bài học cuộc sống rút ra từ tác phẩm người con gái nam xương
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Thanh Hoá, ngày 15 tháng 8 năm 2009
An thân mến!
Mình là Thức, học sinh trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc, phường .... quận ... Tháng trước, chúng mình đã làm quen và kết bạn với nhau ở trại hè : cháu ngoan Bác Hồ của thành phố tổ chức tại khu nghỉ mát bãi biển sầm Sơn, bạn nhớ ra chưa?
Mấy hôm nay, đài phát thanh, truyền hình của tỉnh và cả nước thông báo vùng quê của bạn vừa trải qua một cơn bão lớn, bà con ngư dân bị thiệt hại khá nhiều về tàu thuyền và các phương tiện đánh bắt. Nhìn cảnh làng quê của bạn xơ xác, cây cối gãy đổ ngổn ngang, hàng trăm ngôi nhà bị tốc mái tan hoang, mình và những người thân trong gia đình cùng ngồi xem tivi đều cảm thấy ngậm ngùi, đau xót. Đáng sợ thay là những cơn giận dữ của thiên nhiên, bất ngờ gieo tai hoạ xuống cuộc sống của không ít người dân lao động ở những làng chài ven biển.
Thiệt hại vật chất dần dần rồi sẽ được khôi phục, nhưng những tổn thất về tinh thần, tình cảm thì không gì bù đắp được. Mình đã khóc khi trên màn hinh hiện lên cảnh những người mẹ trẻ tay bồng con nhỏ đứng trên bờ cát, dõi mắt ra khơi xa, đau đáu mong chờ bóng dáng người thân trở về sau cơn Dão. Biển cả lúc êm đềm, lúc dữ dội, thật khó lường phải không An?
Nhưng mình tin rằng, với tình cảm đoàn kết, cưu mang, lá lành đùm lá rách đã thành truyền thống tốt đẹp bao đời của dân tộc Việt Nam, đồng bào cả nước sẽ giúp bà con quê bạn vượt qua cơn hoạn nạn.
An mến!
Trên này, thành phố đang phát động phong trào giúp đỡ đồng bào bị bão lụt. Chúng mình cũng đang tích cực đóng góp quần áo, sách vở và cả đồ chơi nữa để gửi đến các bạn vùng bị thiên tai. Mình biết rằng giá trị của những cái đó chẳng đáng là bao nhưng nó thể hiện sự quan tâm chia sẻ của chúng mình với các bạn đang gặp khó khăn.
Mình rất mong các bạn sớm ổn định cuộc sống bình thường và lại tiếp tục cắp sách đến trường. Chúc An mạnh khoẻ và học giỏi! Hẹn gặp nhau vào hè năm sau, An nhé!
Bạn mới
Trương Đinh Thức
BÀI THAM KHẢO
Thanh Hoá, ngày 15 tháng 8 năm 2009
An thân mến!
Mình là Thức, học sinh trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc, phường ....quận ... Tháng trước, chúng mình đã làm quen và kết bạn với nhau ở trại hè : cháu ngoan Bác Hồ của thành phố tổ chức tại khu nghỉ mát bãi biển sầm Sơn, bạn nhớ ra chưa?!
Mấy hôm nay, đài phát thanh, truyền hình của tỉnh và cả nước thông báo vùng quê của bạn vừa trải qua một cơn bão lớn, bà con ngư dân bị thiệt hại khá nhiều về tàu thuyền và các phương tiện đánh bắt. Nhìn cảnh làng quê của bạn xơ xác, cây cối gãy đổ ngổn ngang, hàng trăm ngôi nhà bị tốc mái tan hoang, mình và những người thân trong gia đình cùng ngồi xem tivi đều cảm thấy ngậm ngùi, đau xót. Đáng sợ thay là những cơn giận dữ của thiên nhiên, bất ngờ gieo tai hoạ xuống cuộc sống của không ít người dân lao động ở những làng chài ven biển.
Thiệt hại vật chất dần dần rồi sẽ được khôi phục, nhưng những tổn thất về tinh thần, tình cảm thì không gì bù đắp được. Mình đã khóc khi trên màn hinh hiện lên cảnh những người mẹ trẻ tay bồng con nhỏ đứng trên bờ cát, dõi mắt ra khơi xa, đau đáu mong chờ bóng dáng người thân trở về sau cơn Dão. Biển cả lúc êm đềm, lúc dữ dội, thật khó lường phải không An?
