K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

19 tháng 10 2017

HOÀNG YẾN VY

a) Đoạn 1:
- Mở đầu: Vào một ngày đẹp trời, năm cô bé Va-li-a lên mười tuổi, được bố mẹ đưa đi xem xiếc.
- Diễn biến: Chương trình biểu diễn hôm ấy thật phong phú, nhiều tiết mục độc đáo, tiết mục nào cũng đặc sắc cả nhưng chẳng biết vì sao Va-li-a lại thích nhất tiết mục “Cô gái phi ngựa đánh đàn”. Em ấn tượng với gương mặt xinh đẹp, dáng vẻ nhanh nhẹn của cô gái. Lớn hơn em mấy tuổi thôi mà cô thật dũng cảm. Trên lưng ngựa, cô diễn viên khả ái này chẳng cần nắm dây cương mà một tay ôm lấy chiếc đàn, còn một tay kia gảy lên những âm thanh náo nức, rộn ràng. Tiếng đàn của cô gái có sức lôi cuốn đặc biệt khiến Va-li-a hết lòng ngưỡng mộ cô.
- Kết thúc: Từ đó lúc nào trong trí óc non nớt của Va-li-a cũng hiện lên hình ảnh cô diễn viên phi ngựa đánh đàn. Em mơ ước một ngày nào đó cũng được như cô - phi ngựa và chơi những bản nhạc rộn rã.
b) Đoạn 2
- Mở đầu: Rồi một hôm, rạp xiếc thông báo cần tuyển diễn viên. Va-li-a xin bố mẹ cho ghi tên học nghề.
- Diễn biến: Sáng hôm sau, trong lòng đầy phấn khởi, em đến gặp bác giám đốc rạp xiếc, bày tỏ nguyện vọng của mình. Bác ân cần đưa em đến một chuồng ngựa. Tại đây có một chú ngựa Kim đẹp tuyệt. Bác bước đến vỗ về chú ngựa và quay lại bảo em: “Công việc của cháu giờ đây là chăm sóc chu đáo con ngựa này cho nó ăn uống và quét dọn chuồng trại cho thật sạch sẽ. Được chứ!” Va-li-a hơi lưỡng lự nhưng cuối cùng em vẫn cầm lấy chổi.
- Kết đoạn: Bác giám đốc gật đầu cười bảo em: "Công việc của diễn viên phi ngựa, đánh đàn bắt đầu như thế đấy cháu ạ. Cái tháp cao nào cũng phải bắt. đầu xây từ mặt đất lên." 
c) Đoạn 3
- Mở đầu: Thế là những ngày tiếp đó, ngày nào Va-Li-a cũng đều đặn đến làm việc trong chuồng ngựa.
- Diễn biến: Những ngày đầu, Va-li-a rất bỡ ngỡ. Có lúc em nản chí. Nhưng cứ nhớ đèn hình ảnh cô diễn viên phi ngựa, em thấy phấn chấn lên.
- Kết đoạn: Rồi công việc cũng cứ quen dần. Từng ngày, từng ngày, em đã trở nên thân thiết dần với chú ngựa Kim, bạn diễn tương lai của mình.
d) Đoạn 4
- Mở đầu: Thời gian trôi qua. Chẳng mấy chốc cũng đến ngày Va-li-a trở thành một diễn viên thực thụ.
- Diễn biến: Cứ mỗi lần Va-li-a bước ra sàn diễn, những tràng vỗ tay nồng nhiệt lại vang lên. Chỉ trong nháy mắt, cô đã đứng trên lưng ngựa, tay ôm cây đàn vĩ cầm. Rồi tiếng đàn cất lên. vẻ thán phục lộ rõ trên từng gương mặt khán giả.
- Kết đoạn: Kết thúc tiết mục của mình, Va-li-a cúi chào khán giả với gương mặt rạng ngời hạnh phúc, cô sung sướng tuyệt vời khi nhận ra ước mơ thuở nhỏ của mình đã trở thành hiện thực.

P/s : bn tham khảo nha

19 tháng 10 2017

Giáng sinh năm mười một tuổi, Va-li-a được bố mẹ dẫn đi xem xiếc.

 Tiết mục “Cô gái phi ngựa đánh đàn” do một cô bé trạc tuổi Va-li-a biểu diễn. Cô bé diễn viên xinh xắn, tài giỏi ấy đã thu hút được khán giả, nhất là Va-li-a.

 Từ đó, lúc nào trong trí óc non nớt của Va-li-a cũng hiện lên hình ảnh cô diễn viên phi ngựa, đánh đàn. Em mơ ước một ngày nào đó cũng được như cô - phi ngựa và chơi những bản nhạc rộn rã.

 Rồi một hôm, rạp xiếc thông báo cần tuyển diễn viên. Va-li-a xin bố mẹ cho ghi tên học nghề.

 Ông giám đốc rạp xiếc nhận ngay Va-li-a vào học nghề và giao cho em việc quét dọn chuồng ngựa. Va-li-a rất ngạc nhiên nhưng cô bé im lặng đồng ý.

 Bác giám đốc gật đầu cười, bảo em: “Công việc của diễn viên phi ngựa, đánh đàn bắt đầu như thế đấy, cháu ạ. Cái tháp cao nào cũng phải xây từ mặt đất lên.”.

 Va-li-a bắt đầu học nghề diễn viên bằng việc quét chuồng ngựa và chăm sóc chú ngựa biểu diễn.

 Những ngày đầu, Va-li-a rất bỡ ngỡ. Có lúc em nản chí. Nhưng cứ nhớ đến hình ảnh cô diễn viên phi ngựa, em lại thấy phấn chấn lên.

- Một thời gian sau, cô bé đã quen việc, còn chú ngựa thì xem Va-li-a như một người bạn.

 Sau một thời gian chăm chỉ tập luyện, Va-li-a đã trở thành diễn viên tiết mục “Cô gái phi ngựa đánh đàn”.

 Cứ mỗi lần Va-li-a bước ra sàn diễn, những tràng vỗ tay nồng nhiệt lại vang lên,chỉ trong nháy mắt, cô đã đứng trên lưng ngựa, tay ôm cây vĩ cầm. Rồi tiếng đàn cất lên. Vẻ thán phục lộ rõ trên khuôn mặt từng khán giả.

 Thế là mơ ước trở thành diễn viên xiếc của Va-li-a trở thành hiện thực.

