K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

11 tháng 5

Lời mẹ dặn con trong câu thơ "Hãy yêu lấy con người, dù trăm cay ngàn đắng, đến với ai gặp nạn, xong rồi, chơi với cây!" chứa đựng một triết lý sống nhân văn và sâu sắc. Câu "Hãy yêu lấy con người" nhấn mạnh tầm quan trọng của tình yêu và lòng nhân ái trong cuộc sống, khuyên con phải biết yêu thương, sẻ chia với những người xung quanh. "Dù trăm cay ngàn đắng" là lời nhắc nhở về sự kiên trì, nhẫn nại trong những khó khăn, thử thách của cuộc sống. Mặc dù gặp phải muôn vàn gian truân, nhưng tình yêu với con người vẫn phải là ưu tiên hàng đầu. Câu "Đến với ai gặp nạn" khẳng định thái độ nhân ái và trách nhiệm của con người đối với xã hội, nhất là khi người khác đang gặp khó khăn. Cuối cùng, "Xong rồi, chơi với cây!" như một lời dặn dò về sự cần thiết của việc tìm về với thiên nhiên, để tìm lại sự bình yên trong tâm hồn sau những cuộc sống vất vả, mệt mỏi. Lời mẹ không chỉ khuyên con về tình yêu thương con người mà còn về sự hòa mình vào thiên nhiên để tìm sự an yên cho bản thân.

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện những yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:NGÔI SAO Bố đi công tác vắng, bà Tâm bị ốm phải đi bệnh viện đúng vào dịp rằm tháng tám. Nhà có người ốm nên ai cũng bận bịu. Hằng ngày, đi làm về mẹ lại vào bệnh viện săn sóc bà nên Trung thu đến mà mẹ không chuẩn bị tết rằm cho bé được như mọi năm. Nhưng bé cũng có một mâm cỗ nhỏ: một quả...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện những yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

NGÔI SAO

Bố đi công tác vắng, bà Tâm bị ốm phải đi bệnh viện đúng vào dịp rằm tháng tám. Nhà có người ốm nên ai cũng bận bịu. Hằng ngày, đi làm về mẹ lại vào bệnh viện săn sóc bà nên Trung thu đến mà mẹ không chuẩn bị tết rằm cho bé được như mọi năm. Nhưng bé cũng có một mâm cỗ nhỏ: một quả bưởi vỏ khía thành tám cánh hoa, mỗi cánh hoa cài một quả ổi chín, để bên cạnh một nải chuối ngự và bó mía tím. Tâm rất thích mâm cỗ, em đem mấy thứ đồ chơi bày chung quanh nom rất vui mắt.

Chiều, rồi đêm xuống. Trẻ con bên hàng xóm bập bùng trống ếch, rước đèn ông sao, đèn múi khế, đèn lồng,... thì Tâm lại thấy mâm cỗ của mình không thích bằng. Tâm bỏ mâm cỗ, chạy đi xem đèn. Trong tất cả các đèn, Tâm thích nhất cái đèn ông sao của bạn Hà bên hàng xóm. Cái đèn làm bằng giấy bóng kính đỏ, trong suốt. Ngôi sao được gắn vào giữa vòng tròn có những tua giấy đủ các màu (ý là ngôi sao ở trong bầu trời đấy). Trên đầu ngôi sao cắm ba lá cờ con. Hà còn lấy một tấm ảnh Bác Hồ dán vào giữa ngôi sao. Nến thắp lên trông Bác hồng hào như đang cười với các cháu! Tâm thích cái đèn quá! Nhưng đã tối rồi, mẹ đang ở trong bệnh viện với bà, không ai đi mua đèn cho Tâm được nữa. Thế là Tâm không có đèn. Tâm cứ đi bên cạnh Hà. Mắt không rời cái đèn. Hà cũng biết là bạn mình thích nên thỉnh thoảng Hà lại đưa cho Tâm cầm một lúc, cứ thế cả hai đứa cùng cầm chung cái đèn, reo: "Tùng tùng tùng dinh dinh...".

Mẹ Hà ngồi chơi bên cửa nhìn thấy thế thì gọi con lại, bảo:

– Bố Tâm đi công tác vắng nhà, bà lại ốm, mẹ không có nhà, chưa mua được đèn cho Tâm, con với bạn chơi chung. Chốc nữa chơi xong, con đưa cho bạn đem về treo ở nhà bạn con nhé!

Hà nghĩ một tí rồi gật đầu:

– Vâng ạ!

