Ai ban chiếu dời đô
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Trong lịch sử và hiện tại đồng bằng Nam Bộ là vùng cư trú của nhiều dân tộc. Đó là nơi sinh sống của nhiều lớp cư dân người Việt, người Khmer, người Hoa và người Chăm theo đạo Islam.
— Các dân tộc sống ở đồng bằng Nam Bộ chủ yếu là:
+ Kinh.
+ Khơ-me.
+ Chăm.
+ Hoa.
………….
Chiến tranh Tống - Việt, 1075-1077 là tên gọi cuộc chiến tranh giữa nhà Lý nước Đại Việt và nhà Tống của Trung Quốc vào cuối thế kỷ XI. Giai đoạn đầu, tướng nhà Lý là Lý Thường Kiệt đã chủ động đánh đòn phủ đầu sang đất Tống trong chiến dịch 1075-1076 nhằm làm suy yếu binh lực của nhà Tống.
Chiến tranh Tống - Việt, 1075-1077 là tên gọi cuộc chiến tranh giữa nhà Lý nước Đại Việt và nhà Tống của Trung Quốc vào cuối thế kỷ XI. Giai đoạn đầu, tướng nhà Lý là Lý Thường Kiệt đã chủ động đánh đòn phủ đầu sang đất Tống trong chiến dịch 1075-1076 nhằm làm suy yếu binh lực của nhà Tống.Đây nhé.
Người dân có nhiều kinh nghiệm trồng lúa nên đồng bằng Bắc Bộ đã trở thành vựa lúa lớn thứ hai của cả nước .
Đỗ Thích. Ông được ghi nhận trong chính sử Việt Nam là người đã ám sát vua Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt vương Đinh Liễn
Đỗ Thích (chữ Hán: 杜釋; ?-979) là một quan viên thời nhà Đinh. Ông được ghi nhận trong chính sử Việt Nam là người đã ám sát vua Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt vương Đinh Liễn, dẫn sự kết thúc của nhà Đinh, mở đầu nhà Tiền Lê, cũng như gây ra cái cớ cho việc xâm lược Đại Cồ Việt bất thành của nhà Tống.
Tham khảo :
Bát cháo hành là biểu tượng của tình người ấm nóng duy nhất còn sót lại nơi làng Vũ Đại. Có thể bát cháo với mỗi người chỉ là thứ vụn vặt. Cháo ấy có thể không ngon, nhưng chúng ta phải khẳng định bát cháo chan chứa tình người. Một tình người hồn nhiên, vô tư, không vụ lợi mà Thị Nở dành cho Chí.
tham khảo nha
Bát cháo hành là biểu tượng của tình người ấm nóng duy nhất còn sót lại nơi làng Vũ Đại. Có thể bát cháo với mỗi người chỉ là thứ vụn vặt. Cháo ấy có thể không ngon, nhưng chúng ta phải khẳng định bát cháo chan chứa tình người. Một tình người hồn nhiên, vô tư, không vụ lợi mà Thị Nở dành cho Chí.
ok nha đúng k nha pl
Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế, vốn là người thông minh, say mê kinh sử, tinh thông võ nghệ, nhận thấy thành Hoa Lư chật hẹp, kinh tế công- nông - thương kém phát triển, giao thông gặp nhiều khó khăn. Năm 1010, Ông quyết định rời đô ra Đại La ( Thăng Long) và tự tay viết 'Chiếu dời đô'.
Trong những ngày này, cả nước đang hướng về kỷ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Những người làm lưu trữ lần tìm theo dấu vết của thời gian, đã tìm thấy một bản khắc cổ về "Chiếu dời đô" của Vua Lý Công Uẩn trong khối tài liệu mộc bản Triều Nguyễn - Di sản tư liệu thế giới. Có thể nói đây là tài liệu quan trọng, là bản khai sinh của kinh đô Thăng Long - Hà Nội ngày nay. Đọc "Chiếu dời đô" chúng ta cảm phục tài năng, trí tuệ, tầm nhìn và sự sáng suốt, quyết đoán của Vua Lý Công Uẩn.
Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế, vốn là người thông minh, say mê kinh sử, tinh thông võ nghệ, nhận thấy thành Hoa Lư chật hẹp, kinh tế công- nông - thương kém phát triển, giao thông gặp nhiều khó khăn. Năm 1010, Ông quyết định rời đô ra Đại La ( Thăng Long) và tự tay viết 'Chiếu dời đô'.
"Chiếu dời đô", là bản khắc mộc bản cổ nhất, hiện đang được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV( Đà Lạt - Lâm Đồng) và nằm trong bộ sách "Đại Việt Sử Ký Toàn Thư" đây là bản khắc chữ Hán ngược, toàn bộ "Chiếu dời đô" có 214 chữ.
Bản khắc mộc bản "Chiếu dời đô" của Vua Lý Công Uẩn năm 1010
"Chiếu" là một loại văn cung đình do nhà vua viết để ban bố một chủ trương, hay một chính sách cụ thể có tính chất giáo lệnh, bố cục chặt chẽ, khúc triết, lời văn trang trọng, mạch lạc, giàu sức thuyết phục. Đây là thể văn quan phương của triều đình, không có sự giao tiếp qua lại. Cuối bài "Chiếu" thường có 1 câu hỏi nhưng hỏi để mà hỏi chứ không cần trả lời. Đó là công thức của một bài "chiếu".
Bản Dịch nghĩa toàn văncủa "Chiếu dời đô" như sau:
" Xưa, nhà Thương đến đời Bàn Canh 5 lần dời đô; nhà Chu đến đời Thành Vương 3 lần dời đô; đâu phải các vua thời Tam đại đều theo ý riêng của mình mà tự tiện dời đô xằng bậy. Làm như thế cốt là để mưu nghiệp lớn, chọn ở nơi chính giữa, dựng kế cho con cháu muôn đời; trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện lợi thì dời đổi, cho nên vận nước dài lâu, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ của Thương, Chu, cứ chịu đóng đô ở yên nơi đây, đến nỗi vận thế không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ hao tổn, muôn vật không tươi tốt. Trẫm rất đau lòng, không thể không dời đổi. Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực đất trời, được thế rồng chầu- hổ phục, chính giữa nam-bắc-đông- tây, tiện nghi núi sau, sông trước. Vùng này, mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa; dân cư không phải chịu khổ vì thấp trũng, tối tăm; muôn vật hết sức tốt tươi phồn thịnh. Xem khắp nước Việt, đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời. Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ sao?"
Việc ban hành "Chiếu dời đô" của Vua Lý Công Uẩn cho thấy ông là một vị vua tài giỏi, có tầm nhìn chiến lược đối với sự phát triển lịch sử lâu dài của đất nước. Thành Đại La ( Thăng Long - Hà Nội) ngày nay quả đúng là kinh đô ngàn năm văn hiến của nước Việt Nam ta, cùng với thời gian vẫn mãi mãi trường tồn như một minh chứng cho sự nhận định đúng đắn của người xưa - Vua Lý Công Uẩn trong "Chiếu dời đô" cách đây 1000 năm./.