18 tháng 10 2017

Hùng Vương (chữ Hán: 雄王, chữ Nôm:𤤰雄), là cách gọi các vị vua nước Văn Lang của người Lạc Việt. Hùng Vương thứ I là con trai của Lạc Long Quân, lên ngôi vào năm 2879 trước công nguyên, đặt quốc hiệu là Văn Lang, chia nước làm 15 bộ, truyền đời đến năm 258 trước công nguyên thì bị Thục Phán (An Dương Vương) chiếm mất nước.[1]

Nguồn gốc[sửa | sửa mã nguồn]

Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục là bậc thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Lộc Tục cố nhường cho anh, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi (anh trai Lộc Tục) là con nối ngôi, cai quản phương Bắc, phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương, cai quản phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ.[2]

Kinh Dương Vương xuống Thủy phủ, lấy con gái Động Đình Quân tên là Thần Long sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân thay cha trị nước, còn Kinh Dương Vương không biết đi đâu. Đế Nghi truyền ngôi cho Đế Lai cai trị phương Bắc, Đế Lai nhân thiên hạ vô sự mà đi chu du khắp nơi, đi qua nước Xích Quỷ, thấy Lạc Long Quân đã về Thủy phủ, liền lưu con gái của mình là Âu Cơ ở lại đó.[3]

Lạc Long Quân trở về, thấy Âu Cơ xinh đẹp, liền biến hóa thành chàng trai phong tú mĩ lệ, Âu Cơ ưng theo, Lạc Long Quân liền rước nàng về núi Long Trang. Hai người ở với nhau một năm, sinh ra bọc trăm trứng, sinh ra trăm con trai anh dũng phi thường. Lạc Long Quân ở lâu dưới Thủy phủ, Âu Cơ vốn là người Bắc quốc, nhớ nhà liền gọi Long Quân trở về. Âu Cơ nói với Lạc Long Quân:

Thiếp vốn người Bắc, cùng ở một nơi với quân, sinh được một trăm con trai mà không gì cúc dưỡng, xin cùng theo nhau chớ nên xa bỏ, khiến cho ta là người không chồng, không vợ, một mình vò võ.

Lạc Long Quân bảo rằng:

Ta là loài rồng, sinh trưởng ở thủy tộc; nàng là giống tiên, người trên đất, vốn chẳng như nhau, tuy rằng khí âm dương hợp mà lại có con nhưng phương viên bất đồng, thủy hỏa tương khắc, khó mà ở cùng nhau trường cửu. Bây giờ phải ly biệt, ta đem năm mươi con trai về Thủy phủ, phân trị các xứ, năm mươi con trai theo nàng ở trên đất, chia nước mà cai trị, dù lên núi xuống nước nhưng có việc thì cùng nghe không được bỏ nhau.[3]

Âu Cơ cùng năm mươi con trai ở tại Phong Châu, tự suy tôn người hùng trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng Vương.[3]

Con cháu Thần Nông thị là Đế Minh lấy con gái Vụ Tiên mà sinh Kinh Dương Vương, tức là thủy tổ của Bách Việt. Vương lấy con gái Thần Long sinh ra Lạc Long Quân, Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai mà có phúc lành sinh trăm con trai. Đó chẳng phải là cái đã gây nên cơ nghiệp của nước Việt ta hay sao?[4]

Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Con của Lạc Long Quân là Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang, chia nước ra làm 15 bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức; đóng đô ở bộ Văn Lang, Phong Châu. Về bờ cõi, nước đông giáp biển Đông, tây đến Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc), bắc đến hồ Động Đình (Hồ Nam, Trung quốc), nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành.[5]

Hùng Vương sai các em trai phân trị, đặt em thứ làm Tướng võ, Tướng văn. Tướng văn gọi là Lạc Hầu, Tướng võ là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mị Nương, quan Hữu ty gọi là Bố chính, thần bộc nô lệ gọi là nô tỳ, xưng thần là khôi, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo, thay đời truyền nhau cho đến hiệu là Hùng Vương không đổi.[5]

Theo sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục: Theo sách An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng chép. Giao Chỉ khi chưa đặt làm quận huyện, bấy giờ có ruộng Lạc, theo nước triều lên xuống mà làm ruộng, khai khẩn ruộng ấy là Lạc dân, thống trị dân ấy là Lạc Vương, người giúp việc là Lạc Tướng: đều dùng ấn đồng thao xanh. Nước gọi là Văn Lang. Phong tục thuần hận, mộc mạc, chưa có chữ nghĩa, còn dùng lối thắt nút dây làm dấu ghi nhớ; truyền được mười tám chi.[6]

Ngoại giao[sửa | sửa mã nguồn]

Năm (2557-2258 TCN), năm Mậu Thân thứ 5 đời Đường Nghiêu, Hùng Vương sai sứ sang, tặng vua Nghiêu con rùa thần, có lẽ hơn nghìn năm, mình rùa hơn ba thước, trên lưng có văn khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy lịch (lịch rùa).

Văn hóa[sửa | sửa mã nguồn]

Thời Lạc Long Quân trị vì, nhà vua dạy dân ăn mặc, bắt đầu có trật tự về vua tôi, tôn ti, có luân thường về cha con, vợ chồng.

Dân ở rừng núi xuống sông ngòi đánh cá, thường bị giao long làm hại nên tâu lại với Hùng Vương. Hùng Vương bảo rằng: Ở núi là loài rồng cùng với thủy tộc có khác, bọn chúng ưa đồng mà ghét dị cho nên mới xâm hại. Bèn lấy mực xăm hình thủy quái ở thân thể, tránh được nạn giao long cắn hại. Tục xăm mình của Bách Việt bắt đầu từ đây.

Ban đầu do ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu nằm, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây soa đồng làm bánh; lấy cầm thú, cá tôm làm nước mắm; lấy rễ gừng làm muối; lấy dao cày, lấy nước cấy, đất trồng nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm. Gác cây làm nhà để tránh hổ báo; cắt ngắn đầu để tiện vào rừng núi, con đẻ ra lót lá chuối cho nằm, nhà có người chết thì giã cối gạo để cho hàng xóm nghe chạy đến giúp. Trai gái cưới nhau trước hết lấy muối làm lễ hỏi, rồi sau mới giết trâu để làm lễ thành hôn, đem cơm nếp vào trong phòng cùng ăn với nhau cho hết, rồi sau mới tương thông.[3]

Lúc bây giờ, vua tôi cùng đi cày, cha con tắm chung sông không chia giới hạn, không phân biệt uy quyền, thứ bậc. Dân đều vẽ mình, uống nước bằng mũi, cùng nhau vui chơi vô sự[8]

— Lịch triều hiến chương loại chí

Dòng họ Hùng Vương[sửa | sửa mã nguồn]

Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép phần đầu tiên đặt tên là Kỷ Hồng Bàng thị, 3 tiểu mục là Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Hùng Vương. Sách Lĩnh Nam Chích Quái đặt tên là Truyện Hồng Bàng.[9]

Lãnh thổ[sửa | sửa mã nguồn]

Lãnh thổ nước Văn Lang được sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: Đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành, nay là Quảng Nam ngày nay.