Nhưng mình tin rằng, với tình cảm đoàn kết, cưu mang, lá lành đùm lá rách đã thành truyền thống tốt đẹp bao đời của dân tộc Việt Nam, đồng bào cả nước sẽ giúp bà con quê bạn vượt qua cơn hoạn nạn.
An mến!
Trên này, thành phố đang phát động phong trào giúp đỡ đồng bào bị bão lụt. Chúng mình cũng đang tích cực đóng góp quần áo, sách vở và cả đồ chơi nữa để gửi đến các bạn vùng bị thiên tai. Mình biết rằng giá trị của những cái đó chẳng đáng là bao nhưng nó thể hiện sự quan tâm chia sẻ của chúng mình với các bạn đang gặp khó khăn.
Mình rất mong các bạn sớm ổn định cuộc sống bình thường và lại tiếp tục cắp sách đến trường. Chúc An mạnh khoẻ và học giỏi! Hẹn gặp nhau vào hè năm sau, An nhé!
Bạn mới
Trương Đinh Thức
Năm 1788, quân Thanh mượn cớ sang giúp nhà Lê, chiếm thành Thăng Long, âm mưu đô hộ nước ta. Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, hiệu là Quang Trung, kéo quân ra Bắc đánh quân Thanh.
Tôi cũng là một trong số những người quân ấy.
Tôi nhớ rất rõ, ngày 20 tháng chạp năm Mậu Thân ( 1788), chúng tôi gồm 20 vạn quân do vua Quang Trung chỉ huy ra đến Tam Điệp ( Ninh Bình ). Chúng tôi được lệnh ăn tết trước, rồi chia thành 5 đạo tiến về phía Thăng Long .
Chủ tướng nhà Thanh là Tôn Sĩ Nghị biết được tin đó nhưng có ý khinh thường.
Đêm mồng 3 tháng Giêng năm Kỉ Dậu ( 1789), chúng tôi kéo tới sát đồn Hà Hồi ( cách Thăng Long 20km) mà giặc không hề hay biết.
Vào lúc nửa đêm, chúng tôi vây kín đồn Hà Hồi, Quang Trung bắc loa gọi. Chúng tôi đồng thanh dạ rầm trời. Quân Thanh trong đồn hoảng sợ xin hàng.
Mờ sáng ngày mồng 5, chúng tôi tấn công đồn Ngọc Hồi. Đạn của quân Thanh bắn ra như mưa. Vua Quang Trung cho ghép các mảnh ván thành tấm lá chắn, lấy rơm rấp nước quấn ngoài, rồi cứ 20 người một tấm tiến lên. Vua Quang Trung cưỡi voi chỉ huy. Tới sát cửa đồn, chúng tôi bỏ lá chắn xông vào như vũ bão, đánh giết dữ dội. Quân giặc chết nhiều vô kể.
Đồn Ngọc Hồi bị mất, tàn quân Thanh bỏ chạy về phía Thăng Long, bị quân ta phục kích tiêu diệt. Cùng lúc đó, quân ta đánh mạnh vào đồn Đống Đa ( Hà Nội). Tướng giặc là Sầm Nghi Đống thắt cổ chết. Xác lính giặc chất thành gò đống.
Tôn Sĩ Nghị nhận được tin báo, hoảng sợ bỏ cả ấn tín chạy qua cầu sông Hồng về Bắc. Quân Thanh tranh nhau qua cầu. Cầu gãy sập. Nhiều tên rơi xuống sông chết đuối. Quân ta toàn thắng.
Hàng năm, cứ đến ngày mồng 5 tết, ở gò Đống Đa, dân ta tổ chức giỗ trận để tưởng nhớ ngày Quang Trung đại phá quân Thanh.
Hôm nay trăng sáng quá, mấy đứa cháu vẫn chưa chịu đi ngủ, chúng còn đang mải chơi đánh trận giả ngoài sân. Tiếng reo hò, cổ vũ của chúng như đánh thức trong tôi những kí ức đẹp của một thời theo đội quân Tây Sơn bách chiến bách thắng, nhất là chiến công đại phá quân Thanh do chính Quang Trung chỉ huy.
Thời trai trẻ , tôi sống ở huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn. Mùa xuân 1771, đất Tây Sơn sôi động với sự phất cờ khởi nghĩa, lật đổ Trương Phúc Loan, lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Tôi cũng đầu quân vào nghĩa quân Tây Sơn. Có thể nói chiến công của quân Tây Sơn là do Nguyễn Huệ -một vị tướng tài ba, dáng cao lớn, tóc xoăn, mắt như chớp sáng, giọng nói sang sảng như tiếng chuông. Khi vua Lê Chiêu Thống chạy trốn sang Trung Quốc, Nguyễn Nhạc xưng đế , còn Nguyễn Huệ là Bắc Bình Vương. tôi được phân công vào đội lính hầu cận bảo vệ ngài và chứng kiến được tài năng của bậc anh hùng trong sự nghhiệp bảo vệ đất nước.
Ngày 24 tháng mười một năm Mậu Thân, nhận được tin cấp báo quân Thanh đã chiếm Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ giận lắm họp các tướng sĩ định thân chinh cầm quân đi ngay. Nhưng những người đến họp đã đều nói ngài nên chính vị hiệu để yên lòng dân rồi cất quân ra Bắc. Nên ngày 25 tháng Chạp, Bắc Bình đã lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung rồi hạ lệnh xuất quân.
Ngày 29 tháng Chạp, Quang Trung đến Nghệ An, bàn việc quân với Nguyễn Thiếp. Nghe Nguyễn Thiếp nói không quá mười ngày, quân Thanh sẽ bị dẹp tan, vua mừng lắm, bèn cho tuyển lính, duyệt binh,rồi ra lời phủ dụ động viên tướng sĩ. Tất cả mọi người trong đó có tôi đều lấy làm xúc động, tinh thần thêm hăng hái tự tin trước cuộc chiến sắp đến dù quân địch lên đến hai mươi vạn.
Ngày 30 tháng Chạp, Quang Trung đến Tam Điệp, tha tội chết cho Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân về tội chưa đánh trận nào đã rút quân bởi họ chỉ hạng võ biền. Quang Trung biết đó là kế sách của Ngô Thì Nhậm nhằm bảo toàn lực lượng, trấn giữ nơi hiểm yếu, làm giặc kiêu ngạo, chủ quan tạo điều kiện cho quân Tây Sơn giành thế chủ động tấn công bất ngờ. Ngài còn dự tính sau chiến thắng sẽ cử Ngô Thì Nhậm sang thương thuyết với nhà Thanh để nuôi dưỡng lực lượng, xây dựng đất nước vững mạnh. Rồi vua mở tiệc khao quân. Tối 30, cả năm đạo quân lên đường tiến ra Bắc.Sau đó ông chia ra làm năm đạo quân. Đạo chủ lực do Quang Trung trực tiếp chỉ huy, thẳng hướng Thăng Long. Đạo thứ hai và thứ ba đánh vào tây Thăng Long và yểm trở cho đạo chủ lực. Đạo thứ tư tiến ra phía Hải Dương. Đạo thứ năm tiến lên Lạng Giang - Bắc Giang, chặn đường rút lui của quân địch. Khi tiến thẳng đến thành Thăng Long, để giữ sức cho quân lính chiến đấu, ông sai dùng cáng làm võng. Hai người khiêng một người nằm ngủ và cứ thế luân phiên nhau đi suốt đêm.
Khi quân Tây Sơn đến sông Thanh Quyết, Quang Trung cho bắt hết quân do thám đang chạy trốn nên bọn giặc ở Hà Hồi, Ngọc Hồi không hề biết gì cả.
Nửa đêm ngày mồng 3 tháng giêng năm Kỉ Dậu, vua Quang Trung cho vây kín làng Hà Hồi, bắc loa truyền gọi, quân lính dạ ran để hưởng ứng như có vạn người. Quân giặc trong đồn sợ hãi, xin hàng.Quân Tây Sơn thu hết lương thực, khí giới.
Ở trận đánh đồn Ngọc Hồi, tôi thấy Nguyễn Huệ rất cẩn trọng. Tối mùng bốn, tôi cùng nhóm trực gác bảo vệ vua, tôi thấy ngài vẫn thao thức cả đêm. Đồn lũy Ngọc Hồi được xây dựng kiên cố, xung quanh đều được cắm chông sắt và chôn địa lôi.Để chuẩn bị đánh đồn Ngọc Hồi, vua Quang Trung truyền lấy sáu mươi tấm ván, cứ ba tấm ghép thành một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, được hai mươi bức. Rồi kén lính khỏe mạnh, cứ mười người khênh một bức, lưng giắt dao ngắn, hai mươi người khác cầm binh khí theo sau, dàn trận thành chữ "nhất". Vua Quang Trung cưỡi voi đi thúc,, đội chúng tôi có nhiệm vụ bảo vệ vua mà giờ đây cũng trở thành những người lính xông vào trận đánh theo hiệu lịnh của ngài.Mờ sáng mùng năm tiến sát đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng bắn, chẳng trúng ai. Nhân có gió bắc, chúng dùng ống phun khói lửa nhằm làm quân Tây Sơn rối loạn. Nhưng trời bỗng trở gió nam, làm cho quân Thanh rối loạn hàng ngũ. Quang Trung liền chỉ huy đội khiêng ván vừa che vừa xông lên. Khi gươm giáo hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống, ai nấy dùng dao ngắn chém bừa, những người cầm gươm giáo theo sau đều nhất tề xông lên hiệp lực. Cùng lúc đó, đạo quân thứ hai và thứ ba tấn công đồn Đống Đa, Sầm Nghi Đống thắt cổ chết. Quân Thanh đại bại, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối.
Trận tấn công thành Thăng Long, Quang Trung bày thế gọng kìm, cho đạo quân thứ tư bày thế nghi binh ở hướng đông. Quân Thanh sợ hãi tìm đường tắt thì gặp đạo quân thứ năm. Chúng vội lùi về đầm Mực, làng Quỳnh Đô thì bị quân Tây Sơn cho voi giày chết. Giữa trưa mùng năm tết, Quang Trung kéo quân vào Thăng Long. Nói về Tôn Sĩ khi nghe tin Quang Trung đánh đồn Ngọc Hồi, hắn sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp dẫn bọn lính kị mã bỏ chạy về hướng bắc. Quân Thanh nghe tin, bỏ chạy, tranh nhau qua cầu. Cầu đứt, quân Thanh rơi xuống nước đến nỗi nước sông Nhị Hà tắc nghẽn. Vua Lê Chiêu Thống và bọn tùy tùng bỏ chạy trốn sang Trung Quốc.
Chiến công đại phá quân Thanh của Quang Trung là niềm tự hào dân tộc. Dù cho quân Thanh có hai mươi vạn nhưng với tài cầm quân lỗi lạc của Nguyễn Huệ, với lòng yêu nước thiết tha và sự đoàn kết của các tướng sĩ, đội quân Tây Sơn đã làm nên kì tích. Lúc vua mất, Nguyễn Ánh lật đổ nhà Tây Sơn, lập nên nhà Nguyễn, những người lính như tôi sau một thời gian bị bắt được thả về quê Dù thời gian có trôi qua, nhưng âm hưởng chiến thắng vẫn vang vọng mãitrong tôi, hình ảnh vị anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ sống mãi với non sông,đất nước và nhất là trong lòng các tướng sĩ từng cùng ngài xông pha trận mạc:
Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình!
Quê hương em rất thanh bình và yên tĩnh,có những cánh đồng thẳng cánh cò bay chạy theo những con đường làng quanh co. Những buổi sáng mùa xuân đứng ở đầu làng mà nhìn cánh đồng thì thích thú biết bao! Gió xuân nhẹ thổi sóng lúa nhấp nhô từng đợt đuổi nhau ra xa tít. Một đàn cò trắng dang rộng đôi cánh bay qua, nổi bật trên nền trời xanh thẳm. Đầu làng có con sông nước xanh ngắt, trong lành. Vào những buổi chiều, cánh đồng rộn lên những câu hò, câu hát hay vang trời của những người dân hay đi làm cỏ Gần cánh đồng có cây đa to để mọi người ngồi nghỉ sau những buổi lao động mệt nhọc. Mùa lúa chín, trong biển lúa vàng ánh lên màu đen nhánh của những cái liềm của người dân đi gặt. Rải rác khắp cánh đồng là những chiếc nón trắng của người đi gặt nhấp nhô lên xuống.