Đêm gần khuya, cuộc rước đèn tản dần, Hà đưa đèn ông sao cho bạn. Thấy Tâm không nhận, mẹ Hà bảo:

– Cháu cứ cầm đèn về nhà thì mai bác mới cho Hà sang nhà cháu chơi bày cỗ. Thế là Tâm nhận đèn. Đôi bạn nhỏ chia tay nhau bịn rịn.

Hà về nhà đi ngủ. Trong giấc ngủ, em mơ thấy một cô tiên có đôi cánh màu hồng bay đến bên giường, giơ tay vuốt tóc Hà và nói một câu gì đó mà Hà nghe không rõ, Hà vùng dậy, chạy theo. Cô tiên bay ra ngoài cửa sổ. Hà choàng tỉnh dậy, mở mắt nhìn quanh. Chỉ có mẹ ngồi bên cạnh em và trong buồng tối om om. Một vệt ánh sáng từ ngoài cửa sổ hắt vào. Hà nhìn ra ngoài cửa sổ. Ô, lạ chưa, một ngôi sao ở ven trời đang bay vào cửa sổ nhà em! Một ngôi sao vàng óng đứng giữa những chấn song tỏa ra một vòng ánh sáng màu vàng dịu. Gió thổi rung rinh.

– Mẹ ơi, có ngôi sao bay vào nhà mình!

Hà gọi. Nhưng mẹ đang ngủ say, không nghe. Hà nằm im nhìn ngôi sao rồi em ngủ thiếp đi trong những làn gió đầu thu mát.

Sáng hôm sau, Hà dậy sớm. Em vội vàng nhìn ra ngoài cửa sổ. Ô, không phải là ngôi sao đâu, mà là một cái đèn, một cái đèn ông sao giống như cái đèn mà Hà cho Tâm tối hôm qua, chỉ có khác là cái đèn này làm bằng giấy bóng vàng.

– Mẹ ơi, cái đèn của ai treo ở cửa sổ nhà ta thế kia hả mẹ? – Hà hỏi mẹ.

– Đèn của con đấy! – Mẹ nói.

– Đèn của con à? – Hà ngạc nhiên tròn mắt nhìn mẹ.

– Đêm qua, mẹ bạn Tâm đi thăm bà, về mua cho Tâm, Tâm đem sang bảo cho con, con ngủ rồi nên mẹ treo lên cửa sổ.

– Ô, thế mà con lại tưởng có một ngôi sao bay vào nhà mình xem cỗ trung thu!

Hà reo lên rồi ngồi im nhìn cái đèn rực rỡ trong ánh nắng vàng. Em bỗng nghĩ không biết là tối qua Tâm có nhìn thấy ngôi sao bay vào trong cửa sổ nhà Hà không. Mà Tâm có thấy thì chắc là thấy một ngôi sao đỏ.

(Nguyễn Thị Ngọc Tú, trích "Tuyển tập truyện viết cho thiếu nhi từ sau Cách mạng tháng Tám", NXB Giáo dục, 2005)

Câu 1 (1,0 điểm):

a. Xác định ngôi kể được sử dụng trong tác phẩm.

b. Xét theo mục đích nói, câu "Chiều, rồi đêm xuống." thuộc kiểu câu gì?

Câu 2 (1,0 điểm): Khi thấy Tâm và Hà chơi chung đèn, mẹ Hà đã dặn dò con như thế nào? Qua đó, em hiểu gì về nhân vật người mẹ?

Câu 3 (1,0 điểm): Trong tác phẩm, "ngôi sao" không chỉ là chiếc đèn trung thu mà còn mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Theo em, hình ảnh "ngôi sao" tượng trưng cho điều gì? Em hãy lí giải ngắn gọn cho câu trả lời của mình bằng chi tiết từ tác phẩm.

Câu 4 (1,0 điểm): Trong khoảng 3 – 5 câu văn, em hãy viết về bài học ý nghĩa nhất mà em nhận được từ tác phẩm.

1
11 tháng 5

Câu 1 (1,0 điểm):

a. Ngôi kể trong tác phẩm:
Tác phẩm sử dụng ngôi kể thứ ba. Câu chuyện được kể từ một điểm nhìn bên ngoài, không phải từ nhân vật chính. Người kể chuyện tường thuật lại những hành động, suy nghĩ và cảm xúc của các nhân vật trong câu chuyện.

b. Xét theo mục đích nói, câu “Chiều, rồi đêm xuống.” thuộc kiểu câu gì?
Câu này là một câu trần thuật. Câu này chỉ đơn giản mô tả sự chuyển biến của thời gian, từ chiều đến đêm mà không có yếu tố hỏi, cảm thán hay cầu khiến.