Hùng Vương chia nước Văn Lang làm 15 bộ Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức, đóng đô ở bộ Văn Lang. Theo sách Lĩnh Nam Chích Quái 15 bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Quế Lâm, Tượng Quận.

Mười lăm bộ theo sách Khâm định việt sử thông giám cương mục chép từ sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Nguyễn Thiên Túng:

Sơn Nam (bây giờ là Hà Nội, Nam Định, Hưng Yên) xưa là bộ Giao Chỉ. Sơn Tây xưa là bộ Chu Diên, bộ Phúc Lộc. Kinh Bắc (nay là Bắc Ninh) xưa là bộ Vũ Ninh. Thuận Hóa (bây giờ là từ Hải Lăng thuộc Quảng Trị đến Điện Bàn thuộc Quảng Nam) xưa là bộ Việt Thường; An Bang (bây giờ là Quảng Yên) xưa là bộ Ninh Hải; Hải Dương xưa là bộ Dương Tuyền; Lạng Sơn xưa là bộ Lục Hải; Thái Nguyên, Cao Bằng xưa là bộ Vũ định nội ngoại; Nghệ An xưa là bộ Hoài Hoan; Thanh Hóa xưa là bộ Cửu Chân; Hưng Hóa và Tuyên Quang xưa là bộ Tân Hưng; Còn hai bộ Bình Văn và Cửu Đức thì đều khuyết nghi. Nay khảo ở sách Tấn chí, quận Cửu Đức, do nhà Ngô đặt, nay là đất Hà Tĩnh. Sử cũ chua tức là nước Chiêm Thành, bây giờ là đất Bình Định.

Diệt vong[sửa | sửa mã nguồn]

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, cuối thời Hùng Vương, vua có người con gái vô cùng xinh đẹp. Thục Vương nghe tiếng, liền sai người đến cầu hôn. Hùng hầu can rằng, Thục vương chỉ lấy làm cớ hôn nhân để xâm lược mà thôi. Thục vương đem lòng oán giận. Về sau Hùng Vương gả con gái cho Sơn Tinh, Thục vương căm giận, căn dặn con cháu phải diệt nước Văn Lang.[10]

Cháu Thục vương là Thục Phán nối ngôi, có dũng lược, đem quân xâm lược Văn Lang. Hùng Vương có binh hùng tướng mạnh đánh bại Thục Phán. Hùng Vương bảo Thục Phán rằng: Ta có sức thần, nước Thục không sợ ư?, rồi bỏ bê đất nước, chỉ lo ăn uống vui chơi. Khi quân Thục kéo sát đến nơi, vua còn say mềm chưa tỉnh. Tỉnh dậy, Hùng Vương cùng đường, thổ huyết nhảy xuống giếng chết, quân lính đầu hàng Thục Phán. Từ đây trong sử sách nước Việt bước sang kỷ mới gọi là Kỷ nhà Thục[10]

Sử gia Ngô Sĩ Liên cho rằng chuyện Sơn Tinh - Thủy Tinh rất quái đản, chỉ tạm thuật lại để truyền lại sự nghi ngờ[10] .

Các vị vua[sửa | sửa mã nguồn]

Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, tính từ thời Kinh Dương Vương (2879 TCN) cho đến hết thời Hùng Vương (năm 258 TCN) kéo dài 2.622 năm.[11] Nhà nước Văn Lang tồn tại đến năm 258 TCN thì bị Thục Phán (tức An Dương Vương) thôn tính.

Theo Nguyễn Khắc Thuần trong "Thế thứ các triều vua Việt Nam" [12] thì 18 vị vua Hùng được liệt kê trong danh sách bên dưới. Tuy nhiên, ngay sau danh sách, tác giả cũng đưa ra nhận xét thuộc một trong hai quan điểm đang được các nhà sử học tạm chấp nhận: 18 vị vua Hùng không phải là 18 người cụ thể, mà là 18 chi (nhánh/ngành), mỗi chi này có nhiều vị vua thay phiên nhau trị vì và dùng chung vương hiệu. Thậm chí con số 18 có thể chỉ nên hiểu là con số tượng trưng ước lệ, vì 18 là bội số của 9 - vốn là một số thiêng đối với người Việt.

  1. Kinh Dương Vương (涇陽王): 2879 TCN - ?. Huý là Lộc Tục (祿續).
  2. Hùng Hiền vương (雄賢王), còn được gọi là Lạc Long Quân (駱龍君 hoặc 雒龍君 hoặc 貉龍君). Huý là Sùng Lãm (崇纜).
  3. Hùng Lân vương (雄麟王)
  4. Hùng Diệp vương (雄曄王)
  5. Hùng Hi vương (雄犧王) (phần bên trái chữ "hi" 犧 là bộ "ngưu" 牛)
  6. Hùng Huy vương (雄暉王)
  7. Hùng Chiêu vương (雄昭王)
  8. Hùng Vĩ vương (雄暐王)
  9. Hùng Định vương (雄定王)
  10. Hùng Hi vương (雄曦王) (phần bên trái chữ "hi" 曦 là bộ "nhật" 日)
  11. Hùng Trinh vương (雄楨王)
  12. Hùng Vũ vương (雄武王)
  13. Hùng Việt vương (雄越王)
  14. Hùng Anh vương (雄英王)
  15. Hùng Triêu vương (雄朝王)
  16. Hùng Tạo vương (雄造王)
  17. Hùng Nghị vương (雄毅王)
  18. Hùng Duệ vương (雄睿王): ? - 258 TCN

Chú ý: "雄犧王" và "雄曦王" tuy đều đọc "Hùng Hi Vương" nhưng chữ "hi" trong hai tên gọi này khác nhau về tự dạng và ý nghĩa.

Di sản và ghi công từ đời sau[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày Giỗ tổ Hùng Vương hay Lễ hội Đền Hùng là một ngày lễ của Việt Nam. Đây là ngày hội truyền thống của Người Việt tưởng nhớ công lao dựng nước của Hùng Vương. Nghi lễ truyền thống được tổ chức hàng năm vào mồng 10 tháng 3 âm lịch tại Đền Hùng, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ nhưng được dân Việt trong cũng như ngoài nước đều kỷ niệm.

Năm 1954, Hồ Chí Minh có buổi gặp mặt với binh lính các Trung đoàn Thủ Đô, trung đoàn 36, trung đoàn Tu vũ..., ông nói rằng: "Đền Hùng thờ các vua Hùng. Hùng Vương là người sáng lập ra nước ta, là Tổ tiên của dân tộc ta. Ngày xưa, các vua Hùng đã có công dựng nước, ngày nay Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước."[13]

27 tháng 10 2017

ban ghi van dai qua

19 tháng 10 2017

3 cha con gồm 2 bố và 2 con ,,,chia nhau 4 quả là vừa hihi

19 tháng 10 2017

chưa hoàn hảo làm sai rồi

18 tháng 10 2017

Trong cuộc sống, mỗi con người đếu có nhiều ước mơ. Những mơ ước tốt đẹp sẽ giúp cho con người hình dung ra tương lai, hướng về phía trước. Câu chuyện Lời ước dưới trăng sẽ đưa ta đế vô vàn niềm vui và hạnh phúc của những ước mơ cao quý.



Chuyện kể về một cô gái ở ngôi làng nọ với một điều ước thiêng liêng, nhưng đây không phải là ước mơ cho riêng mình mà là ước mơ cho người khác được hạnh phúc. Cô gái sống ở một nơi có tập tục đặc biệt: Rằm tháng Giêng hằng năm, tất cả các cô gái tròn mười lăm tuổi đều đến hồ Hàm Nguyệt ở trong khuôn viên ngôi chùa tại làng để nguyện ước.



Răm tháng Giêng năm ấy, chị gái của một bạn nhỏ vừa tròn tuổi mười lăm được bà gọi về để hưởng tục lệ linh thiêng đó. Khi người chị đi ra khỏi cổng nhà, bạn nhỏ tò mò theo chị để xem. Đến đầu ngõ, bạn nhỏ gặp chị Ngàn. Chị Ngàn bị mù từ bé nhưng đẹp người, đẹp nết. Dáng người mảnh mai, tóc đen mượt, thả dài. Chị nổi tiếng khéo tay, bánh mứt chị làm ngót nhất làng. Chị đang vào tuổi trăng rằm.



Thấy chị dò bước dưới trăng, bạn nhỏ đoán biết được chị đến hồ Hàm Nguyệt để nguyện ước. Bạn nhỏ đến gần và dắt tay chị đi. Vừa đi hai chị em vừa trò truyện thân mật.
Bạn nhỏ tò mò hỏi:
- Chị Ngàn ơi! Lát nữa chị ước điều gì? Có thể cho em biết được không?
Chị Ngàn trầm ngâm, bạn nhỏ nghĩ chị sẽ ước có một gia đình hạnh phúc như những người phụ nữ khác trong làng.

 Hai chị em vẫn sánh bước đi dưới trăng. Bầu trời trong xanh, vầng trăng lơ lửng. Anh trăng rải trên cành cây, kẽ lá, phản chiếu trên khuôn mặt thánh thiện của Ngàn.
Hai chị em đến bờ hồ, không khí nơi đây thật trang nghiêm. Tuy có nhiều cô gái khác cũng dến đây nhưng không khí vẫn rất tĩnh mịch, thiêng liêng. Có lẽ từng người đang thầm khấn lời ước cho riêng mình. Vì trong đời mình chỉ có một lần được ước “điều ước linh thiêng” nên mọi người đều ước nguyện những điều mà mình mong muốn nhất. Bạn nhỏ dẫn chị Ngàn đến sát bờ hồ, chị quỳ xuống đưa tay vốc lên làn nước óng ánh dưới trăng rồi áp vào mặt. Ánh trăng huyền diệu đang lung linh trên đôi má và lấp lánh trên mái tóc của chị. Áp tay lên ngực, chị khẽ ước một điều ước linh thiêng của đời chị:
- Con ước gì mẹ chị Yên – Bác hàng xóm cạnh nhà con được khỏi bệnh.
Khẩn xong, gương mặt chị bỗng trở nên rạng rỡ vô cùng. Chị khoan thai đứng lên, mắt ngước lên như nhìn ánh trăng vàng dịu, nhìn bầu trời cao vời vợi, ánh mắt chị sáng lên một niềm vui khó tả. Bạn nhỏ vô cùng ngạc nhiên trước lời khấn của chị. Bạn thắc mắc hỏi:
- Cả đời người chỉ có một cơ hội duy nhất mà sao chị dành điều ước ấy cho người khác?
Trên đường về, hai chị em nắm chặt tay nhau. Chị kể:
- Em ơi! Chị Yên ở xóm ta có hoàn cảnh khốn khó. Rằm tháng Giêng năm ngoái, mẹ của chị ấy bị bệnh nặng. Chị Yên đã phải túc trực chăm sóc mẹ cả ngày lẫn đêm. Lúc trăng lặn, chị đã khóc nức nở khi biết rằng mình không còn cơ hội để ước khi tuổi mười lăm đi qua. Mẹ chị Yên vẫn còn bệnh đến năm nay, chị đã thay chị Yên ước cho mẹ chị ấy sớm khỏi bệnh. Chị mồ côi mẹ nên hiểu được nỗi đau của con người phải mất đi người mẹ yêu quý!
Bạn nhỏ lặng người, xiết chặt bàn tay chị Ngàn, bạn tự nhủ:
- Chị Ngàn ơi! Khi nào em mười lăm tuổi em sẽ ước cho đôi mắt chị được sáng lại.
Những lời ước trong câu chuyện thật ý nghĩa. Đây không phải là mơ ước cho mình mà là ước mơ cho người khác được hạnh phúc, khỏe mạnh. Những lời ước ấy như một lời nhắn nhủ mọi người hãy sống vì mọi người, mở rộng vòng tay nhân ái để san sẻ cùng nỗi bất hạnh của người khác. Chia ngọt sẻ bùi cùng mọi người để hướng tới một ngày mai tươi sáng.