- Những từ đồng nghĩa là: thanh bình và yên tĩnh; xanh thẳm và xanh ngắt.
Ngôi trường của em đang học là ngôi trường nằm ở ngoại thành thành phố mang tên Bác, em yêu quý trường của em và em đến đây để học hằng ngày.
Ở sân trường được thầy cô và chúng em trồng nhiều cây và hoa khác nhau, chúng em cùng nhau chăm sóc cho cây và hoa mau lớn để trường em thêm đẹp. Em rất thích mỗi sáng thứ hai, được cùng các bạn chào cờ ở sân trường. Chúng em cùng lắng nghe lời thầy cô bảo ban hướng dẫn để thực hiện đúng nội quy của trường và học thật tốt.
Ba mẹ em nói là đi học con phải ngoan và làm theo lời cô giáo dặn, và chúng em không ăn bánh kẹo và xả rác làm dơ lớp học.
Chúng em rất yêu ngôi trường mới này, chính vì thế chúng em ý thức giữ gìn cho ngôi trường luôn sạch sẽ và tươi mới mãi mãi. Tuần nào ba mẹ cũng đưa em đến trường, em được gặp thầy cô giáo, gặp bạn bè và biết được nhiều điều mới lạ.
chúc bạn học tốt nhé
Dàn bài:
I.Mở bài:
Giới thiệu trường và lễ chào cờ đầu tuần.
II.Thân bài:
1. Tả khung cảnh trường vào sáng thứ hai:
– Cờ, mi-crô, đội nghi thức.
– Học sinh đến sớm, đồng phục, khăn đỏ.
– Cảnh thiên nhiên.
2. Lễ chào cờ
a) Hồi trống tập trung, học sinh xếp hàng.
Học sinh chỉnh đốn trang phục, chuẩn bị chào cờ.
b) Chào cờ:
– Tiếng trống, tiếng hô
– Tả cảnh học sinh chào cờ.
– Lá cờ từ từ bay lên đỉnh cột, tiếng hát quốc ca, đội ca vang lên.
– Tiếng hát quốc ca, đội ca vừa dứt, lá cờ đã đến đỉnh cột, lời hứa "Sẵn sàng vang lên.
3. Thầy giáo nhận xét thi đua tuần qua, kế hoạch tuần tới.
III.Kết bài:
– Học sinh lên lớp.
– Suy nghĩ về lễ chào cờ đầu tuần.
bài làm 1
Em rảo bước đi đến trường với một niềm vui. Vẫn như thường lệ, vào buổi sáng thứ hai, chúng em lại tập trung dưới sân trường để chào cờ.
Trước mắt em, một quang cảnh náo nhiệt hiện ra. Em vội lên lớp để cất cặp. Cô tổng phụ trách gọi loa:
- Các học sinh xếp ghế dưới sân trường để chào cờ.
Các bạn trai khệ nệ chồng ghế to nặng xuống sân. Em chỉ đạo các bạn của tổ trực nhật xếp ghế còn một bạn đi lấy biển lớp. Bạn nào cũng có nét mặt tươi cười vui vẻ. Cả trường, học sinh mặc những bộ đồng phục ngay ngắn, phẳng phiu. Các cô giáo ăn mặc chỉnh tề đứng cạnh các lớp để đôn đốc học sinh xếp ghế cho nhanh. Mọi thứ như đã sẵn sàng cho buổi lễ. Học sinh có mặt đông đủ dưới sân trường. Gió thổi xào xạc trên kẽ lá. Lá cờ đỏ đã được kéo lên. Cờ bay phấp phới trong gió. Cô Hằng phụ trách đã chuẩn bị xong cho buổi chào cờ. Tiếng trống báo hiệu giờ chào cờ bắt đầu vang lên. Cô Hằng hô:
- Kính mời các thầy cô giáo cùng toàn thể các con học sinh đứng lên làm lễ chào cờ.
Cả trường đứng lên. Các em học sinh đứng lên bên phải những hàng ghế thẳng tắp:
- Nghiêm...chào cờ...chào!