Câu 2 (1,0 điểm):

Khi thấy Tâm và Hà chơi chung đèn, mẹ Hà đã dặn dò con như sau:

  • Mẹ Hà nói: “Chốc nữa chơi xong, con đưa cho bạn đem về treo ở nhà bạn con nhé!”

Qua đó, em hiểu rằng nhân vật người mẹ rất thấu hiểu và quan tâm đến bạn bè của con mình. Dù cuộc sống có khó khăn, mẹ Hà vẫn dạy con cách chia sẻ và quan tâm đến người khác. Đây là một hành động đầy tình cảm, thể hiện sự nhân hậu, bao dung và trách nhiệm trong cách nuôi dạy con cái.


Câu 3 (1,0 điểm):

Trong tác phẩm, hình ảnh "ngôi sao" không chỉ là chiếc đèn trung thu mà còn mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Theo em, hình ảnh "ngôi sao" tượng trưng cho hi vọng, tình yêu thương và sự quan tâm.

  • Chiếc đèn ông sao mà Hà làm cho Tâm chính là một biểu tượng của tình bạntình thương yêu giữa các nhân vật. Hình ảnh ngôi sao vàng sáng trong đêm không chỉ là vật trang trí mà còn mang đến sự ấm áp, ánh sáng và niềm vui. Hơn nữa, khi Hà tưởng rằng có một ngôi sao bay vào nhà mình, đó chính là sự xuất hiện của một niềm hy vọng, sự kỳ diệu trong cuộc sống, giúp em cảm thấy lạc quan và hạnh phúc.

Câu 4 (1,0 điểm):

Bài học ý nghĩa mà em nhận được từ tác phẩm là tình bạn và lòng nhân ái. Mặc dù Tâm không có đèn để chơi Trung thu, nhưng sự quan tâm và chia sẻ của Hà đã giúp Tâm cảm thấy vui vẻ và không cô đơn. Điều này cho thấy, trong cuộc sống, sự chia sẻ và quan tâm đến người khác là điều vô cùng quan trọng, giúp cho mọi người xích lại gần nhau hơn và mang lại niềm vui, hạnh phúc cho nhau.

13 tháng 5

Phân tích cấu tạo câu:

Câu: "Qua những công việc mang tính phục vụ cộng đồng như vậy, mỗi cá nhân cảm thấy cảm thấy gắn bó và hòa đồng với tập thể của mình hơn và thương yêu nhau hơn."

1. Phân tích các thành phần trong câu:

  • "Qua những công việc mang tính phục vụ cộng đồng như vậy":
    • Đây là cụm trạng ngữ chỉ phương tiện hoặc nguyên nhân, giải thích lý do hay hoàn cảnh dẫn đến hành động ở phần sau của câu.
    • "Qua" là giới từ, "những công việc mang tính phục vụ cộng đồng" là danh từ cụm, là đối tượng mà hành động sẽ liên quan tới.
  • "mỗi cá nhân cảm thấy cảm thấy gắn bó và hòa đồng với tập thể của mình hơn và thương yêu nhau hơn."
    • Đây là mệnh đề chính của câu, chứa thông tin về hành động và tình cảm của mỗi cá nhân.
    • "Mỗi cá nhân"chủ ngữ.
    • "cảm thấy"động từ chính, nhưng do sự lặp lại từ "cảm thấy", ta có thể coi đây là lỗi lặp từ không cần thiết.
    • "gắn bó và hòa đồng với tập thể của mình hơn và thương yêu nhau hơn"tân ngữ của động từ "cảm thấy", với các cụm động từ mô tả trạng thái cảm xúc và mối quan hệ giữa các cá nhân.

2. Câu này thuộc loại câu gì?

Câu này là câu đơn vì chỉ có một mệnh đề chính duy nhất và một cụm trạng ngữ đầu câu, không có mệnh đề phụ. Tuy câu có cấu trúc dài và phức tạp nhưng vẫn chỉ là một mệnh đề chính. Câu này không chứa các liên từ nối các mệnh đề độc lập, do đó không phải câu ghép.

3. Phân tích ý nghĩa câu:

Câu này diễn tả ý nghĩa rằng qua những công việc có tính chất phục vụ cộng đồng, mỗi cá nhân có thể cảm nhận sự gắn bó, hòa đồng và yêu thương nhau hơn trong tập thể. Đây là một câu thể hiện cảm xúc và quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng qua các hành động hợp tác.


Kết luận:

  • Loại câu: Câu đơn.
  • Cấu tạo: Câu có một cụm trạng ngữ và một mệnh đề chính.
Đi lấy mật là một đoạn trích từ tác phẩm Đất rừng phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi kể về cuộc đời phiêu bạt của cậu bé tên An, bối cảnh của tiểu thuyết là vùng đất miền Tây Nam Bộ, nơi có những con người mến khách, yêu nước. Qua đoạn trích đi lấy mật, tác gia đã cho người đọc cảm nhận được về cậu bé An là một con người hồn nhiên, trong sáng và rất ham học hỏi.An...
Đọc tiếp

Đi lấy mật là một đoạn trích từ tác phẩm Đất rừng phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi kể về cuộc đời phiêu bạt của cậu bé tên An, bối cảnh của tiểu thuyết là vùng đất miền Tây Nam Bộ, nơi có những con người mến khách, yêu nước. Qua đoạn trích đi lấy mật, tác gia đã cho người đọc cảm nhận được về cậu bé An là một con người hồn nhiên, trong sáng và rất ham học hỏi.

An là nhân vật chính, cũng đóng vai là người kể chuyện. Cậu đã được nhà văn khắc họa qua nhiều phương diện khác nhau. Trong hành trình đi lấy mật cùng với tía nuôi và Cò, An đã có được một nhiều nghiệm thú vị. Trước hết, An cũng giống như bao đứa trẻ khác, nghịch ngợm nên đã có những hành động như: “Chen vào giữa, quảy tòn ten một cái gùi bé”; “Đảo mắt khắp nơi để tìm bầy ong mật”; “Reo lên khi nhìn thấy bầy chim đẹp”; “Ngước nhìn tổ ong như cái thúng… ”. Qua những hành động này, có thể thấy An là một đứa trẻ khá hiếu động và nghịch ngợm.

Hồn nhiên là vậy nhưng An vẫn biết suy nghĩ, ham tìm hiểu. Cậu luôn nhớ về lời má nuôi dạy, về cách lấy mật, lời thằng Cò nói về cách xem ong, về sân chim. Khi nghe má nuôi dạy cách lấy mật, nếu không hiểu gì, An lại hỏi ngay: “Sao biết nó về cây này mà gác kèo”, “Kèo là gì, hở má?”, “Coi bộ cũng không khó lắm hở má?”, “Ủa, tại sao vậy má?”... Bên cạnh đó, không chỉ tinh nghịch và ưa khám phá, cậu còn có con mắt quan sát thật tinh tế và sâu sắc. Dưới con mắt của An, cảnh rừng U Minh hiện lên sống động và hoang sơ, trù phú: “Buổi sáng, đất rừng yên tĩnh”, còn “ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm rung rung, khiến ta nhìn cái gì cũng giống như là nó bao qua một lớp thủy tinh”. Điều này cho thấy, An là một cậu bé có tinh tế, biết phát hiện ra những cái đẹp của thiên nhiên.

Qua đoạn trích đi lấy mật, tất cả những chi tiết từ câu chuyện của mẹ đã cho ta thấy An là một cậu bé ngoan ngoãn, ham học hỏi, thích quan sát và yêu thiên nhiên.

Phân tích đặc điểm nhân vật An trong Đi lấy mật

Đoạn trích "Đi lấy mật" được trích trong tiểu thuyết "Đất rừng phương Nam" của nhà văn Đoàn Giỏi. Thông qua câu chuyện ba cha con vào rừng đi lấy mật, tác giả đã làm nổi bật hình tượng nhân vật An với nhiều phẩm chất trong sáng, tốt đẹp.

Trước hết, An là một cậu bé yêu thiên nhiên và có những quan sát vô cùng tinh tế. Dưới con mắt của An, rừng núi U Minh hiện lên với vẻ hoang sơ, kì vĩ song cũng rất thơ mộng, trữ tình. Trên đường đi lấy mật, cậu luôn chăm chú, để ý khung cảnh xung quanh. Bằng cách sử dụng ngôi kể thứ nhất, bức tranh thiên nhiên rừng U Minh được thu vào đôi mắt hồn nhiên của An. Các đoạn văn miêu tả như những thước phim quay chậm vô cùng sống động, sắc nét. An đưa mắt quan sát ở trên cao với hình ảnh bầu trời "Ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm rung rung, khiến ta nhìn cái gì cũng có cảm giác như nó là bao qua một lớp thủy tinh.". Cậu tiếp tục cảm nhận thiên nhiên bằng khứu giác, xúc giác, thị giác: "ăn xong, bấy giờ bóng nắng mới bắt đầu lên. Gió cũng bắt đầu thổi rao rao theo với khối mặt trời tròn đang tuôn ánh sáng vàng rực xuống mặt đất. Một làn hơi đất nhè nhẹ tỏa lên, phủ mờ những bụi cây cúc áo, rồi nhè nhẹ tan dần theo hơi ấm mặt trời.",... Màu sắc, đặc điểm của sự vật, hiện tượng được miêu tả chi tiết cho thấy sự nhạy cảm trong tâm hồn của nhân vật An.

