Hai cậu bé mỗi người đi một chiếc xe đạp và bắt đầu đi thẳng về phía nhau từ hai nơi cách nhau 20 dặm. Ngay lúc họ bắt đầu, một con ruồi trên tay lái của một chiếc xe đạp bắt đầu bay thẳng về phía chiếc xe đạp kia. Vừa chạm tới tay lái của chiếc xe đạp kia, nó lập tức quay đầu bay về phía sau. Con ruồi bay tới bay lui như thế, bay qua bay lại giữa tay lái của hai chiếc xe đạp cho đến khi hai chiếc xe đạp gặp nhau. Nếu mỗi chiếc xe đạp di chuyển với tốc độ không đổi 5 dặm/h và con ruồi bay với tốc độ không đổi 10 dặm/h thì con ruồi bay tổng cộng bao nhiêu dặm?
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Bạn để đúng lớp nhé. Một số ảnh bạn tham khảo. Nguồn: Internet
a. Gọi H là giao điểm của tia phản xạ OH với gương. Khi đó, OH là tia phản xạ của tia AB. Theo tính chất của gương phẳng, ta có: OH = AB = 1,7m và ·OAH = ·OHB. Do đó, tam giác OAH vuông cân tại H và AH = 0,85m. Gọi I là trung điểm của AH, K là trung điểm của MN. Khi đó, IK vuông góc với MN và IK = 0,85m. Do đó, chiều cao tối thiểu của gương là MN = 2.IK = 1,7m.
b. Gọi E là giao điểm của tia phản xạ OE với gương. Khi đó, OE là tia phản xạ của tia AC. Theo tính chất của gương phẳng, ta có: OE = AC = 0,69m và ·OAE = ·OEC. Do đó, tam giác OAE vuông cân tại E và AE = 0,345m. Gọi J là trung điểm của AE, L là trung điểm của MN. Khi đó, JL vuông góc với MN và JL = 0,345m. Do đó, khoảng cách từ mép dưới của gương đến sàn nhà là ML = LK - JL = 0,85 - 0,345 = 0,505m.
c. Gọi F là giao điểm của tia phản xạ OF với gương. Khi đó, OF là tia phản xạ của tia AD. Theo tính chất của gương phẳng, ta có: OF = AD = 1,7m và ·OAD = ·OFD. Do đó, tam giác OAD vuông cân tại F và AF = 0,85m. Gọi G là trung điểm của AF, N là trung điểm của MN. Khi đó, GN vuông góc với MN và GN = 0,85m. Do đó, khoảng cách từ điểm C đến sàn nhà là CN + NL + LM = CD + DL + LM = (MN - MD) + (MK - GN) + ML = (1,7 - 0,85) + (0,85 - 0,85) + 0,505 = 1,355m.
d. Gọi S là mép dưới của gương và T là mép trên của gương khi nghiêng với tường một góc α nhỏ nhất sao cho người thấy được chân mình trong gương. Khi đó:
- Tia SA phản xạ thành tia AT sao cho ·SAT = α.
- Tia SB phản xạ thành tia BT sao cho ·SBT = α.
- Tia SC phản xạ thành tia CT sao cho ·SCT = α.
- Tia SD phản xạ thành tia DT sao cho ·SDT = α.
Theo quy tắc Descartes cho gương phẳng nghiêng:
- sin(·OAS) / sin(·OAT) = sin(α) / sin(90° - α)
- sin(·OBS) / sin(·OBT) = sin(α) / sin(90° - α)
- sin(·OCS) / sin(·OCT) = sin(α) / sin(90° - α)
- sin(·ODS) / sin(·ODT) = sin(α) / sin(90° - α)
Do đó:
OAS = ·OAT = α
OBS = ·OBT = α
·OCS = ·OCT = α
·ODS = ·ODT = α
Từ đó suy ra:
- OS = OA.sin(α) = 0,69.sin(α)
- OT = OA.sin(90° - α) = 0,69.cos(α)
- ST = OA.sin(90°) = 0,69
- BS = AB.sin(α) = 1,7.sin(α)
- BT = AB.sin(90° - α) = 1,7.cos(α)
Để người thấy được chân mình trong gương thì điều kiện cần và đủ là:
- BS + ST ≥ AB
- BT + ST ≥ AC
Từ hai bất đẳng thức trên, ta có:
- 1,7.sin(α) + 0,69 ≥ 1,7
- 1,7.cos(α) + 0,69 ≥ 0,69
Giải hệ bất đẳng thức trên, ta được:
- sin(α) ≥ 0,6
- cos(α) ≥ 0
Do đó:
- α ≥ arcsin(0.6)
- α ≥ 0
Vậy góc nghiêng nhỏ nhất của gương là α = arcsin(0.6) ≈ 36.87°.
Tốc đọ trung bình trong 1 chu kì
\(\left|v\right|=\dfrac{4A}{T}=\dfrac{2A\omega}{\pi}\)
Phương trình li độ vật : \(x=A.\cos\left(\omega t+\varphi\right)\) (*)
Phương trình vận tốc vật : \(v=-A.\omega.\sin\left(\omega t+\varphi\right)\) (**)
Từ (**) và (*) ta có \(\dfrac{x^2}{A^2}+\dfrac{v^2}{A^2.\omega^2}=1\Leftrightarrow v^2=\omega^2\left(A^2-x^2\right)\)
Dựa vào đồ thị ta thấy thế năng tại \(v_1=-9\pi\) (cm/s) bằng
động năng tại \(v_2=12\pi\) (cm/s)
Gọi \(x_1,x_2\) lần lượt là li độ vật đạt vận tốc \(v_1,v_2\)
Ta có : \(W_{t\left(x_1\right)}=W_{đ\left(x_2\right)}\)
\(\Leftrightarrow\dfrac{1}{2}mA^2.\omega^2-\dfrac{1}{2}m.\omega^2\left(A^2-x_1^2\right)=\dfrac{1}{2}m.\omega^2\left(A-x_2^2\right)\)
\(\Leftrightarrow x_1^2+x_2^2=A^2\)
Lại có \(v_1^2=\omega^2\left(A^2-x_1^2\right);v_2^2=\omega^2\left(A^2-x_2^2\right)\)
Cộng vế với vế ta được \(v_1^2+v_2^2=\omega^2A^2=\left(15\pi\right)^2\Leftrightarrow A\omega=15\pi\)
\(\Rightarrow\left|v\right|=30\)(cm/s)
Tốc độ trung bình của vật trong 1 chu kì là :
\(\dfrac{9\pi+12\pi}{2}=\dfrac{21\pi}{2}\left(cm/s\right)\)
Trong các nhà thờ cổ, mái vòm và hình dạng thuôn dài của nó có một số lợi ích thiết kế. Dưới đây là một số lý do phổ biến:
1 Tính thẩm mỹ: Mái vòm và hình thuôn dài tạo ra một diện mạo trang trọng và ấn tượng cho các nhà thờ cổ. Hình dạng này thường được coi là đẹp và mang tính tượng trưng cao.
2 Kỹ thuật xây dựng: Mái vòm giúp phân phối trọng lực đều trên toàn bộ diện tích mái nhà thờ, giúp gia cố cấu trúc và chống lại các tác động từ môi trường bên ngoài như gió, mưa, tuyết, và sự rung động. Đồng thời, mái vòm cũng tạo không gian rộng mở bên trong nhà thờ, tạo cảm giác trang nhã và linh thiêng.
3 Âm thanh: Thiết kế mái vòm và hình thuôn dài có khả năng tăng cường hiệu quả âm thanh trong nhà thờ. Hình dạng này giúp phản xạ âm thanh tốt hơn và lan tỏa đều, tạo ra một khung cảnh âm thanh trầm ấm và tuyệt vời cho các nghi lễ tôn giáo.
4 Tượng trưng: Mái vòm và hình dạng thuôn dài cũng có ý nghĩa tượng trưng. Nó thể hiện sự kính trọng, sự tiếp cận tới trời cao và sự gần gũi với thần thánh.
Những yếu tố này đã làm cho mái vòm và hình dạng thuôn dài trở thành một phong cách thiết kế phổ biến trong kiến trúc của các nhà thờ cổ.