Tiếng trống dông dập như tiếng chân bộ đội ta hành quân. Mọi thứ như ngừng hoạt động. Chị gió ngừng thổi, các cô cậu chim sẻ cũng ngừng hót. Những bàn tay búp măng non xinh xắn của các bạn lớp bốn, năm giơ trước trán. Lá cờ bay giữa trời như gợi cho em nhớ tới các anh bộ đội đã chiến đấu bảo vệ nền độc lập cho Tổ Quốc.
- Quốc ca!
Bài hát vang lên, chúng em bỏ tay xuống. Trống đánh dồn dập kịp theo bài hát.
- Đội ca!
Kết thúc bài Đội ca cô Hằng nói to:
- Vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa!
Vì lý tưởng của Bác Hồ vĩ đại!
Sẵn sàng!
Toàn trường cùng hô theo “sẵn sàng”. Gần một nghìn năm trăm học sinh hô theo làm rung động cả trường. Cô Hằng nói:
- Mời các bạn học sinh và các thầy cô giáo nghỉ!
Học sinh ngồi xuống còn các thầy cô trò chuyện quanh gốc đa. Cô Hằng nhận xét chúng em nào giờ tự quản, bình uống nước, thể dục giữa giờ. Cô nhắc lớp 3A, 5B, 4C về tự quản, khối ba và bốn về bình uống nước. Nhắc về vấn đề thể dục giữa giờ thì phải nói khá nhiều! Khối tôi cứ đinh ninh là sẽ được cô Hằng khen. Khối em bị nhắc nhở ư? Đáng nhẽ chúng em được khen nhưng vì xếp hàng chậm nên bị trừ điểm, thật tai hại! Cô đọc các chủ điểm và việc cần làm của tuần này. Mục đọc điểm thi đua đã tới. Sau một lúc cô Hằng đọc điểm, thì “giê” lớp em reo lên. Em chạy lên nhận cờ thi đua. Một tuần thi đua cố gắng trôi qua, chúng em lại vinh dự được nhận cờ. Buổi lễ kết thúc. Chúng em lại bước vào tiết học mới và sân trường trở lại với không khí yên tĩnh.
Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng in đậm trong tâm trí em. Thứ màu đỏ trên lá cờ là niềm tự hào cho chúng em. Nó là thứ màu đỏ tươi, một thứ màu đẹp nhất. Em hứa sẽ là một đội viên tốt có ích cho xã hội.
bài làm 2
Cứ đầu tuần vào lúc bảy rưỡi ở trường em lại tổ chức buổi chào cờ. Buổi chào cờ gồm các thầy cô giáo và học sinh trong trường tham gia.
Chúng em đang chơi đùa dưới sân thì bỗng “Tùng! Tung! Tùng!” Tiếng trống vang lên báo hiệu giờ chào cờ chuẩn bị bắt đầu.. Mỗi lớp chia thanh hai hàng dọc theo qui định. Biển lớp làm mốc đứng đều tăm tắp trên tay các bạn lớp trưởng. Những chiếc khăn quàng đỏ bay bay trong gió khoe sắc với những bộ động phục trắng tinh. Nắng buổi sáng dìu dịu chiếu vào gương mặt của chúng em làm đôi má ửng hồng. Thầy cô giáo ăn mặc chỉnh tề. Đội trống mặc đồng phục riêng đứng trên sân khấu chuẩn bị cho buổi lễ chào cờ. Chúng em đứng dậy. Cô tổng phụ trách hô: “Nghiêm! Chào cờ! Chào”. Tiếng hô vừa dứt, hàng loạt cánh tay của các anh chị lớp bốn, lớp năm giơ lên trước trán. Tiếng trống dồn dập. Bạn cầm cờ đứng trước sân khấu chao cờ theo hiệu lệnh. Tất cả các bạn im phăng phắc. Mắt nhìn thẳng lên lá cờ tung bay trong gió. Tiếng trống vừa dứt cô Hằng hô to: “Quốc ca”. Tất cả đồng thanh hát: “Đoàn quân Việt Nam đi…” Giọng hát ngân vang rất đều. Ai cũng say sưa hát để thể hiện lòng yêu quê hương tha thiết. Mắt đăm đắm nhìn lên lá Quốc kì. Đầu ngẩng cao. Hai tay duỗi thẳng hai bên trông thật nghiêm chỉnh. Những chú chim hằng ngày hót say sưa thế nay cũng im lặng như muốn nghe tiếng hát của chúng em. Hết bài Quốc ca là bài Đội ca. Các bạn hát nhanh và mạnh mẽ hơn. ”Vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì lý tưởng của Bác Hồ vĩ đại!” “Sẵn sàng!”. Lời hô vang như sấm. Chào cờ xong cô tổng phụ trách ra hiệu cho chúng em ngồi. Không khí có phần ồn ào nhứng trật tự ngay khi cô nhận xét thi đua trong tuần. Giọng cô sang sảng rất dễ nghe. Lớp em mà được nhận cờ xuất sắc thì ai cũng vui, gương mặt bạn nào cũng hớn hở. Sau đó, cô nhắc việc tuần tới. Bạn nào cũng chăm chú nghe để thực hiện cho tốt. Rồi mỗi bạn cầm một chiếc ghế lần lượt lên lớp trả lại không khí yên tĩnh cho sân trường.