Tiếp đến, An rất ham học hỏi, tìm hiểu mọi thứ xung quanh. Lần đầu tiên, An được theo tía nuôi vào rừng lấy mật. Trên quãng đường đi, An luôn nhớ lại những lời má nuôi kể về cách gác kèo ong như thế nào. Thậm chí, An đã có những so sánh giữa việc học trong sách với thực tiễn bên ngoài. Cậu nhận ra việc học trong sách giáo khoa chỉ có những khái niệm chung chung về loài ong, không giống như cách má nuôi bảo. Qua đoạn trích An nhớ lại những lời má nuôi kể, ta có thể thấy cậu đặt ra rất nhiều những câu hỏi thể hiện sự tò mò và mong muốn tìm hiểu thế giới xung quanh. Cuối cùng, cậu đã đúc kết ra được sự khác biệt trong cách "thuần hóa" ong rừng của người dân vùng U Minh so với những cách nuôi ong trên thế giới: "Không có nơi nào, xứ nào có kiểu tổ ong hình nhánh kèo như vùng U Minh này cả.".

Có thể thấy, nhà văn Đoàn Giỏi đã xây dựng thành công nhân vật An thông qua lời nói, hành động cụ thể kết hợp với ngôi kể thứ nhất. Qua nhân vật An, tác giả đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người sâu sắc và ngợi ca tâm hồn trong sáng của trẻ thơ.

1
7 tháng 5

mình tự làm đó hay không

yêu đương phương là j🤭

6 tháng 5

- Dưới đây là phần trả lời cho các câu hỏi bạn đưa ra:

  1. 1. There was so many customers that we had to work overtime
    • + Sửa lại: There were so many customers that we had to work overtime.
    • + Giải thích: "Customers" là danh từ số nhiều đếm được, vì vậy ta dùng "were" thay vì "was". "So many" được sử dụng đúng để chỉ số lượng lớn khách hàng.
    • + Dịch nghĩa: Có quá nhiều khách hàng đến nỗi chúng tôi phải làm thêm giờ.
  2. 2. If more bikes lanes are not added, people won't feel safe cycling
    • + Sửa lại: If more bike lanes are not added, people won't feel safe cycling.
    • + Giải thích: "Bike lanes" (làn đường dành cho xe đạp) là cụm danh từ đúng. Câu này sử dụng cấu trúc câu điều kiện loại 1 để diễn tả một tình huống có thể xảy ra ở hiện tại hoặc tương lai.
    • + Dịch nghĩa: Nếu không có thêm làn đường dành cho xe đạp, mọi người sẽ không cảm thấy an toàn khi đi xe đạp.
  3. 3. I expect to get feedback on my job application
    • + Câu này đúng ngữ pháp.
    • + Giải thích: "Expect to get" là cấu trúc đúng để diễn tả sự mong đợi nhận được điều gì. "Feedback on" được sử dụng đúng để chỉ phản hồi về một vấn đề cụ thể.
    • + Dịch nghĩa: Tôi mong đợi nhận được phản hồi về đơn xin việc của mình.
               Huyền bí tháp Nhạn Phú Yên  Tới Phú Yên, đừng bỏ lỡ hành trình tham quan tháp Nhạn để khám phá nền văn hóa Sa Huỳnh cũng như những bí ẩn trong cách xây dựng công trình, lối kiến trúc của người Chăm-pa cổ.   Người ta kể rằng: xưa kia có nàng tiên nữ Thiên Y A Na giáng trần chỉ dạy cho người dân sống ở vùng đất này tất cả mọi thứ từ cấy cày, dệt vải, kéo...
Đọc tiếp