18 tháng 10 2017

Hatsune Miku

Câu 1. Quê ngoại tôi có một phong tục đáng yêu: Vào đêm rằm tháng Giêng, tất cả các cô gái trong làng tròn mười lăm tuổi đều được đến Hồ Hàm Nguyệt, một hồ nước đẹp và rộng nằm trong khuôn viên chùa làng để rửa mặt bằng nước hồ và nói lên điều nguyện ước của đời mình dưới ánh trăng. Người xưa truyền lại rằng hầu hết lời nguyện ước của các cô gái, sau này đều ứng nghiệm.
Câu 2. Năm nay, chị gái tôi đi học ở xa cũng tròn tuổi trăng rằm. Trước rằm tháng Giêng vài ngày, bà đã cho gọi chị về để hưởng tục lệ linh thiêng này. Đêm thiêng liêng ấy, chị tôi đi rồi, tôi tò mò theo chị để xem. Ra đến cổng, tôi gặp chị Ngàn. Chị Ngàn trạc tuổi như chị tôi. Chị bị mù từ nhỏ nhưng đẹp người đẹp nết. Mái tóc chị dài và óng mượt hiếm thấy. Lúc nào mái tóc ấy cũng thoang thoảng mùi của hoa bưởi, hoa nhài, hoa lan được chị kín đáo gài sau chiếc kẹp tóc. Chị làm bánh, làm mứt ngon nhất làng. Trông thấy chị lần bước ra đường, tôi hiểu chị cũng đi ra hồ như chúng bạn cùng trang lứa. Thương chị, tôi đến bên, dắt chị đi.
Trên đường đi. tôi hỏi chị:
- Chị Ngàn ơi, lát nữa chị định ước điều gì? Chị có thể cho em biết được không?
Chị Ngàn không trả lời tôi. Chị lặng lẽ nghĩ ngợi điều gì đó. Chắc chị cũng sẽ ước như bao cô gái khác: ước sao cho có một cuộc sống gia đình hạnh phúc. Chị tuy không lành lặn như những người khác nhưng đẹp người và chăm chỉ, khéo léo như vậy, chị đáng được hưởng hạnh phúc lắm chứ!
Ánh trăng bát ngát, dịu dàng đậu xuống trần gian. Mặt đất và mọi vật như được nhuộm một màu vàng trong trẻo. Dưới ánh trăng đẹp, tôi nhìn thấy gương mặt chị Ngàn vừa chứa đựng niềm vui thánh thiện, vừa có vẻ gì bí ẩn.
Câu 3. Chị em tôi ra tới hồ, dù có khá nhiều cô gái cùng tới đây nhưng không khí nơi này vẫn tĩnh mịch và chứa đầy vẻ thiêng liêng. Tôi đưa chị Ngàn đến mép hồ. Chị quỳ xuống. rồi từ từ đưa hai lòng bàn tay xuống mặt hồ “vốc” làn nước đẫm ánh trăng áp lên mặt. Ánh trăng lung linh hôn lên má, chảy lên tóc chị. Sau đó, chị chắp hai tay trước ngực, nén xúc động nói khẽ lời cầu nguyện linh thiêng của đời mình:
- Con ước gì... mẹ chị Yên.. bác hàng xóm bên nhà con được khỏi bệnh.
Nói xong, chị từ từ đứng dậy, gương mặt rạng rỡ hạnh phúc.
Tôi nhìn chị ngỡ ngàng: “Cả đời người chỉ được ước một lần, sao chị lại dành điều ước tốt lành cho bác hàng xóm?”
4. Tôi đưa chị Ngàn về trong lặng lẽ và phân vân. Gần đến nhà, chị Ngàn siết chặt tay tôi, nói: 
- Em ạ, nhà chị Yên xóm mình nghèo nhất làng. Năm ngoái, chị Yên tròn mười lăm tuổi. Đêm rằm tháng Giêng, mẹ chị ấy đổ bệnh nặng, chị ấy phải chăm sóc mẹ suốt đêm. Khi trăng lặn, biết mình không còn cơ hội nói điều ước thiêng liêng, chị ấy đã khóc như mưa. Nay mẹ chị ấy vẫn bệnh, chị ước thay cho chị Yên. Chị mồ côi mẹ nên chị hiểu nỗi bất hạnh khi không còn mẹ.
Tôi đã hiểu ra rồi. Chị Ngàn ơi, khi nào em mười lăm tuổi, em sẽ...
Theo Phạm Thị Kim Nhường 
Ý nghĩa: Những điều ước cao đẹp mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho mọi người.

18 tháng 10 2017

Em vết có dấu đi, chị ko hiểu

18 tháng 10 2017

1-b, c

2-a

3-e,d

4-b

18 tháng 10 2017

· Qua đồng ngả nón trônng đồng 

Đồng bao nhiêu lúa em thương chồng bấy nhiêu 

· Quan đình ngả nón trông đình 

Đình bao nhiêu ngói em thương mình bấy nhiêu 

· Chàng ơi phụ thiếp làm chi 

Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng 

· Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn 

Thuận be thuận bạn tát cạn biển đông 

· Rau tôm nấu với ruột bầu 

Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon 

· Đói lòng nằm gốc cây sung 

Chồng một thì lấy chồng chung thòi đừng 

· Tay bưng bát muối đĩa gừng 

Gừng cay muối mặn xin dừng quên nhau 

· Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo 

Ngũ lục giang cũng lội, thất bát đèo cũng qua 

· Thuyền về có nhớ bến chăng 

Bến thì một dạ khăng khănng đợi thuyền 

· Anh về mua gạch bát tràng 

Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân 

· Buôn có bạn, bán có phường 

Thuận bè thuận bạn tát cạn biển đông 

· Thua trời một vạn không bằng thua bạn một ly 

· Cha đời cái áo rách này 

Mất chúng mất bạ vì mày áo ơi 

· Bạn bè là nghĩa tương tri 

Sao cho sau trước một bề mới nên 

· Bạn vàng lại gặp bạn vàng 

Long, Lân, Quy, Phượng một đàn tứ linh 

· Ở chọn nơi, chơi chọn bạn 

· Lúc khó thì chẳng ai nhìn 

Đến khi đỗ trạng chín nghìn anh em 

· Thức lâu mới biết đêm dài 

Ở lâu mới biết lon lòng người có nhân 

· Khi vui thì vỗ tay vào 

Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai

18 tháng 10 2017

Lá lành đùm lá rách.

Một miếng khi đói bằng một gói khi no.

Một con ngựa đau , cả tàu bỏ cỏ.

Nhiễu điều phủ lấy giá gương,

Người trong một nước phải thương nhau cùng.

18 tháng 10 2017

trên mạng có bài mà

18 tháng 10 2017

Tả một đồ chơi mà con thích.Đề bài: Tả một đồ chơi mà con thích.Bài làmEm có rất nhiều nhưng trong đó chiếc trực thăng điều khuyển từ xa là em thích nhất. Chiếc máy bay rất mảnh mai và được sơn màu xanh da trời trông rất bắt mắt.Máy bay có bốncánh và được xếp làm hai tầng,khi bay cánh của máy bay xoai tít .Phần đuôi của máy bay có mộtchiếc cánh quạt nhỏ xíu giúp máy bay tiến và lùi được.Hai bên hông của bay được gắn hai chiếc tênlửa có đèn nhấp nháy nhiều màu sắc .Phần đầu của máy bay được thiết kế giống hình dáng đầu củamột chú chim giúp máy bay nhanh hơn .Chiếc máy bay có thể bay được độ cao cách mạt đất 5cm. Em rất thích chiếc máy bay này .Em sẽ giữ gìn nó thật cẩn thận

18 tháng 10 2017

- Bàn tay em bị chảy máu.

- Em có rất nhiều hoa tay.

18 tháng 10 2017

- Tay của em bé rất nhỏ .

- Em không có hoa tay .

20 tháng 10 2017

minhf cũng vậy

17 tháng 10 2017

OK kb luôn

17 tháng 10 2017
  • A hành ác nghiệtAnh em như thể tay chân
Rách lành đùm bọc dở hay đở đần
  • Ao có bờ sông có bến
Ă[sửa]
  • Ăn cây nào rào cây nấy
  • Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau
  • Ăn cơm có canh như tu hành có bạn
  • Ăn cơm không rau như nhà giàu chết không nhạc
  • Ăn cơm mới, nói chuyện cũ
  • Ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng
  • Ăn đầu sóng, nói đầu gió
  • Ăn không lo của kho cũng hết
  • Ăn kĩ no lâu, cày sâu tốt lúa
  • Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
  • Ăn khoai nhớ kẻ cho dây mà trồng
  • ăn ốc đổ vỏ
  • Ăn theo thuở, ở theo thời
  • Ăn trông nồi ngồi trông hướng
  • Ăn vóc học hay
  • Ăn chắc mặc bền
  • Ăn quả nhớ kẻ trồng cây; ăn gạo nhớ kẻ đâm,xay,giần,sàngĂn trái nhớ kẻ trồng cây
Uống nước nhớ người đào giếng.Â[sửa]
  • Ân trả nghĩa đền
B[sửa]
  • Bạn bè con chấy cắn đôi
  • Bạn bè là nghĩa tương tri
  • Bán anh em xa, mua láng giềng gần
  • Bè ai người ấy chống
  • Bè thì bè lon, sào thì sào sậy
  • Bé đi câu, lớn đi hầu, già đi hỏi nợ
  • Bé người con nhà bác, lớn xác con nhà người
  • Bé người to con mắt
  • Buôn có bạn, bán có phường
  • Bụt chùa nhà không thiêng
  • Bắt con cá lóc nướng chui
C[sửa]
  • Có chí thì nên.
  • Cây có cội, nước có nguồn.
  • Có công mài sắt, có ngày nên kim.
  • Cái răng, cái tóc là gốc con người.
  • Cái kim trong bọc cũng có ngày lòi ra
  • Con trâu là đầu cơ nghiệp
  • Cái khó ló cái khôn
  • Cần cù bù thông minh
  • Có lá lốt chớ phụ xương xông, có chùa bên Bắc đừng để miếu bên Đông tồi tàn, có bát sứ chớ phụ bát đàn, có nồi cơm nếp đừng phụ khoai lang củ từ
  • Con dại cái mang
  • Con hơn cha là nhà có phúc
  • Cờ bí dí tốt
  • Cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt
  • Con có cha như nhà có nóc, con không cha như nòng nọc đứt đuôi
  • Có cứng mới đứng đầu gió
  • Chuyện bé xé ra to
  • Chị ngã em nâng
  • Cọp chết để da, người ta chết để tiếng
  • Chó treo mèo đậy
  • Chơi dao có ngày đứt tay
  • Có công mài sắt có ngày nên kim
  • Cười người chẳng nghĩ đến thân, thử sờ lên gáy xem xa hay gần[cần chú thích]
  • Cho tôi tôi chọn hoa hồng
Cho tôi chọn bạn tấm lòng thủy chung
  • Của một đồng công một nén
  • Chớ thấy sóng cả, mà ngã tay chèo
  • Cây ngay không sợ chết đứng
  • Chết vinh còn hơn sống nhục
  • Chết đứng còn hơn sống quỳ
D[sửa]
  • Dao sắc không gọt được chuối
  • Dục tốc bất đạt.
Đ[sửa]
  • Đang yên đang lành lại cắm mảnh sành vào đít.
  • Đất lành chim đậu.
  • Đất lở chim bay
  • Đời cha ăn mặn đời con khát nước.
  • Đói cho sạch, rách cho thơm.
  • Đa sầu đa mang.
  • Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng, ngày tháng mười chưa cười đã tối.
  • Đâm bị thóc, chọc bị gạo
  • Đi thưa về gửi.
  • Đi đến nơi về đến chốn.
  • Đi một ngày đàng học một sàng khôn
  • Đèn nhà ai nhà nấy rạng.
  • Đèn nhà bên sáng,gà nhà ta thức
  • Đầu năm sương muối, cuối năm gió nồm.
  • Đồng tiền đi liền khúc ruột .
  • Đất có lề, quê có thói.
  • Đi chơi mất chỗ đi ăn cỗ mất phần
  • Được mùa cau đau mùa lúa
G[sửa]
  • Gái có chồng như Rồng có Vây, gái không chồng như Cối Xay không Ngõng
  • Gái có chồng như Gông đeo cổ, trai có vợ như rợ buộc chân
  • Gieo gió gặt bão
  • Góp gió thành bão
  • Gieo nhân nào , gặt quả nấy
  • Giấy rách phải giữ lấy lề
  • Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng
  • Giận quá mất khôn
  • Gừng càng già càng cay.
  • Ghét của nào trời trao của nấy
  • Gạn đục, khơi trong.
  • Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh.
  • Giỏ nhà ai quai nhà nấy
  • Giống rồng lại đẻ ra rồng
  • Gà què ăn quẩn cối xay
  • Gậy ông đập lưng ông
Ê[sửa]K[sửa]
  • Khôn ăn cái, dại ăn nước.
  • Khôn đâu tới trẻ, khỏe đâu tới già.
  • Khôn không qua lẽ, khỏe chẳng qua lời.
  • Khôn nhà dại chợ
  • Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm.
  • Không làm sao nên.
  • Kính già, già để tuổi cho.
  • Kính lão đắc thọ.
  • Kính trên nhường dưới.
  • Khi yêu trái ấu cũng tròn, ghét nhau bồ hòn cũng méo.
  • Không có lửa làm sao có khói.
  • Kẻ cắp gặp bà già.
  • Không thầy đố mày làm nên.
  • Kính thầy yêu bạn.
  • Khỏi vòng cong đuôi.
  • Kiến tha lâu cũng đầy tổ.
  • Kiến đen tha trứng lên cao, thế nào cũng có mưa rào rất to.
  • Khăng khăng quân tử một lời nhất ngôn.
L[sửa]
  • Lá rụng về cội
  • Lá lành đùm lá rách.
  • Lên thác xuống ghềnh
  • Liệu cơm gắp mắm.
  • Lùi một bước tiến ngàn dặm.
  • Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén.
  • Lù đù vác cái lu mà chạy.
  • Lửa thử vàng gian nan thử sức.
  • Lựa gió xoay chiều.
  • Lắm kẻ yêu hơn nhiều người ghét.
  • Lấy oán báo oán, oán nợ chất chồng/Lấy đức báo oán, oán tự khắc giải.
M[sửa]
  • Muôn người như một ăn cột mà ra
  • Một điều nhịn chín điều lành.
  • Một giọt máu đào hơn ao nước lã.
  • Môi hở, răng lạnh.
  • Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ.
  • Một con chim én không làm nên mùa xuân.
  • Một câu nhịn, chín câu lành.
  • Mất lòng trước, được lòng sau.
  • Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ.
  • Mật ngọt chết ruồi.
  • Mạnh vì gạo, bạo vì tiền.
  • Miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời.
  • Một miếng khi đói bằng một gói khi no.
  • Muốn ăn thì lăn vào bếp.
  • Muốn lành nghề, chớ nề học hỏi.
  • Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học.
  • Một kho vàng không bằng một nang chữ.
  • Một mặt người bằng mười mặt của.
  • Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa.
  • Mềm nắn, rắn buông.
  • Mềm quá thì yếu, cứng quá thì gãy.
  • Mèo nhỏ bắt chuột con.
  • Mía ngọt đánh cả cụm.
  • Một người lo bằng kho người làm.
  • Một thằng tính bằng chín thằng làm.
  • Một lần ngại tốn, bốn lần chẳng xong.
  • Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy.
  • Một nghề cho chín còn hơn chín nghề.
  • Mũi dại, lái phải chịu đòn.
  • Muốn ăn cá cả phải thả câu dài.
  • Mưu sự tại nhân hành sự tại thiên.
  • Mẹ hát, con khen hay.
  • Mưa thuận gió hòa
N[sửa]
  • Năng làm thì nên.
  • Nước chảy về nguồn, lá rụng về cội.
  • Nước lã không khuấy nên hồ.
  • Nước lã mà vã nên hồ
  • Nước đến chân mới nhảy

Tay không làm nổi cơ đồ mới ngoan

  • Nước chảy đá mòn.
  • Nói có sách, mách có chứng.
  • Nói lời phải giữ lấy lời.
  • No mất ngon, giận mất khôn.
  • No bụng đói con mắt.
  • Năng nhặt chặt bị.
  • Nó lú có chú nó khôn.
  • Nói thì hay, bắt tay thì dở.
  • Nước chảy, hoa trôi, bèo dạt.
  • Nuôi lợn ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng.
  • Nước lã mà vã nên hồ, tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan.
  • Nói hay hơn hay nói.
  • Nói người phải nghĩ đến ta, sờ vào sau gáy xem xa hay gần.
  • Nói người phải nghĩ đến thân, sờ vào sau gáy xem gần hay xa.
  • Nam thực như hổ, nữ thực như miêu.
  • Nôm na là cha mánh khóe.
NH[sửa]
  • Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm
  • Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột
  • Nhất thì, nhì thục
  • Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.
  • Nhất canh trì, nhị canh viên, tam canh điền.
  • Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò
  • Nhân chi sơ tính bổn thiện
  • Những người cặp mắt lá răm, đôi mày lá liễu đáng trăm quan tiền.
  • Nhìn bụng ta, suy ra bụng người.
  • Nhất tự vi sư, bán tự vi sư
  • Nhường cơm sẻ áo.
  • Nhất cận thị, nhị cận giang
NG[sửa]
  • Người sống đống vàng.
  • Nghèo sinh bệnh, giàu sinh tật.
  • Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân.
  • Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã.
  • Ngồi mát ăn bát vàng.
  • Ngọt như mía lùi.
  • Ngọt mật chết ruồi.
  • Người ta là hoa là đất
  • Nói Sơn Tây chết cây Hà Nội
O[sửa]
  • Oán không giải được oán
  • Oan có đầu, nợ có chủ
  • Oan oan tương báo , dỉ hận liên miên
  • Oán thù nên giải không nên kết
  • Oan gia ngõ hẹp
Ô[sửa]
  • Ông thò chân giò, bà thò nậm rượu
  • Ông ăn nem bà ăn chả
Ơ[sửa]
  • Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác
  • Ở nhà nghe Đông Hà lúa héo
  • Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.
  • Ở xó chuồng heo,hơn là theo phía vợ
P[sửa]
  • Phép vua thua lệ làng.
  • Phòng bệnh hơn chữa bệnh.
  • Phúc bất trùng lai, hoạ vô đơn chí.
  • Phú quý sinh lễ nghĩa
Q[sửa]
  • Quân tử phòng thân; tiểu nhân phòng bị, gậy.
  • Quân tử nhất ngôn kí xuất, tứ mã nan truy
  • Quỷ tha, ma bắt
  • Quả báo nhãn tiền
  • Quan nhất thời, dân vạn đại
  • Quýt làm cam chịu
  • Qua cầu rút ván
  • Quân tử trả thù mười năm chưa muộn
R[sửa]
  • Rao ngọc bán đá
  • Ráng mỡ gà có nhà thì giữ.
  • Ráng mỡ gà thì gió , ráng mỡ chó thì mưa.
  • Rau nào sâu nấy.
  • Ruộng bề bề chẳng bằng nghề trong tay.
  • Rừng không hai cọp, nước không hai vua
  • Rừng nào cọp nấy
  • Rừng vàng biển bạc
S[sửa]
  • Sinh nghề tử nghiệp
  • Sinh lão bệnh tử
  • Sông có khúc, người có lúc
  • Sóng Trường Giang, sóng sau đập sóng trước
  • Sông sâu còn có kẻ dò, đố ai lấy thước mà đo lòng người
  • Sai một li đi một dặm
  • Sông sâu sóng cả chớ ngã tay chèo
  • Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó
  • Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.
  • Tấc đất tấc vàng
  • Tai vách mạch rừng.
  • Tẩm ngẩm tầm ngầm mà đấm chết voi
  • Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ.
  • Té nước theo mưa.
  • Tình thương quán cũng là nhà, lều tranh có nghĩa hơn tòa ngói cao.
  • Tiên học lễ hậu học văn
  • Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống.
  • Tiền vào quan như than vào lò
  • Tiền nào của đó
  • Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người
  • Tôm đi chạng vạng, cá đi rạng đông.
  • Tốt danh hơn lành áo.
TH[sửa]
  • Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lại lụt
  • Tham giàu phụ khó, tham sang phụ phần
  • Tham giàu phụ ngải
  • Tham phú phụ bần
  • Thất bại là mẹ thành công
  • Thật thà là cha dại.
  • Thật thà ăn cháo, láo nháo ăn cơm
  • Thắng làm vua thua làm giặc
  • Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn.
  • Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi
  • Thua thầy một vạn không bằng kém bạn một li
  • Thân sâu hồn bướm
  • Thua keo này bày keo khác
  • Tháng hai trồng cà, tháng ba trồng đỗ.
  • Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa
  • Trăm đường tránh không khỏi số.
  • Trăm hay không bằng tay quen.
  • Trăm nghe không bằng một thấy.
  • Trăm năm bia đá cũng mòn, nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.
  • Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa.
  • Trăm người bán vạn người mua.
  • Trâu buộc ghét trâu ăn.
  • Trâu cột ghét trâu ăn.
  • Tre già măng mọc.
  • Tránh voi chẳng xấu mặt nào.
  • Trong cái khó lại ló cái khôn.
  • Trống làng nào làng ấy đánh.
U[sửa]
  • Uống nước nhớ nguồn
Ư[sửa]V[sửa]
  • Vỏ quýt dày có móng tay nhọn
  • Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm
  • Việc nước trước việc nhà.
  • Vụng chèo khéo chống
  • Vào sinh ra tử
  • Vắt chanh bỏ vỏ
X[sửa]
  • Xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ
  • Xôi hỏng bỏng không
  • Xa thương, gần thường
  • Xem bói ra ma, quét nhà ra rác
  • Xởi lởi trời cho, so đo trời lấy lại
Y[sửa]
  • Yêu nhau lắm, cắn nhau đau
  • Yêu nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười
  • Yêu trẻ, trẻ đến nhà; kính già, già để tuổi cho.
  • Yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng
  • Yêu nhau vạn sự chẳng nề, dẫu trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng
  • Yêu nhau xa cũng nên gần, ghét nhau cách một bàn chân cũng lìa
  • P/s : bn tham khảo nha
  • chúc các bn học tốt !
17 tháng 10 2017

 TỤC NGỮ: 
- Luyện mãi thành tài, miệt mài tất giỏi. 
- Học ăn học nói, học gói học mở. 
- Học hay cày biết. 
- Học một biết mười. 
- Học thầy chẳng tầy học bạn. 
- Học thầy học bạn, vô vạn phong lưu. 
- Ăn vóc học hay. 
- Bảy mươi còn học bảy mươi mốt. 
- Có cày có thóc, có học có chữ. 
- Có học, có khôn. 
- Dao có mài mới sắc, người có học mới nên. 
- Dẫu rằng thông hoạt, chẳng học cũng hư đời, tài chí bằng trời, chẳng học cũng là phải khổ. 
- Dốt đặc còn hơn hay chữ lỏng. 
- Dốt đến đâu học lâu cũng biết. 
- Đi một ngày đàng học một sàng khôn. 
- Hay học thì sang, hay làm thì có. 
- Học để làm người. 
- Học hành vất vả kết quả ngọt bùi. 
- Học khôn đến chết, học nết đến già. 
CA DAO: 
- Học là học biết giữ giàng 
Biết điều nhân nghĩa biết đàng hiếu trung. 
- Làm người mà được khôn ngoan 
Cũng nhờ học tập mọi đường mọi hay 
Nghề gì đã có trong tay 
Mai sau rồi cũng có ngày ích to. 
- Học là học để làm người 
Biết điều hơn thiệt biết lời thị phi. 
- Học trò học hiếu học trung 
Học cho đến mực anh hùng mới thôi. 
- Học là học để mà hành 
Vừa hành vừa học mới thành người khôn. 
- Ngọc kia chẳng giũa chẳng mài 
Cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc đi. 
DANH NGÔN: 
- Không những phải học ở sách, mà còn phải học ở cuộc sống nữa. 
( N. CRÚP-XCAI-A ) 
- Học, học nữa, học mãi. 
( V.I.LÊ-NIN ) 
- Bất kì người nào tôi gặp cũng có chỗ hơn tôi, đáng cho tôi học. 
( PA-SCAN ) 
- Chúng ta phải tiếp thu và học tập ở những người đi trước chúng ta và cả những người đồng thời với chúng ta. Ngay cả thiên tài cực kì vĩ đại cũng không thể tiến xa được nếu chỉ muốn lấy mọi thứ từ thế giới nội tâm của riêng mình. 
( G. GỚT ) 
- Con người phải suốt đời trau dồi cho mình có kiến thức ngày càng rộng thêm. 
( A. LU-NA-SÁC-XKI ) 
- Người học trò mà không định vượt thầy thì thật đáng thương. 
( LÊ-Ô-NA ) 
- Người hỏi về điều mình chưa biết là nhà bác học; người xấu hổ không dám hỏi là kẻ thù của chính mình. 
( A. NA-VÔI )