I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4 ĐIỂM)
Đọc văn bản sau:
(Tóm tắt phần đầu: Hoàng triều về đời niên hiệu Vĩnh Thịnh có một vị tiến sĩ tên Đinh Hoàn, người làng An Ấp tỉnh Nghệ An. Vợ thứ của ông vốn là con quan họ Nguyễn, tính tình đoan trang, giỏi may vá, lại có tài thơ phú nên ông vừa yêu vừa kính trọng. Năm Ất Tỵ, triều đình cử ông làm sứ thần đi Trung Quốc kết mối bang giao. Vợ chồng chia tay đầy bịn rịn, nước mắt người vợ tràn xuống như mưa. Người chồng đi sứ, gặp thời tiết mùa đông lạnh giá, bị cảm hàn, bệnh ngày càng trầm trọng và mất vào đêm 30 tháng Chạp, lòng vẫn mang nặng nỗi u hoài vì không làm trọn vẹn việc nước. Người vợ từ khi chồng đi xa, lòng lo buồn mà sinh bệnh. Mối u sầu phát ra văn thơ, có đến hơn 30 bài. Khi biết tin chồng mất thì có ý quyên sinh, người nhà hết lời khuyên nhủ.).
Người nhà khuyên giải không ăn thua gì có ý đề phòng cẩn thận không rời phu nhân một bước. Một hôm, phu nhân đốt đèn ngồi một mình, khi ấy là mùa thu muộn, gió vàng hiu hắt, cây khuya xào xạc, sâu tường nỉ non, tiếng đập vải lạnh lùng như giã vào lòng người cô phụ, trăng suông như rọi vào giọt lệ Vương Sinh. Nỗi thương tâm khiến phu nhân đờ đẫn, nhìn đâu cũng toàn thấy âu sầu. Phu nhân càng thêm thê thảm, gục xuống bàn mà nức nở khiến cõi lòng chìm sâu vào cõi đê mê. Trong cơn dật dờ đó thấy một người khăn vuông đai rộng từ xa tới gần, nhìn kĩ hóa ra là chính chồng vậy. Phu nhân đón chào, mừng quá chảy nước mắt mà rằng:
– Từ khi cách biệt đã bốn năm rồi, biết bao nỗi sầu bi, mộng hồn tản mát, không nơi nào là không tìm tung tích lang quân, ấy thế mà lang quân chẳng có đoái hoài gì đến thiếp. Nếu bảo rằng trần gian và thiên thượng hai nơi cách biệt, thì sao Thuấn phi (1) có hội ngộ, Chức Nữ (2) lại tương phùng, vậy lang quân đối với thiếp rất là bạc tình.
Ông buồn nét mặt mà rằng:
– Ta từ khi về chầu thiên đình, được trông coi về việc bút nghiên, nơi thiên tào công việc nhiều, không có thì giờ đến thăm nàng, còn tấm lòng khăng khít thủy chung không bao giờ thay đổi.
Phu nhân muốn lưu ông ở lại tự tình. Ông vỗ về nói:
– Chết sống là lẽ thường xưa nay, hợp tan là tuần hoàn việc thế. Vị Ngọc Tiên (3) có duyên tái hợp, Dương Thái Chân (4) cơ ước lai sinh. Nàng không cần phải bi phiền về nỗi hạc lánh gương tan, cái ngày chúng ta gặp nhau gần đến rồi.
Nói xong, có một trận thanh phong, không biết ông biến đi đâu mất. Phu nhân thương khóc chợt tỉnh dậy, sai thị nữ ra xem trời đất chỉ thấy sương mù trắng mờ, đêm đã gần sáng rồi.
Từ đó phu nhân lại càng có ý chán đời, nhưng chưa có dịp. Đến ngày lễ tiểu tường (5) ông, người nhà bận việc, phu nhân ở trong buồng xé cái áo mà ông tặng ngày trước tự thắt cổ chết. Đến khi người nhà biết thì phu nhân đã tắt thở rồi. Cả nhà thương cảm, tống táng theo lễ. Việc ấy tâu lên, triều đình cho lập đền thờ, đề bảng nêu ra cửa, khắc chữ “Trinh liệt phu nhân từ”, ban cấp tế điền, bốn mùa có tế lễ, người làng cầu đảo đều có linh ứng.
(Trích Người liệt nữ ở An Ấp, Truyền kì tân phả, Đoàn Thị Điểm, in trong cuốn Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập 1, Nguyễn Đăng Na giới thiệu và tuyển soạn, NXB Giáo dục, 1997, tr 344-357)
Chú thích:
(1) Thuấn phi: vợ vua Thuấn, Nga Hoàng và Nữ Anh hai chị em (con vua Nghiêu) đều lấy Thuấn, khi mất làm thần sông Tương.
