩa đó, ta có thể hiểu được chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta xứng đại với danh xưng “vĩ đại” ấy, người không chỉ có tình yêu nước mãnh liệt mà còn có những hành động, lí tưởng đẹp để bảo vệ nền độc lập cho dân tộc ấy.
Những năm cuối thế kỉ mười tám, đầu thế kỉ mười chín, cách mạng Việt Nam chìm sâu trong tăm tối của khủng hoảng. Dưới ách áp bức dã man của thực dân Pháp, nhân dân ta đã tiến hành rất nhiều cuộc đấu tranh chống Pháp, nhưng vì không có một đường lối đúng đắn, chưa có sự đoàn kết trong đấu tranh nên các cuộc nổi dậy này dù khiến cho quân Pháp khốn đốn nhưng cuối cùng đều chìm trong bể máu. Trong cái bế tắc của con đường cách mạng ấy, chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta mà khi ấy là người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước tại bến cảng Nhà Rồng.
Nguyễn Ái Quốc đã đi sang các nước phương Tây để hiểu hơn về kẻ thù của dân tộc, cũng là quá trình tìm kiếm ánh sáng mới, có thể đưa cách mạng nước nhà ra khỏi bế tắc, khủng hoảng. Và trong quá trình hoạt động không biết mệt mỏi suốt hơn hai mươi năm, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác- Lê nin, tìm ra con đường cứu nước mới cho cách mạng Việt Nam, đó là con đường cách mạng vô sản. Không chỉ chuẩn bị về tư tưởng cho cách mạng mà chủ tịch Hồ Chí Minh còn trực tiếp chỉ đạo cách mạng.
Trước hết, người đào tạo ra những người chiến sĩ cách mạng đầu tiên để có thể về nước truyền bá rộng rãi chủ nghĩa Mác – lê nin và con đường cứu nước vô sản cho toàn thể đồng bào. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là người gắn kết cách mạng Việt Nam với cách mạng Thế giới, làm cho cách mạng thế giới biết đến cách mạng Việt Nam, chẳng những vậy mà trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, quân và dân ta đã nhận được sự tương trợ tích cực từ các nước xã hội chủ nghĩa, mà điển hìn nhất chính là Liên Xô.
Người hợp nhất các Đảng thành một chính đảng duy nhất ở Việt Nam – Đảng cộng sản Việt Nam, dưới sự chỉ đạo thống nhất về đường lối và phương hướng đấu tranh, cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong hai cuộc kháng chiến, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là người đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ra những quyết định, đường hướng đúng đắn cho cách mạng. Bởi vậy mà có thể nói, thắng lợi vẻ vang của dân tộc Việt Nam một phần lớn là nhờ công lao của Hồ Chí Minh. Trước công lao của Người, nhà thơ Tố Hữu cũng đã từng bày tỏ niềm xúc động:
“Bác ơi tim Bác mênh mông quá
Ôm cả non sông, cả kiếp người”
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà chính trị tài ba, lỗi lạc mà Người còn là một nhà văn hóa, một nhà văn, nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam, người đã để lại cho kho tàng văn học rất nhiều những tác phẩm có giá trị, không chỉ về nội dung tư tưởng mà còn là giá trị về thẩm mĩ, nghệ thuật. Những tác phẩm nổi tiếng của người có thể kể đến như: Ngục trung nhật kí, vọng nguyệt, tết nguyên tiêu, mộ (chiều tối).
Đối với con người Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại, mà còn là người cha già đầy thân thương của dân tộc. Hồ Chí Minh đã dành trọn cuộc đời của mình để giúp dân, giúp nước, mang lại ánh sáng hòa bình cho con người Việt Nam, đưa Việt Nam trở thành một quốc gia có tự chủ. Tuy bác đã mãi đi xa nhưng hình ảnh của Bác trong trái tim người Việt Nam không hề phai nhạt mà luôn tha thiết, khắc khoải ân tình. Tình cảm ấy như chính câu hát trong ngày chiến thắng: “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một danh nhân văn hóa thế giới, là vị cha già của dân tộc Việt Nam. Công lao trời bể của người đối với dân tộc Việt Nam là không thể đong đếm, Người đã hi sinh, dâng hiến cả cuộc đời vì dân, vì nước, vì nền độc lập của dân tộc. Hồ Chí Minh cũng là người mang đến ánh sáng hòa bình sau nhiều năm chịu ách nô lệ cho nhân dân Việt Nam, người đã mang đến cuộc sống tự do, độc lập cho cả một thế hệ Việt Nam hiện nay. Bởi vậy nên có thể nói, nhận định “Hồ Chí Minh là con người vĩ đại của nhân dân Việt Nam”
“Hồ Chí Minh là con người vĩ đại của nhân dân Việt Nam”, để hiểu được nhận định này, trước hết ta cần hiểu đến ý nghĩa của từ “vĩ đại”. “Vĩ đại” là từ dùng để chỉ những con người có tầm vóc lớn lao cả về tư tưởng cũng như bản lĩnh trên một lĩnh vực gì đó. Đặc biệt là những công lao ấy phải mang tính quần chúng, mang đến những tác động tích cực cho đông đảo con người. Trong tương quan ý nghĩa đó, ta có thể hiểu được chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta xứng đại với danh xưng “vĩ đại” ấy, người không chỉ có tình yêu nước mãnh liệt mà còn có những hành động, lí tưởng đẹp để bảo vệ nền độc lập cho dân tộc ấy.
Những năm cuối thế kỉ mười tám, đầu thế kỉ mười chín, cách mạng Việt Nam chìm sâu trong tăm tối của khủng hoảng. Dưới ách áp bức dã man của thực dân Pháp, nhân dân ta đã tiến hành rất nhiều cuộc đấu tranh chống Pháp, nhưng vì không có một đường lối đúng đắn, chưa có sự đoàn kết trong đấu tranh nên các cuộc nổi dậy này dù khiến cho quân Pháp khốn đốn nhưng cuối cùng đều chìm trong bể máu. Trong cái bế tắc của con đường cách mạng ấy, chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta mà khi ấy là người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước tại bến cảng Nhà Rồng.
P/ s : tham khảo nha