               Huyền bí tháp Nhạn Phú Yên  Tới Phú Yên, đừng bỏ lỡ hành trình tham quan tháp Nhạn để khám phá nền văn hóa Sa Huỳnh cũng như những bí ẩn trong cách xây dựng công trình, lối kiến trúc của người Chăm-pa cổ.   Người ta kể rằng: xưa kia có nàng tiên nữ Thiên Y A Na giáng trần chỉ dạy cho người dân sống ở vùng đất này tất cả mọi thứ từ cấy cày, dệt vải, kéo sợi…để tìm cách mưu sinh. Sau khi tiên nữ quay trở lại cõi tiên, người dân Chăm-pa vì thương nhớ và muốn khắc ghi công ơn người khai sáng cho dân tộc mình bèn xây ngọn tháp ấy để phụng thờ. Tháp được gọi tên là “tháp Nhạn” là bởi có rất nhiều chim nhạn bay tới đây sinh sống, làm tổ nên ngọn tháp cũng được đặt theo tên của loài chim này.   Tháp Nhạn nằm trên núi Nhạn, soi bóng trên dòng Đà giang hùng vĩ, một cặp sông - núi hữu tình, là không gian linh thiêng, nơi người Chăm xưa hướng về, thánh địa thờ phụng thần linh bao đời. Tòa tháp được xây theo tỉ lệ cân đối với ba phần: Đế, thân và mái, các tầng tháp đều có phong cách giống nhau, càng lên cao càng thu nhỏ lại. Chân tháp được ốp đá sa thạch. Thân cao, đồ sộ với một màu nâu đỏ rực rỡ. Nóc của tháp gồm nhiều lớp xếp. Trên đỉnh tháp là hình tượng Linga bằng đá được điêu khắc công phu, gắn với ý nghĩa tâm linh của người Chăm. Cửa và mặt chính của tháp quay về hướng Đông. Ba mặt tường còn lại đều có trang trí hoa văn gắn với những ý niệm tôn giáo xa xưa và tạo hình cửa giả. Vì lối xây dựng tầng cao càng thu hẹp, nên tường phía trong tháp cũng uốn theo và thu nhỏ dần, vòm lại theo hình chóp nón và nối với nhau ở viên gạch cuối cùng. Lòng tháp Nhạn có diện tích khoảng 25m2, đứng từ trong nhìn lên thấy không gian vừa cao rộng, vừa sâu thẳm huyền bí.   Du khách tìm tới tháp Nhạn không chỉ để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của ngọn tháp huyền bí này mà còn bởi tò mò về vật liệu mà người Chăm xưa dùng để xây tháp. Tháp Nhạn được xây dựng hoàn toàn bằng gạch nung xếp khin khít nhau mà rất vững chắc. Theo nghiên cứu, loại gạch này có khối lượng nhẹ hơn một viên gạch thông thường khoảng 1,3 lần. Kể cả độ bền chịu nén, chịu va đập cũng hơn gạch thường rất nhiều.   Tìm hiểu về loại keo dùng để gắn kết các viên gạch này với nhau một cách chắc chắn và không lộ ra chút đường hồ nào thì được biết, người Chăm cũng sử dụng hoàn toàn từ nguyên liệu thiên nhiên. Khi xưa chưa có xi măng, người dân Chăm-pa đã biết sử dụng chất kết dính từ cây dầu rái vào việc xây dựng. Tuy nhiên, việc pha trộn các loại chất liệu thế nào để có được loại keo bền chắc có thể “nâng đỡ” cả một tòa tháp lớn như vậy thì các nhà nghiên cứu vẫn chưa lý giải được. Để các viên gạch dính lại với nhau chắc chắn như vậy không chỉ do có hỗn hợp keo kể trên mà còn nhờ vào bàn tay khéo léo của những người xây dựng. Các viên gạch được sử dụng kĩ thuật mài chập, nghĩa là sau khi phết keo lên, họ mài các viên gạch với nhau cho đến khi bề mặt tiếp túc hoàn toàn khít không lộ ra một chút kẽ hở nào. Sự kết hợp hài hòa giữa vật liệu xây dựng, đường nét kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc đã tạo cho tháp Nhạn một dáng vẻ vừa vững chãi vừa thanh thoát, tinh tế, mang tính thẩm mỹ cao.   Đến Tuy Hòa mà chưa đặt chân tới tháp Nhạn thì coi như bạn chưa đến thành phố này.  Năm 1988, Tháp Nhạn đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ VHTTDL) công nhận là di tích kiến trúc – nghệ thuật cấp quốc gia. Những dấu tích ở núi Nhạn cho biết xưa kia từng có một quần thể kiến trúc Champa rất lớn tại đây. Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn lại công trình kiến trúc tháp Nhạn chứa đựng nhiều giá trị về lịch sử và nghệ thuật, góp phần làm phong phú kho tàng di sản văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.   Vào mỗi dịp lễ, Tết, mùng 1 và 15 âm lịch hàng tháng, nhân dân trong vùng đều đến đây cầu nguyện cho cuộc sống được bình an. Tháng 3 âm lịch hàng năm, tại đây diễn ra Lễ hội vía Bà – Tạ ơn Mẹ Xứ sở, vị thần đã có công dạy người dân nghề nông, nghề dệt, che chở và bảo vệ mọi người khỏi thiên tai, địch họa. Với ý nghĩa ấy, Lễ hội vía Bà (hay còn gọi là lễ hội Tháp Nhạn) là lễ hội chung của nhân dân trong vùng, cả người Chăm và người Việt dọc khu vực miền Trung cùng hành hương, dâng hương. Ngày nay, lễ hội còn thu hút hàng ngàn du khách thập phương đến tham dự.   Toàn bộ khu vực tháp Nhạn đã được quy hoạch gọn trong khuôn viên khoảng 1000 m2, lát gạch và quy hoạch gọn gàng, sạch sẽ. Ngọn tháp Chăm cổ kính vươn cao sừng sững, nổi bật giữa một khung cảnh xanh thẫm màu cây cối và màu trời. Khi màn đêm buông xuống, ánh đèn từ chân tháp chiếu lên soi rõ tòa tháp, chói sáng một góc trời, làm cho tháp Nhạn càng trở nên lung linh, rực rỡ. Đây cũng là nơi thường xuyên có các chương trình biểu diễn nghệ thuật múa hát truyền thống phục vụ du khách vào dịp cuối tuần.             (Theo Trung tâm Thông tin du lịch) Câu 1: Xác định kiểu văn bản thông tin của đoạn trích trên Câu 2: Chỉ ra các phương tiện phi ngôn ngữ được sử dụng trong đoạn trích trên Câu 3: Nêu tác dụng của số liệu được sử dụng trong đoạn trích Câu 4: Tình cảm, thái độ của tác giả được thể hiện trong đoạn trích Câu 5: Thông điệp nào từ đoạn trích có ý nghĩa nhất đối với em? Vì sao?