P/s: bn tham khảo nhé !
Em rất thích những phút chào cờ đầu tuần. Hình ảnh lá Quốc kì thiêng liêng in đậm trong tâm trí mỗi chúng em. Chiếc khăn quàng đỏ mà em đang đeo đay là một góc của lá cờ Tổ quốc. Nó nhắc em cố gắng học tập và rèn luyện để trở thành con ngoan trò giỏi.
- Với đặc trưng riêng của thể loại truyền kỳ, Nguyễn Dữ đã sáng tạo thêm phần cuối của câu chuyện. Vũ Nương đã không chết, hay nói đúng hơn, nàng được sống cuộc sống khác bình yên và tốt đẹp hơn ở chốn thủy cung. Tại đây, Vũ Nương tình cờ gặp một người cùng làng là Phan Lang. Nàng đã nhờ Phan Lang gửi chiếc hoa vàng cùng lời nhắn cho Trương Sinh. Trương Sinh nghe Phan Lang kể, biết vợ bị oan, bèn lập đàn giải oan trên bến Hoàng Giang. Vũ Nương trở về, ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, lúc ẩn, lúc hiện, nói với chồng lời tạ từ rồi vĩnh viễn trở về chốn làng mây cung nước.
- Đây là một kết thúc phần nào có hậu. Vì Vũ Nương được giải oan, nàng được sống ở chốn thủy cung với các nàng tiên, giống mô típ Thánh Gióng về trời, An Dương Vương xuống biển, Mị Châu chết, máu biến thành ngọc trai… trong truyện cổ tích Việt Nam. Nó thể hiện ước mơ của nhân dân về sự công bằng trong cuộc đời: ở hiền gặp lành, người tốt dù có gặp bao nhiêu oan khuất, cuối cùng cũng sẽ được minh oan, được trả lại thanh danh và phẩm giá.
- Tuy nhiên, kết thúc này vẫn mang màu sắc bi kịch: Vũ Nương trở về uy nghi, rực rỡ nhưng chỉ thấp thoáng, lúc ẩn lúc hiện ở giữa dòng sông rồi vĩnh viễn biến mất. Tất cả chỉ là ảo ảnh,hư vô và mau chóng tan biến, nó góp phần tô đậm nỗi đau của người phụ nữ bạc mệnh.Thực tại lại trở về với thực tại: Vũ Nương vĩnh viễn không thể trở về trần gian, nàng chẳng bao giờ được làm vợ, làm mẹ như mong muốn lớn nhất của đời nàng; chàng Trương vẫn phải trả giá cho hành động phũ phàng của mình, sống trong cảnh phòng không vắng vẻ…ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya; bé Đản mãi mãi không còn mẹ…
=> Qua kết thúc truyện này, chúng ta thấy được thái độ căm ghét, lên án của Nguyễn Dữ đối với xã hội bất công đương thời, cái xã hội mà ở đó người phụ nữ không thể có hạnh phúc. Điều đó càng khẳng định nỗi đau xót và niềm thương cảm của tác giả với số phận bi thảm của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến