K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

16 tháng 7
  • Các biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn trích là: miêu tảliệt kê.
  • Tác dụng:
    - Biện pháp miêu tả giúp khắc họa rõ hình ảnh người ăn xin già yếu, tội nghiệp (đôi mắt đỏ hoe, nước mắt giàn giụa, đôi môi tái nhợt, áo quần tả tơi), từ đó gợi lên sự thương cảm, xót xa trong lòng người đọc.
    - Biện pháp liệt kê (túi nọ, túi kia; không có lấy một xu, không có cả khăn tay, chẳng có gì hết) làm nổi bật hoàn cảnh khó khăn, bối rối của nhân vật “tôi” khi không có gì để giúp đỡ, đồng thời thể hiện sự chân thật và xúc động của câu chuyện.

Kết luận: Các biện pháp tu từ trên góp phần bộc lộ sâu sắc tình cảm yêu thương, đồng cảm giữa con người với con người trong hoàn cảnh khốn khó.

(Tóm tắt phần đầu: Từ Nhị Khanh vốn con nhà nghèo, kết duyên cùng Phùng Trọng Quỳ, con quan Thiêm thư giàu có. Nhị Khanh tuy hãy còn nhỏ, nhưng sau khi về nhà họ Phùng biết cư xử rất khéo, được mọi người ta khen là người nội trợ hiền. Trọng Quỳ lớn lên, dần sinh ra chơi bời lêu lổng; Nhị Khanh thường vẫn phải can ngăn. Trọng Quỳ cùng cha vào vùng đất Nghệ An cai trị 6 năm trời không...
Đọc tiếp

(Tóm tắt phần đầu: Từ Nhị Khanh vốn con nhà nghèo, kết duyên cùng Phùng Trọng Quỳ, con quan Thiêm thư giàu có. Nhị Khanh tuy hãy còn nhỏ, nhưng sau khi về nhà họ Phùng biết cư xử rất khéo, được mọi người ta khen là người nội trợ hiền. Trọng Quỳ lớn lên, dần sinh ra chơi bời lêu lổng; Nhị Khanh thường vẫn phải can ngăn. Trọng Quỳ cùng cha vào vùng đất Nghệ An cai trị 6 năm trời không tin tức gì, Nhị Khanh ở nhà thủ tiết chờ chồng, “quyết không mặc áo xiêm của chồng để đi làm đẹp với người khác”. Sau Nhị Khanh nhờ người bõ già lặn lội vào tận Nghệ An hỏi thăm tin tức mới hay cha chồng đã mất được mấy năm rồi, vì Trọng Quỳ ham chơi nên gia sản sạch sành sanh. Trọng Quỳ về đến nhà, vợ chồng mừng rỡ, cùng trông nhau mà khóc.)

Song Phùng sinh vì quen thân phóng lãng, thuộc tính chơi bời, về nhà ít lâu rồi nết cũ lại đâu đóng đấy, hằng ngày cùng người lái buôn là Đỗ Tam bê tha lêu lổng. Sinh thì thích Đỗ có tiền nhiều. Đỗ thì ham sinh có vợ đẹp. Những khi uống rượu với nhau rồi đánh bạc, Đỗ thường lấy lợi nhử sinh. Sinh đánh lần nào cũng được, thấy kiếm tiền dễ như thò tay vào túi mình lấy đồ vật vậy. Nhị Khanh vẫn răn bảo rằng:

- Những người lái buôn phần nhiều là giảo quyệt, đừng nên chơi thân với họ; ban đầu tuy họ thả cho mình được, nhưng rồi họ sẽ vét hết của mình cho mà xem.

Sinh không nghe. Một hôm sinh cùng các bè bạn họp nhau đánh tứ sắc. Đỗ bỏ ra trăm vạn đồng tiền để đánh và đòi sinh đánh bằng Nhị Khanh. Trọng Quỳ quen mui vẫn được luôn, chẳng suy nghĩ gì, liền bằng lòng cách ấy. Giấy giao kèo viết xong rồi vừa uống rượu vừa gieo quân. Trọng Quỳ gieo ba lần đều thua cả ba, sắc mặt tái mét; cử tọa cũng đều ngơ ngác buồn rầu hộ.

Trọng Quỳ phải cho gọi Nhị Khanh đến, bảo rõ thực tình, đưa tờ giao kèo cho xem và yên ủi rằng:

- Tôi vì nỗi nghèo nó bó buộc, để lụy đến nàng. Việc đã đến thế này, hối lại cũng không kịp nữa. Thôi thì bi hoan tán tụ cũng là việc thường của

người ta. Nàng nên tạm về với người mới, khéo chiều chuộng hắn, rồi bất nhật tôi sẽ đem tiền đến chuộc.

Nàng liệu cơ không thể thoát khỏi, giả vờ nói tử tế rằng:

- Bỏ nghèo theo giàu, thiếp lẽ đâu từ chối. Số giời xếp đặt, há chẳng là tiền định hay sao! Nếu chồng mới không nỡ rẻ bỏ, còn đoái thu đến cái dung nhan tàn tạ này, thiếp xin sửa túi nâng khăn, hết lòng hầu hạ như đã đối với chàng xưa nay. Nhưng xin cho uống một chén rượu, mượn làm một chén tiễn biệt và cho về từ giã các con một chút.

Đỗ cả mừng, rót đầy một chén rượu xà cừ đưa mời nàng uống. Uống xong, nàng về nhà ôm lấy hai con, vỗ vào lưng mà bảo rằng:

- Cha con bạc tình, mẹ đau buồn lắm. Biệt ly là việc thường thiên hạ, một cái chết với mẹ có khó khăn gì. Nhưng mẹ chỉ nghĩ thương các con mà thôi.

Nói xong, lấy đoạn dây tơ thắt cổ mà chết.

Trọng Quỳ hối hận vô cùng, sắm đồ liệm táng tử tế rồi làm một bài văn tế vợ.

(Lược dẫn: Sau khi vợ chết, Trọng Quỳ hối hận vô cùng. Nhị Khanh sau khi chết được Thượng đế thương là oan uổng nên cho coi giữ sổ sách ở tòa đền Trưng Vương. Một hôm đi đường xa, Trọng Quỳ ngủ dưới gốc cây thì được Nhị Khanh báo mộng, hẹn gặp ở đền Trưng Vương. Trọng Quỳ đúng hẹn đến trước đền, đợi từ chiều tà đến nửa đêm thì Nhị Khanh xuất hiện).

Nhị Khanh nói:

- Vừa rồi thiếp nhân theo xe mây, lên có việc ở nơi Đế sở. Vì cớ có chàng nên thiếp đã phải bẩm xin về trước đấy; thành ra cũng sai hẹn với chàng một chút.

Bèn dắt tay nhau đi nằm, cùng nhau chuyện trò thủ thỉ. Khi nói đến việc hiện thời, Nhị Khanh chau mày:

- Thiếp thường theo chầu tả hữu Đức Bà ở đây, được trộm nghe chư tiên nói chuyện với nhau, bảo Hồ triều sẽ hết vào năm Bính Tuất, binh cách nổi lớn, số người bị giết chóc đến chừng hơn 20 vạn, ấy là chưa kể số bị bắt cướp đi. Nếu không phải người trồng cây đức đã sâu thì chỉ e ngọc đá đều bị cháy cả. Bấy giờ có một vị chân nhân họ Lê, từ miền tây nam

xuất hiện; chàng nên khuyên hai con bền chí đi theo vị ấy, thiếp dù chết cũng không nát.

Trời gần sáng, Nhị Khanh vội dậy để cáo biệt, vừa đi vừa ngoảnh đầu nhìn lại, rồi thoắt chốc thì biến đi mất.

Trọng Quỳ bèn không lấy ai nữa, chăm chỉ nuôi hai con cho nên người. Đến khi vua Lê Thái Tổ tuốt gươm đứng dậy ở Lam Sơn, hai người con trai đều đi theo, trải làm đến chức Nhập thị nội. Đến nay ở Khoái Châu hiện còn con cháu.

(Trích Người nghĩa phụ Khoái Châu, Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ, in trong cuốn Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập 1, Nguyễn Đăng Na giới thiệu và tuyển soạn, NXB Giáo dục, 1997, tr 242 – 250)

Trả lời câu hỏi/ thực hiện yêu cầu:

Câu 1. Đoạn trích được kể theo ngôi kể nào?

Câu 2. Lí do nào khiến Nhị Khanh tìm đến cái chết?

Câu 3. Từ Hán Việt nào có yếu tố đồng âm khác nghĩa với yếu tố in đậm trong câu sau: “Trọng Quỳ phải cho gọi Nhị Khanh đến, bảo rõ thực tình, đưa tờ giao kèo cho xem và yên ủi rằng...”

Câu 4. Chỉ ra và nêu tác dụng của yếu tố kì ảo trong văn bản trên.

Câu 5. Từ số phận của nàng Nhị Khanh trong đoạn trích, em có suy nghĩ gì về nguyên nhân gây ra những bất hạnh cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa?

II. PHẦN VIẾT (6 điểm)

Câu 1: Viết đoạn văn 200 chữ phân tích nhân vật Nhị Khanh

Câu 2: Viết bài văn khoảng 600 chữ giải quyết vấn nạn nguồn nước bị ô nhiễm hiện nay.

1
15 tháng 7

bài này hơi khó nha bn

DH
Đỗ Hoàn
CTVHS VIP
12 tháng 7

TK: "Đói cho sạch, rách cho thơm" là một câu tục ngữ sâu sắc của người Việt, truyền tải một triết lý sống cao đẹp về phẩm giá con người. Em hoàn toàn tán thành với câu tục ngữ này bởi nó đề cao giá trị của sự tự trọng, tinh thần vượt khó và sự giữ gìn bản thân ngay cả trong hoàn cảnh khó khăn nhất

Câu tục ngữ không chỉ đơn thuần nói về việc giữ gìn vệ sinh thân thể hay sự chỉnh tề về bề ngoài. "Sạch" và "thơm" ở đây mang ý nghĩa rộng hơn, tượng trưng cho sự trong sạch về nhân cách, đạo đức và sự giữ gìn lòng tự trọng. Dù cuộc sống có nghèo khó đến mấy ("đói", "rách"), con người vẫn phải giữ được sự thanh cao trong tâm hồn, không vì miếng cơm manh áo mà đánh mất đi những giá trị cốt lõi của mình.

Hình ảnh hoa sen "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn" là một minh chứng sống động cho tinh thần này. Dù sống trong môi trường khắc nghiệt, sen vẫn vươn lên khoe sắc và tỏa hương. Con người cũng vậy, dù đối mặt với cảnh "đói" hay "rách", vẫn có thể giữ cho mình một tâm hồn trong sạch, một nhân cách đáng quý.

Khi ta giữ được sự "sạch" và "thơm" trong mọi hoàn cảnh, đó chính là biểu hiện của một tinh thần lạc quan và lòng tự trọng sâu sắc. Người có tự trọng sẽ không dễ dàng cúi mình trước khó khăn, không vì nghèo túng mà làm những điều sai trái. Họ hiểu rằng giá trị của một con người không nằm ở sự giàu sang vật chất mà ở sự trong sạch của tâm hồn.

Việc giữ gìn bản thân, dù là bề ngoài tươm tất hay nội tâm trong sáng, cũng thể hiện sự tôn trọng đối với chính mình và những người xung quanh. Một người dù "rách" áo nhưng vẫn "thơm" về nhân cách sẽ luôn được mọi người quý mến, nể trọng. Ngược lại, dù giàu sang phú quý nhưng nhân cách vẩn đục thì khó lòng nhận được sự kính trọng thực sự

Trong xã hội hiện đại, khi mà vật chất đôi khi được đề cao quá mức, câu tục ngữ "Đói cho sạch, rách cho thơm" càng trở nên ý nghĩa. Nó nhắc nhở chúng ta rằng, dù chạy theo những mục tiêu vật chất, đừng bao giờ quên đi việc giữ gìn những giá trị đạo đức, nhân cách tốt đẹp. Áp lực cuộc sống có thể khiến con người dễ dàng sa ngã, nhưng nếu luôn khắc ghi câu tục ngữ này, ta sẽ có thêm sức mạnh để vượt qua cám dỗ và sống một cuộc đời có ý nghĩa.

12 tháng 7

 "Đói cho sạch, rách cho thơm" là một câu tục ngữ sâu sắc của người Việt, truyền tải một triết lý sống cao đẹp về phẩm giá con người. Em hoàn toàn tán thành với câu tục ngữ này bởi nó đề cao giá trị của sự tự trọng, tinh thần vượt khó và sự giữ gìn bản thân ngay cả trong hoàn cảnh khó khăn nhất

Câu tục ngữ không chỉ đơn thuần nói về việc giữ gìn vệ sinh thân thể hay sự chỉnh tề về bề ngoài. "Sạch" và "thơm" ở đây mang ý nghĩa rộng hơn, tượng trưng cho sự trong sạch về nhân cách, đạo đức và sự giữ gìn lòng tự trọng. Dù cuộc sống có nghèo khó đến mấy ("đói", "rách"), con người vẫn phải giữ được sự thanh cao trong tâm hồn, không vì miếng cơm manh áo mà đánh mất đi những giá trị cốt lõi của mình.

Hình ảnh hoa sen "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn" là một minh chứng sống động cho tinh thần này. Dù sống trong môi trường khắc nghiệt, sen vẫn vươn lên khoe sắc và tỏa hương. Con người cũng vậy, dù đối mặt với cảnh "đói" hay "rách", vẫn có thể giữ cho mình một tâm hồn trong sạch, một nhân cách đáng quý.

Khi ta giữ được sự "sạch" và "thơm" trong mọi hoàn cảnh, đó chính là biểu hiện của một tinh thần lạc quan và lòng tự trọng sâu sắc. Người có tự trọng sẽ không dễ dàng cúi mình trước khó khăn, không vì nghèo túng mà làm những điều sai trái. Họ hiểu rằng giá trị của một con người không nằm ở sự giàu sang vật chất mà ở sự trong sạch của tâm hồn.

Việc giữ gìn bản thân, dù là bề ngoài tươm tất hay nội tâm trong sáng, cũng thể hiện sự tôn trọng đối với chính mình và những người xung quanh. Một người dù "rách" áo nhưng vẫn "thơm" về nhân cách sẽ luôn được mọi người quý mến, nể trọng. Ngược lại, dù giàu sang phú quý nhưng nhân cách vẩn đục thì khó lòng nhận được sự kính trọng thực sự

Trong xã hội hiện đại, khi mà vật chất đôi khi được đề cao quá mức, câu tục ngữ "Đói cho sạch, rách cho thơm" càng trở nên ý nghĩa. Nó nhắc nhở chúng ta rằng, dù chạy theo những mục tiêu vật chất, đừng bao giờ quên đi việc giữ gìn những giá trị đạo đức, nhân cách tốt đẹp. Áp lực cuộc sống có thể khiến con người dễ dàng sa ngã, nhưng nếu luôn khắc ghi câu tục ngữ này, ta sẽ có thêm sức mạnh để vượt qua cám dỗ và sống một cuộc đời có ý nghĩa.

Ý kiến "đọc một câu thơ hay, người ta không thấy câu thơ, chỉ còn thấy tình người trong đó" rất đúng với hai khổ đầu bài "Thời nắng xanh" của Trương Nam Hương.

Trong khổ thơ đầu, tác giả vẽ nên bức tranh về tình cha mẹ giản dị nhưng sâu nặng. Hình ảnh người mẹ "giặt áo bên sông" và cha "gánh vầu qua đồi" không chỉ là hành động mưu sinh mà còn là sự tảo tần, hy sinh vì con. Ta cảm nhận được tình yêu thương thầm lặng, sự lo toan cho cuộc sống và những "chiêm bao" ấm no mà cha mẹ dành cho con cái.

Sang khổ thứ hai, "tình người" mở rộng ra tình quê hương và tuổi thơ. "Lũy tre làng", "cánh đồng", "tiếng trâu về" gợi lên không gian làng quê thân thuộc, nơi lưu giữ những kỷ niệm đẹp. Tiếng "mẹ gọi con ơi ra múc nước" là âm thanh của sự quan tâm, chăm sóc. "Cánh diều no gió" không chỉ là trò chơi mà còn là ước mơ, khao khát được bay cao, được nuôi dưỡng từ tình cảm gia đình và làng xóm.

Tóm lại, qua những câu thơ mộc mạc, Trương Nam Hương đã gửi gắm những "tình người" ấm áp và sâu sắc: tình mẹ cha, tình yêu quê hương và những kỷ niệm tuổi thơ trong trẻo. Người đọc không chỉ thấy câu chữ mà còn cảm nhận rõ những rung động chân thành từ trái tim thi sĩ.

10 tháng 7

Âm nhạc giúp đầu óc tỉnh táo - Âm nhạc và video trị liệu giúp chữa lành mọi bệnh tật chỉ trong 10 phút mỗi ngày, âm nhạc thiền, âm nhạc giảm stress, âm nhạc hỗ trợ giấc ngủ, âm nhạc giảm stress.

10 tháng 7

Âm nhạc giúp đầu óc tỉnh táo - Âm nhạc và video trị liệu giúp chữa lành mọi bệnh tật chỉ trong 10 phút mỗi ngày, âm nhạc thiền, âm nhạc giảm stress, âm nhạc hỗ trợ giấc ngủ, âm nhạc giảm stress.

DH
Đỗ Hoàn
CTVHS VIP
10 tháng 7

- dòng thơ có biện pháp tu từ liệt kê:

+ Dang Tay đón gió, gật đầu gọi trăng

+ Quả dừa- đàn lợn con nằm trên cao

- Tác dụng:

+ Miêu tả cụ thể, chi tiết

+ Tăng sức gợi hình, gợi cảm

+ Nhấn mạnh đặc điểm nổi bật

+ tạo nhịp điệu cho câu thơ

9 tháng 7

MK tham khảo nha!

Giải thích các bước giải: Biện pháp tu từ điệp thanh được tạo nên bằng cách lặp lại một loại âm tiết có cùng loại thanh điệu là thanh bằng vd như : Trong đoạn thơ các vần ưa , át , ai , a xuất hiện nhiều lần và kết hợp với việc sử dụng từ láy " xôn xao"," ngân nga " .

Tác dụng : Đem đến cho người đọc cảm nhận tinh tế về những lần sóng  biển du dưa từng đợt xô đẩy vào buổi trưa đầy nắng ở vùng quê một cách dịu dàng , nhẹ nhàng, và đó cũng là nơi mẹ nuôi của tác giả được xưng " tôi " ( Tố Hữu ) đã từng hoặc đang sinh sống . Điều đó gợi lên cho tác giả một thứ cảm xúc khó mà diễn tả , chỉ nói là " Mát rượi lòng ta , ngân nga tiếng hát " cũng đủ hiểu sự an tâm và thanh bình ở trong lòng tác giả khi về nơi đó .

12 tháng 7

Trong đoạn thơ trên, biện pháp tu từ điệp vần được thể hiện qua sự lặp lại của âm vần "a" và "ưa" trong các từ "xưa", "trưa", "cát", "đưa", "ngân nga".

Tác dụng của biện pháp tu từ điệp vần này là:

Tạo nên sự hòa âm, nhịp nhàng và êm ái cho câu thơ.

Tăng cường tính nhạc và giai điệu của thơ, làm cho đoạn thơ trở nên mềm mại và du dương.

Nhấn mạnh và làm nổi bật lên hình ảnh và cảm xúc của đoạn thơ, đó là hình ảnh về một buổi trưa yên bình bên bãi cát và cảm giác mát mẻ, thư thái của tâm hồn.

Điệp vần cũng góp phần thể hiện tình cảm sâu sắc và nỗi nhớ quê hương da diết của tác giả. Qua đó, người đọc có thể cảm nhận được sự gắn kết và tình yêu thương của tác giả dành cho quê hương.

DH
Đỗ Hoàn
CTVHS VIP
9 tháng 7

42B
43 C
44 B
45 B
46 B
47 C
48 C
49 A
50 D

9 tháng 7

42 B

43 A

44 B

45 C

46 B

47 D

48 B

49 C

50 D

DH
Đỗ Hoàn
CTVHS VIP
9 tháng 7

42B
43 C
44 B
45 B
46 B
47 C
48 C
49 A
50 D

9 tháng 7

31 A

32 C

33 A

34 A

35 C

36 C

37 C

38 A

39 A

40 D

41 sai đề