1
6 tháng 5

câu 1:Văn bản thuyết minh

câu 2:các phương tiện phi ngôn ngữ thường là:

  • Tên riêng – “Tháp Nhạn”, “Đà giang”, “Thiên Y A Na”… giúp tăng tính xác thực.
  • Các con số như: 25m², 1.3 lần, 1000m², năm 1988... (thuộc về phương tiện phi ngôn ngữ biểu đạt bằng ký hiệu số).
  • Dấu ngoặc đơn (ví dụ: nay là Bộ VHTTDL) → bổ sung thông tin chính xác, hiện đại.

câu 3:Tác dụng của số liệu:

  • Làm rõ quy mô, kích thướctính chất đặc biệt của tháp Nhạn (ví dụ: diện tích lòng tháp, độ nhẹ của gạch, diện tích khuôn viên...).
  • Tăng độ tin cậythuyết phục cho thông tin (ví dụ: chất lượng gạch, lịch sử xây dựng, quy hoạch).
  • Giúp người đọc dễ hình dung cụ thể hơn về di tích.

câu 4:Tình cảm, thái độ:

  • Trân trọng, ngưỡng mộ giá trị văn hóa, nghệ thuật và kỹ thuật xây dựng của người Chăm xưa.
  • Tự hào, yêu mến di sản văn hóa dân tộc.
  • Kêu gọi giữ gìn, khám phá, tìm hiểu và tôn vinh những giá trị lịch sử – văn hóa.

câu 5:“Đến Tuy Hòa mà chưa đặt chân tới tháp Nhạn thì coi như bạn chưa đến thành phố này.”

👉 Vì sao?

  • Thông điệp ấy nhấn mạnh tầm quan trọng của di tích tháp Nhạn – như một biểu tượng linh thiêng của vùng đất Phú Yên.
  • Giúp em hiểu rằng mỗi vùng đất đều có di sản văn hóa đặc trưng, và việc tìm hiểu, chiêm ngưỡng, gìn giữ những giá trị ấy là trách nhiệm và niềm tự hào của thế hệ trẻ.

Mình làm cho bạn rồi nhớ like đấy




5 tháng 5

Giải pháp

-Chuyển đổi cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện hạn, mặn.

-Phát triển hạ tầng thủy lợi và trữ nước ngọt.

-Di dời, tái định cư các khu vực thường xuyên ngập lụt.

-Tăng cường trồng rừng ngập mặn chống xói lở, nước biển dâng.

-Ứng dụng công nghệ canh tác thông minh thích ứng biến đổi khí hậu.

21 tháng 5

Dưới đây là bài văn phân tích hình ảnh khói bếp trong bài thơ Hoa loa kèn của Vũ Quần Phương, khoảng 400 chữ, bạn có thể tham khảo:


Phân tích hình ảnh khói bếp trong bài thơ "Hoa loa kèn" của Vũ Quần Phương

Bài thơ Hoa loa kèn của Vũ Quần Phương đã khắc họa một cách rất tinh tế và sâu sắc hình ảnh khói bếp – một biểu tượng bình dị, quen thuộc của làng quê Việt Nam. Khói bếp không chỉ là làn khói vật chất mà còn mang trong mình những tầng ý nghĩa sâu sắc, gợi lên khung cảnh thanh bình, ấm áp và cả những cảm xúc nhẹ nhàng, xao xuyến.

Ngay từ những câu thơ đầu, làn khói bếp hiện lên như một lớp màn mơ ảo bao phủ không gian: “Sáng dậy khói bay choàng mái rạ / Lẫn vào sương toả lẫn vào cây”. Động từ “choàng” gợi tả sự bao trùm, ôm ấp của làn khói lên những mái nhà tranh đơn sơ. Sự hòa quyện của khói với “sương tỏa” và “cây” tạo nên một bức tranh mờ ảo, thấm đẫm chất thơ. Khói không chỉ là một hiện tượng tự nhiên mà còn trở thành một yếu tố thẩm mỹ, làm mờ đi ranh giới giữa thực và ảo, khiến cả những vật vô tri như “cây xoan cây muỗm”, “mái đình rêu” cũng như “đắm say” trong vẻ đẹp huyền diệu ấy.

Khói bếp còn gắn liền với hình ảnh người mẹ tảo tần, cơi rơm thổi lửa, chăm sóc gia đình. Tiếng chim gù trên tổ bếp, tiếng em nhỏ học bài bên ngưỡng cửa trong làn khói mờ mịt tạo nên một không gian đầm ấm, gần gũi. Khói bếp như sợi dây kết nối các thành viên trong gia đình, là biểu tượng của sự sum họp, của tình mẫu tử và sự chăm sóc tận tụy.

Hơn thế nữa, khói bếp trong bài thơ còn mang màu sắc rất đặc trưng của cuộc sống lao động, vất vả nhưng tràn đầy yêu thương. Mùi khói cay nồng, mùi rơm ướt hòa quyện với không khí sau cơn mưa đêm khiến người đọc cảm nhận được sự chân thực, sinh động của cảnh vật và con người. Khói bếp như thấm đẫm cả không gian làng quê, len lỏi khắp mọi ngõ ngách, tạo nên một bức tranh vừa cụ thể vừa mơ màng, vừa hiện thực vừa trữ tình.

Qua hình ảnh khói bếp, tác giả không chỉ gợi nhớ về một tuổi thơ bình dị, mà còn thể hiện tình yêu quê hương sâu sắc, niềm tự hào về cuộc sống giản đơn nhưng đầy ắp tình người. Khói bếp là biểu tượng của sự sống, của truyền thống và của những giá trị văn hóa lâu đời của làng quê Việt Nam.


Nếu bạn cần bài văn theo phong cách khác hoặc dài hơn, mình sẵn sàng giúp bạn!

5 tháng 5

Lối sống hòa mình với thiên nhiên mang lại nhiều ý nghĩa sâu sắc đối với con người, đặc biệt trong cuộc sống hiện đại đầy áp lực và ồn ào. Thiên nhiên không chỉ cung cấp cho chúng ta nguồn sống như không khí, nước, thức ăn mà còn là nơi giúp tâm hồn thư thái, bình yên. Khi con người sống chan hòa với thiên nhiên, biết trân trọng và bảo vệ môi trường, họ sẽ cảm nhận được vẻ đẹp giản dị mà trong lành của cuộc sống, từ đó nuôi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách tốt đẹp và lối sống tích cực. Ngược lại, nếu con người sống xa rời hoặc tàn phá thiên nhiên, thì cũng chính là tự hủy hoại môi trường sống của chính mình. Vì vậy, mỗi chúng ta cần nâng cao ý thức bảo vệ thiên nhiên, sống hài hòa với cây cối, sông ngòi, đất trời, bởi thiên nhiên là người bạn lớn không thể thiếu trong cuộc đời.