(2) Chức Nữ: tích Ngưu Lang Chức Nữ, hàng năm được gặp nhau một lần vào ngày mồng 7 tháng 7.
(3) Vị Ngọc Tiên: đời Đường, Vị Cao lúc hàn vi, ở trọ nhà họ Khương, chung tình với nàng Ngọc Tiên. Cao tặng nàng một cái vòng tay, hẹn 7 năm đến cưới làm vợ. Quá hạn không đến, nàng tự sát. Cách đó 13 năm, Cao được làm Tiết độ sứ Ba Thục, có người dâng một ca sĩ rất đẹp tên là Ngọc Tiên, Cao nhận rõ diện mạo y như nàng Ngọc Tiên ngày trước.
(4) Dương Thái Chân: Dương Quý phi bị chết ở núi Mã Ngôi, sau lại tái sinh cùng Đường Minh Hoàng kết làm vợ chồng lần nữa.
(5) Lễ tiểu tường: lễ tang chẵn một năm, cũng gọi là luyện tế.
Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):
Câu 1. Chỉ ra một số đặc trưng của thể loại truyền kì được thể hiện trong văn bản.
Câu 2. Chỉ ra 3 điển tích, điển cố được sử dụng trong văn bản.
Câu 3. Nêu cảm nhận của anh/chị về tâm trạng của người vợ trong được thể hiện trong lời thoại sau.
Phu nhân đón chào, mừng quá chảy nước mắt mà rằng:
– Từ khi cách biệt đã bốn năm rồi, biết bao nỗi sầu bi, mộng hồn tản mát, không nơi nào là không tìm tung tích lang quân, ấy thế mà lang quân chẳng có đoái hoài gì đến thiếp. Nếu bảo rằng trần gian và thiên thượng hai nơi cách biệt, thì sao Thuấn phi có hội ngộ, Chức Nữ lại tương phùng, vậy lang quân đối với thiếp rất là bạc tình.
Câu 4. Chủ đề của văn bản là gì?
Câu 5. Thông qua hành động, lời nói của nhân vật người vợ, anh/chị có nhận xét gì về vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam xưa và nay?
Câu 1:
Đoạn trích trên được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú (mỗi câu có 8 chữ, theo thể thơ truyền thống của văn học Việt Nam).
Câu 2:
Trong hai dòng thơ:
Các tiếng hiệp vần với nhau là:
Câu 3:
Từ "thơ thẩn" có nghĩa là lang thang, đi một cách không có mục đích rõ ràng, thể hiện sự nhẹ nhàng, thư thái, và có thể mang nét u buồn trong cuộc sống hoặc phong cảnh.
Câu 4:
Hai dòng thơ này sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa:
Biện pháp nhân hóa giúp tạo ra hình ảnh sống động, làm cho dòng sông và ánh nắng trở thành những nhân vật có sức sống, đầy cảm xúc, từ đó làm cho thiên nhiên trở nên sinh động và gần gũi hơn với người đọc.
Câu 5:
Nội dung chính của đoạn trích là miêu tả vẻ đẹp của dòng sông qua sự thay đổi của thiên nhiên trong ngày, từ sáng đến chiều. Đoạn thơ thể hiện sự trong trẻo, thanh bình và tươi mới của dòng sông và cảnh vật xung quanh.
Câu 6:
Từ cảm nhận về vẻ đẹp của dòng sông, em thấy mình cần bảo vệ môi trường, giữ gìn vẻ đẹp thiên nhiên bằng cách:
Câu 1: Đoạn trích trên thuộc thể thơ ục bát
Câu 2: Từ "mây" ở dòng lục hiệp với từ "hây" dòng bát
Câu 3: Từ "thơ thẩn"trong đoạn trích trên có nghĩa là mơ màng, như là đang nghĩ ngợi gì đó
Câu 4: Trong hai dòng thơ sau, tác giả đã thành công sử dụng nghệ thuật nhân hóa. Tác giả đã làm cho câu thơ trở tăng sức gợi hình, gợi cảm khiến cho hình ảnh dòng sông trở nên gần gũi, sống động và có hồn giống con người. Từ đó, gợi cho tác giả tình cảm yêu mến, tự hào về vẻ đẹp của dòng sông.
Câu 5: Nội dung của bài thơ trên là: Vẻ đẹp của dòng sông
Câu 6: Từ cảm nhận về vẻ đẹp của dòng sông, em thấy mình cần làm những việc sau để bảo vệ môi trường, thiên nhiên là:
+ Không vứt rác bừa bãi, không đúng nơi quy định
+ Tuyên truyền nâng cao ý thức của con người về việc bảo vệ môi trường
+ Hạn chế sử dụng núi nilon, sử dụng các vật dụng có thể tái chế
+ Tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên