Khẳng định câu:"Trong thơ ca bản chất của nó là mây, một hình thể vô định và huyền ảo.Và thơ ca cũng còn là bão"
Em đang cần gấp í, mong mọi người giúp đỡ ạ
Em cảm ơn ạ
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Xét theo cấu tạo các từ "sắc sảo", "mặn mà" thuộc kiểu từ phức.
Hai từ đó có tác dụng tăng sức gợi vẻ đẹp của Kiều sâu sắc, rõ ràng, nghệ thuật hơn trong việc miêu tả chân dung nàng, đồng thời giúp dễ dàng diễn đạt việc nhan sắc của Kiều hơn hẳn Thúy Vân. Từ đó tăng giá trị diễn đạt đồng thời giúp lời thơ trơn tru, gợi cảm hấp dẫn đọc giả hơn.
- Xét về cấu tạo hai từ "sắc xảo" và "mặn mà" là từ phức ( nếu hỏi sâu hơn thì cụ thể hai từ này là từ láy )
+ Góp phần khắc họa lên chân dung nàng Kiều xinh đẹp là một bậc tuyệt sắc giai nhân.
+ Cho thấy tài năng của Nguyễn Du khi chọn lọc ngôn từ xuất sắc và chính xác để đặc tả vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của nàng Kiều qua đó gây ấn tượng sâu sắc với người đọc
Các sự việc chính trong bài "Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn Thành Long"
- Chuyến đi của nhà họa sĩ, cô kỹ sư cùng bác lái xe đến Sa Pa và bác lái xe giới thiệu anh thanh niên làm công việc công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn.
- Cuộc gặp gỡ giữa mọi người và anh thanh niên nhiệt tình, hồ hởi quan tâm đến sức khỏe của vợ bác lái xe.
- Cô gái và nhà họa sĩ ghé thăm nơi làm việc (cũng là nơi ở) của anh thanh niên.
- Cuộc trò chuyện giữa anh thanh niên, cô gái, nhà họa sĩ về công việc bộc lộ sự yêu nghề cống hiến lặng lẽ của anh thanh niên và suy nghĩ của nhà họa sĩ khi ra về về anh.
Sự việc chính trong bài bao gồm:
1. Tác giả đến Sa Pa và bước vào công viên gần nhà. Tại đây, tác giả ngạc nhiên trước vẻ đẹp tự nhiên của nơi này, với cây cối xanh tươi, hoa nở rộ và sông trong xanh mát.
2. Tác giả đi dọc theo con đường bên bờ sông và nghe tiếng chim hót vang lên, tạo nên một âm nhạc tự nhiên đầy sống động.
3. Tác giả tiếp tục đi và tìm đến một khu vườn hoa, nơi màu sắc tươi tắn của những bông hoa làm tác giả cảm thấy vui vẻ và thư giãn.
4. Tác giả chụp một vài bức ảnh để lưu giữ những khoảnh khắc đẹp trong công viên.
5. Tác giả nghỉ ngơi dưới bóng cây và thưởng thức hương vị của một cốc cà phê thơm ngon.
6. Tác giả thích thú với chuyến đi này, nơi tác giả có thể tận hưởng vẻ đẹp thiên nhiên và thư giãn sau những ngày làm việc căng thẳng.
Tham Khảo :
Ý kiến của em về câu nói "Xin hãy dạy cháu tránh xa sự đố kỵ" trong bức thư gửi hiệu trưởng của Tổng thống Abraha Linhcon là rất đáng suy ngẫm và đồng ý.
Sự đố kỵ là một tình trạng xấu, gây ra sự ganh tỵ và căm ghét giữa con người. Nó không chỉ ảnh hưởng đến mối quan hệ cá nhân mà còn có thể lan rộng và gây nên xung đột trong cộng đồng. Đố kỵ là một trở ngại lớn trong việc xây dựng một xã hội hòa bình và thịnh vượng.
Việc dạy trẻ em tránh xa sự đố kỵ là rất quan trọng và cần thiết. Bằng cách giáo dục trẻ em từ nhỏ về lòng biết ơn, sự chia sẻ và tôn trọng người khác, chúng ta có thể giúp trẻ em hiểu rõ về ý nghĩa của tình yêu thương và sự đoàn kết. Đồng thời, chúng ta cũng cần truyền đạt cho trẻ em những giá trị nhân văn, như sự công bằng, lòng khoan dung và sự đồng cảm, để họ có thể hiểu và chấp nhận sự khác biệt của người khác.
Bên cạnh đó, việc xây dựng một môi trường học tập và làm việc không đố kỵ cũng rất quan trọng. Giáo viên và nhà trường cần tạo ra một không gian an toàn và thoải mái, nơi mọi người được tôn trọng và đánh giá dựa trên năng lực và đóng góp của mình. Điều này sẽ khuyến khích sự hợp tác và phát triển cá nhân của mỗi thành viên trong cộng đồng.
Trong cuộc sống, sự đố kỵ có thể tồn tại ở mọi nơi và mọi lúc. Tuy nhiên, chúng ta có thể thay đổi điều đó bằng cách thay đổi suy nghĩ và hành động của chính mình. Việc dạy trẻ em tránh xa sự đố kỵ là một bước quan trọng để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, nơi mọi người sống hòa thuận và tôn trọng lẫn nhau.
Vì vậy, em hoàn toàn đồng ý với ý kiến của Tổng thống Abraha Linhcon và tin rằng việc dạy trẻ em tránh xa sự đố kỵ là một nhiệm vụ quan trọng của chúng ta
Để dễ xin chuyển lớp, bạn có thể áp dụng các lí do sau đây:
1.Lý do học tập: Nếu bạn cảm thấy mình không phù hợp với phương pháp giảng dạy hoặc chương trình học hiện tại, bạn có thể đề cập đến mong muốn được tham gia vào một lớp học có phương pháp và chương trình phù hợp với phong cách học của bạn.
2.Lý do xã hội: Nếu bạn gặp khó khăn trong việc tương tác và giao tiếp với các bạn cùng lớp hiện tại, bạn có thể đề cập đến mong muốn được chuyển lớp để có cơ hội kết bạn và tương tác với những người bạn mới.
3.Lý do gia đình: Nếu có những vấn đề gia đình đặc biệt, như việc di chuyển địa điểm sinh sống hoặc sự cần thiết phải chuyển lớp để thuận tiện cho việc chăm sóc gia đình, bạn có thể đề cập đến lý do này.
Trước khi xin chuyển lớp, hãy nên thảo luận và tìm hiểu quy định của trường về việc chuyển lớp để có thông tin chính xác và chuẩn bị tốt cho quyết định của mình.
Em đồng ý với ý kiến trên.
Vì muốn để bản thân giỏi giang, tài năng, đạt đước ước mơ/ điều mình muốn chinh phục hay có được thì phải tin vào bản thân có thể làm được. Từ niềm tin bản thân ta mới hành động để đạt được thành công, còn nếu cứ tự ti trong lòng sợ hãi vấp ngã hay hèn nhát nghĩ mình yếu kém thì bản thân sẽ mãi thụt lùi đi chậm lại so với mọi người cố gắng nỗ lực hàng ngày ngoài kia. Nói chung điều quan trọng nhất là chúng ta phải có niềm tin, tin vào năng lực bản thân không sợ hãi sự thất bại thì cuối cùng ta mới đạt được giá trị thành quả mình mong muốn!
Các nhà thơ chuyên viết về phê phán hiện thực cuộc sống thường tập trung vào việc phê phán các khía cạnh xã hội, chính trị, văn hóa và con người trong xã hội. Thơ của họ thường phê phán những điều không công bằng, bất công, bạo lực, sự đàn áp và những vấn đề xã hội gây tranh cãi. Họ thường sử dụng ngôn ngữ mạnh mẽ, hình ảnh sắc bén và tạo ra những tác phẩm thơ đầy sức mạnh và tác động. Thông qua việc phê phán, họ mong muốn gợi thức và thay đổi ý thức của người đọc, khám phá và tìm kiếm sự công bằng và tự do trong xã hội
Các nhà thơ chuyên viết về phê phán hiện thực cuộc sống là Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng , Võ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Vũ Đình Chi, Nguyễn Đình Lạp, Tô Hoài , Bùi Hiển, Mạnh Phú Tư.
Thơ của họ phê phán bản chất thối nát, tính chất vô nhân đạo của xã hội VN trước cách mạng.
Chúc cậu học tốt!
Được sống là chính mình là quyền tự do cơ bản của con người. Mỗi người đều có quyền tự do tư duy, tự do hành động và tự do lựa chọn con đường cuộc sống của mình. Điều này đòi hỏi chúng ta phải có quyền tự do biểu đạt kiến kiến, quyền tự do thể hiện bản thân và quyền tự do lựa chọn giới tính, tôn giáo, ngôn ngữ và văn hóa.
Một dẫn chứng cụ thể cho quyền được sống là chính mình là quyền tự do tư duy. Mỗi người đều có quyền tự do tư duy và hình thành ý kiến riêng của mình. Điều này có nghĩa là chúng ta có quyền tự nghiên cứu, khám phá và đánh giá thông tin để đưa ra quyết định đúng đắn. Quyền tự do tư duy cũng bao gồm quyền tự do biểu đạt ý kiến. Mỗi người đều có quyền tự do diễn đạt ý kiến của mình mà không được kiểm duyệt hoặc truy cứu trách nhiệm pháp lý. Điều này đảm bảo rằng mọi người đều có thể tham gia vào cuộc tranh luận công bằng và đóng góp ý kiến của mình vào các vấn đề xã hội.
Quyền tự do hành động cũng là một dẫn chứng cụ thể cho quyền được sống là chính mình. Mỗi người đều có quyền tự hành động và tự quyết định con đường sống của mình. Điều này có nghĩa là chúng ta có quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, quyền tự do kết hôn và quyền tự do chuyển đổi. Quyền tự do hành động chắc chắn rằng mỗi người có thể theo đuổi đam mê và mục tiêu cá nhân của mình mà không bị hạn chế bởi những quy định xã hội hay áp lực từ người khác.
Quyền tự do lựa chọn giới tính, tôn giáo, ngôn ngữ và văn hóa cũng là một dẫn chứng cụ thể cho quyền được sống là chính mình. Mỗi người đều có quyền tự do lựa chọn và thể hiện bản thân theo cách mà họ mong muốn. Điều này có nghĩa là chúng ta có quyền tự do lựa chọn giới tính và quyền tự do thể hiện Tôn giáo, ngôn ngữ và văn hóa của mình. Quyền tự do lựa chọn giới tính chắc chắn khẳng định rằng mỗi người đều có quyền tự nhận và thể hiện bản thân theo giới tính mà họ cho là đúng đắn. Quyền tự do thể hiện Tôn giáo, ngôn ngữ và văn hóa chắc chắn rằng mỗi người có quyền tự do thực hiện hành vi Tôn giáo, sử dụng ngôn ngữ và có thể thể hiện văn hóa của mình mà không bị áp đặt hoặc bị phân biệt đối xử.
Tổng kết lại, quyền được sống là chính mình là quyền tự do cơ bản của con người. Quyền tự do tư duy, tự do hành động và tự do lựa chọn giới tính, tôn giáo, ngôn ngữ và văn hóa đều là những dẫn chứng cụ thể cho quyền này. Chúng ta cần tôn trọng và bảo vệ quyền này để mỗi người có thể sống một cuộc sống tự do và hạnh phúc theo cách của riêng mình.
Từ nhân vật Vũ Nương:
- Về số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, em có suy nghĩ rằng: họ tồn tại là một con người nhưng lại không được hưởng quyền lợi tự do, công bằng mà đáng ra họ phải có; dù có tài sắc giỏi giang hiểu chuyện đến nhường nào cũng không thể thoát khỏi định kiến của mọi người về "phụ nữ", phải lấy chính cái chết của bản thân để minh oan cho nỗi oan từ ngay người chung chăn gối tạo ra. Số phận ấy lênh đênh, trôi nổi giữa dòng đời "phong kiến", thấp cổ bé họng dù bản thân công dung ngôn hạnh đủ điều.
- Về vai trò của người phụ nữ trong xã hội hiện nay, em có suy nghĩ rằng: họ đủ tài năng sức lực để sống tự lập kinh tế, không dựa dẫm, và không bị áp lực về định kiến "phụ nữ". Ngoài ra, họ còn đủ tri thức sức khỏe tham gia vào nhiều lĩnh vực khác nhau của xã hội, từ chính trị, kinh doanh, khoa học, y tế, giáo dục và nghệ thuật. Hơn hết, họ còn đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng, duy trì hòa bình, phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Từ nhân vật Vũ Nương:
-Về số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến: không thể tự quyết định cho số phận của mình, không được xã hội coi trọng, dù có tài giỏi, có sắc đẹp như thế nào vẫn không thể thoát khỏi luân lí phong kiến ấy, giống những "trái bần trôi" trong thơ của Hồ Xuân Hương
-Về vai trò của người phụ nữ trong xã hội hiện nay: họ đã được xã hội công nhận, thoát khỏi định kiến phong kiến, đồng thời họ đã có đủ năng lực để tham gia vào các công việc, hoạt động của xã hội, đồng thời có thể tự lập mà không dựa dẫm vào ai
Thơ ca là hình thức nghệ thuật ra đời sớm nhất trong các loại hình nghệ thuật của con người. Thơ ca là tiếng nói, là niềm say mê của con người trước cuộc sống muôn hình vạn trang. Bản chất của thi ca là cảm xúc. Trí tuệ dường như không liên quan gì mấy đến thi ca. Thi ca bắt nguồn từ điều gì đó sâu hơn; vượt qua trí tuệ. Nó thậm trí không thể gắn cho sự thông thái. Nó là chính nó; nó có bản tính của riêng mình. Không thể định nghĩa. Bởi thế, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu từng viết trong “Ba nghìn thế giới thơm” rằng: “Thơ ca trong bản chất của nó, là mây. Một hình thể vô định và huyền ảo. Và thơ ca cũng còn là bão tố”.
Lời trích dẫn trong tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Nhật Chiêu cũng đồng thời thể hiện quan niệm của ông về thơ ca. Thơ ca lúc nào cũng nhẹ nhàng, bay bổng , lững lờ trôi giữa dòng đời vô tận. Nó ở ngay trong cuộc đời này nhưng cũng thật xa xôi như ở chốn tận cùng thế giới. Thơ ca là một hữu thể vô định mà huyền ảo, nó luôn vận động, luôn luôn đổi dời. Thơ ca mở ra một thế giới kì ảo, một chân trời lạ lẫm, nơi mà đời thực và những giấc mơ trộn lẫn vào với nhau, nơi mà mọi ranh giới hư thực bị xoá nhoà. Và trong cái nhẹ nhàng thoang thoảng thi vị ấy, thơ ca mang trong nó một sức mạnh tiềm tàng, có thể dữ dội như những cơn bão tố. Tất cả những điều đó tạo nên thi ca, rực rỡ và chói loà như một ánh ban mai vàng rực.
Giáo sư Đỗ Lai Thuý từng viết: “Thơ ca là một câu trúc ngôn từ phức tạp, nó bắt ta phải nhớ, phải cảm xúc, phải suy nghĩ bằng chính ngôn ngữ của nó”. Thơ ca được ví như một ma trận ngôn từ mà mỗi người thi sĩ là một nghệ nhân chơi chữ điêu luyện. Ngôn từ trong thi ca đeo trên nó hàng trăm nghìn những chiếc mặt nạ, vừa là nó vừa chẳng phải là nó. Mỗi một bài thơ là một hệ kí hiệu buộc người đọc phải giải mãi thật tỉ mỉ bằng lòng nhiệt thành và trái tim biết rung cảm. Ngôn từ thi ca để làm được điều này cần phải có sức gọi, cả về hình ảnh của sắc, âm thanh của vần điệu nhưng hơn cả, là gợi lên những tình ý đậm đà. Ngôn từ thi ca như tạo ra giữa chúng những khoảng không thinh lặng mà tại đó hồn thơ chan chứa, dạt dào và tràn đầy.
Nhưng như vậy chưa đủ lý do để thơ ca được ví như mây trời. Thơ ca muốn lửng lờ trôi vào hồn người cần được cấu thành từ những ngôn từ nhẹ nhàng, êm dịu. Nó phải tạo thành một làn sóng rung cảm lắng lọc trong tim độc giả thay vì những tạp ngôn xô bồ. Và thi ca, huyền bí đầy bất định chính nhờ tất thảy những những điều đó, nhờ cái ngôn từ đa nghĩ tạo thành các câu mơ hồ như những màn sướng sớm không ngừng thu hút lòng người muốn khám phá, muốn thấu hiểu nó ở tầng sâu nhất.
Mặt khác, thơ ca còn là thành phẩm của quá trình đồng sáng tạo của nhà thơ và bạn đọc. Thơ sẽ chỉ la những lời bộc bạch như một quyển nhật ký bí mật của những nhà văn nếu người đọc bỏ qua nó, khước từ nó và không hoà vào trong hồn điệu vọng vang của nó. Vì lẽ này nên thơ ca mới vô định, nó phụ thuộc vào năng lực cảm thụ và góc độ tiếp nhận của các độc giả.Thơ ca, như những dòng đối thoại không hồi kết của người đọc và nhà văn về văn chương, thơ phú, là quá trình cả hai trăn trở về nhau để hiểu đối phương và rồi tìm thấy chính mình. Và hiển nhiên nhận thức và quan điểm sống của mỗi đối tượng là khác nhau nên hiệu quả đọc cũng như ý nghĩa tìm được cho chính mình cũng không thể giống như nhau.
Ví như trong “Nguyệt cầm”, Xuân Diệu đã mở ra hàng loạt cách suy luận ngay từ trong nhan đề bài thơ. Nguyệt cầm? Là đàn nguyệt hay trăng đàn? Là nghe đàn trong đêm trăng hay đàn dưới ánh trăng? Đâu mới là ý nghĩa thật sự của hai tiếng nguyệt-cầm? Hay tất cả những câu hỏi đó đều chẳng có đáp án hay một lời giải đáp nào cả. Đó chính là sự lặng lẽ của ngôn từ, lặng lẽ đầy gợi mở, là một tấm màn kì bí bao trùm lên bài thơ mượt mà dệt bởi những ngôn từ cô đúc, sống động.
Ngôn từ thi ca vốn dĩ đã đa dạng, độc đáo nhưng cùng với sự kết hợp đầy tinh tế cùng nhau, chúng quyện hoà để xoá nhoà đi những lằn ranh ngữ nghĩa cứng nhắc để tác phẩm trở thành những câu đố không bao giờ có thể bị phá giải, tuy mơ hồ nhưng cũng thú vị hơn bao giờ cả, ví như Xuân Diệu viết:
“Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh”
Tại đây, bằng một từ “nhập”, tác giả đã xoá nhoà đi ranh giới của “trăng” và “nguyệt”, gộp cả hai thành một, hữu hình hoá cả hai vật thể vô định lại ngay trước tầm mắt: “Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân”. Xuân Diệu đi xiếc trên việc sắp đặt từ ngữ, khải niệm trăng đàn lẫn lộn hoàn toàn với nhau, bởi lẽ trăn là nguyệt mà nguyệt cũng lại là càm, ánh sáng và âm thành bện chặt lấy nhau là linh hồn trụ đỡ cho sự thăng hoa xuyên suốt bài thơ. Đồng thơi, nhà thơ sử dụng từ “cung” đầy ẩn ý. Cung? Là cung trăng hay cung đàn? Thế thì trăng nhập vào đàn hay đàn hoà vào trăng? Ta chỉ biết rằng cả hai giờ đây đã là một không còn ranh giới gì, tuy mơ hồ nhưng tràn trề sức hút.
Ngôn từ đã gợi lên hàng loạt cách nghĩ khác nhau về bài thơ, nó khiến cho bài thơ không bao giờ dừng sống động. Các làn nghĩa giao thoa trong sự hài hoà đến tuyệt đối. Chính điều này khiến cho bài thơ không bao giờ ngừng lan toả một làn sóng trùng điệp những thanh sắc vào trái tim độc giả. Và rồi, như một áng mây giữa nền trời bao la, cứ trôi, trôi mãi không nghỉ dừng,…
Thơ ca, xem mơ hồ như bản chất của mình bởi lẽ nó được bật ra từ những cơn mơ tình của người thi sĩ, từ hai bờ của nhận thức và tiềm thực, của hiện tại và những giấc mộng. Khi người nghệ nhân ngôn từ lặng lẽ chìm vào cái ưu tư của riêng mình, khi đối diện với con tim mình, nhà thơ xây dựng trong đó một thế giới chủ quan riêng, dựng lên bởi ngôn từ mà nền tàng là sự bộc phát và chiếm lĩnh những thứ trong bản năng lẫn cái tôi chìm ngủ. Đó là những mảng khuất và tầng sâu thẳm nhất trong tâm hồn để rồi bật lên từ đó, từng tiếng thơ vang vọng.
Thơ ca, trong cái tâm thức của người thi sĩ, nó phát khởi, nó vẫy vùng để được bung ra thành những âm thanh mạnh mẽ dội vào lòng người đọc. Và khi đó, nó mang lấy nhữg trăn trở, những khao khát không cách nào nguôi ngoai của nhà thơ. Để rồi, họ đi lại vào trong sáng tác của mình và tìm lại chính bản thân đầy nguyên sơ nhưng cũng thần bí và xa lạ. Giống một Huy Cận:
“Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu”
Ẩn đằng sau một Huy Cận năm nào lại là một linh hồn khác, một linh hồn đầy bơ vơ. Giữa cái đất trời thênh thang và dòng đời vô tận, đời người tuy ngắn ngủi, linh hồn tuy mong manh, đơn chiếc nhưng lại gánh hết nỗi buồn dai dẳng đến ngàn năm. Cái buồn như choán ngợp, như nuốt chửng lấy hồn người giữa vũ trụ bao la. Ở đây, ngay trong sáng tác của mình, Huy Cận đã bộc lộ một cái tôi xa lạ hẳn đi, đã thể hiện một nỗi lòng tiềm ẩn, chính điều đó khiến cho bài thơ như đưa con người vào cõi mộng, nơi mọi chiếc mặt nạ tháo xuống và cái tôi dần lộ diện, tuy kì bí, xa lạ nhưng cũng đơn côi, đáng thương đến lạ lùng.
Trong “Lược khảo Văn học”, Giáo sư Nguyễn Văn Trung có viết: “Trước một thế giới tan vỡ hay có nguy cơ tan vỡ, nhà văn nhặt nhạnh những mảnh vỡ để tái tạo lại chính nó, đồng thời kích hoạt những dây đàn cảm xúc của con người”. Thơ ca, chính vì lẽ đó, tạo nên từ những mảnh vỡ, từ cuộc đời với những tụng ca, bi ca, với thăng trầm của nỗi thống khổ và hạnh phúc vô bờ. Bởi thế, chính những bờ vực đầy chênh vênh của xúc cảm ấy, thơ ca mang lấy sự vang dội của những cơn bão tố không ngừng lay động, không ngừng xô đẩy vào lòng người đầy chơi vơi.
Có một Hàn Mặc Tử, đảo điên đầy thống khổ trong niềm đau cùng tận khi đối diện với “Một hồn đau rã lần theo hương khói”. Để rồi, đứng giữa bóng tối mịt mù của vô vọng cùng một trái tim chưa bao giờ ngừng sống và thèm sống, Hàn Mặc Tử đã để lại một cơn bão tố mang tên thơ ca kết đọng lại bằng những máu, những lệ và chiếc linh hồn cô tủi chưa bao giờ ngừng réo rắt, ngừng dữ dội:
“Mỗi khối tình nức nở giữa âm u
Mỗi hồn đau rã lần theo hương khói
Một bài thơ cháy tan trong nắng dọi
Một lời run hoi hóp giữa không trung
Cả niềm yêu, ý nhớ cả một vùng
Hoá thành vũng máu đào trong ác lặn”
Từng chút một, những vụn vỡ, tan biến hiện dần lên trong thơ Hàn cùng những thanh trắc không ngừng tiếp nối nhau như một tiếng thét toáng đầy bất lực, đầy thương đau giữa bốn bề thống khổ. Hàn Mặc Tử đã viết về nỗi cô đơn tận cùng và dai dẳng bám lấy mình theo cách ấy. Nhưng hơn cả, đó là nỗi mặc cảm chia lìa và mất mát đầy ám ánh. Cơn bão tố mà vần thơ ông gieo vào lòng người không chỉ là những rùng rợn của chao đảo trong thực hư mơ tỉnh mà còn là sự hãi hùng vì những vụn vỡ chia phôi. Đó là sự rạn nứt của thương yêu, là sự tàn lụi của thể xác hoà với linh hồn đầy bất lực, đó là sự huỷ diệt của tạo hoá đầy quyền uy, là một chút níu giữ, một chút quẫy đạp ngoi ngóp trong niềm đau, trong nỗi tuyệt vọng từng bước xâm lấn. Để rồi, có còn lại gì đâu, từng thương yêu, từng trìu mến cứ thế mà lặng lại, bị dìm chết ở đó trong máu của ta, của người và của đời, trong cái buồn thương, khổ đau không cách nào ngừng đeo đuổi hồn người, lòng người.
Cơn bão lòng chưa hề dịu đi của Hàn phả vào hồn thơ như một sự bùng nổ hoàn toàn khỏi những giới hạn, những kiềm toả để rồi nó thổi bùng lên ngọn lửa đê mê trong tâm thức sáng tạo của nhà thơ. Sự mê cuồng ấy, cơn bão giông của sự sâu sắc ngữ nghĩa mà thơ ca mang đến đó lại một lần lan toả, một lần len lỏi để khơi lên sự cảm thông đầy chua xót trong lòng độc giả. Và bão tố của thơ ca trong thơ Hàn với những bi thương, đau đớn và đơn côi ấy mãi mãi bất diệt, mãi mãi là tiếng nói giao thoa giữa những linh hồn trong cõi đời quạnh quẽ.
Bão tố trong thơ ca không có sấm chớp đì đùng nhưng nó có những tiếng thơ trào dâng. Từng làn sóng ngôn từ trùng điệp xô vào lòng ta khiến ta bồi hồi, thổn thức. Nó lam ta lay động và xuyến xao, khiến lòng ta không nguôi mà gợn nhẹ nỗi cồn cào, lăn tăn, Đó là cái tình trong thơ, cái cội nguồn cho mọi lời tha thiết. Một lần nữa, Đỗ Lai Thuý viết: “Thơ ca đứng trên cái chênh vênh của đời thực. Đó là cái đẹp của nó, là bi kịch của nó và là vận may kì diệu của nó”. Quả thật vậy, trên bờ vực của lòng người chênh vênh, thơ ca xuất hiện thu gọn tất cả vào trong tầm mắt.
Thơ ca viết về những lần chao đảo của linh hồn, nó tìm ra trong đó cái đẹp bản thể. Nó mang mác cái buồn của thời cuộc, nó nghẹn ngào nỗi đơn côi của vận mệnh. Nhưng lại càng vì thế mà nó càng may mắn: nó đã nhìn thấy, đã nắm bắt và thấu hiểu được lòng người heo hút. Nên cũng từ đây, thơ ca bộc bạch những lời thủ thỉ với lòng người khiến ai nấy “rùng mình” vì nỗi lòng đột nhiên trào dâng, vì tiếng lòng tựa như ứa ra trong từng nhịp thơ, vần thơ. Những thi vị, những ý nghĩa sâu sắc của những bài thơ bởi thế mới như là bão tố, nó đánh mạnh vào lòng người, tạo ra sợi dây gắn kết mang tên cảm thông. Những âm thanh, những hình ảnh thơ cũng dần hiện lên ngay trước mắt, không ngừng liên tục khiến cho người ta xuyến xao cả một vùng tâm thức.
Thơ ca là như thế, vừa êm ả như mây, vừa kỳ lạ, huyền ảo như những cơn bão ào ạt xô vào lòng người. Bởi thế, để đọc được thơ ca, ta cũng hãy như người thi sĩ kia, thành một kẻ điên, kẻ say, kẻ mơ. Ta hãy qua hết cuộc đời thường nhật để lắng nghe thanh âm sâu thẳm nhất của thơ ca. Ta hãy nhìn nhìn bằng đôi mắt trong veo của kẻ say chẳng màn thế sự để chìm mình trong vị rượu thi ca và tắm mướt lòng mình trong những dòng thơ dịu dàng êm ả.
Thế giới của thi ca, như một vùng trời của những điều hồ mơ, bí ẩn. Ý tứ của thơ ca lại chẳng vì thế mà rủng roẻng, sáo rỗng và vô hồn. Và thơ ca chính vì thế nên mới là một sự tồn tại bất tử, nơi cứu rỗi bao kiếp người đi qua cuộc đời bão giông. Thơ ca trong bản chất của nó, là mây. Một hình thể vô định và huyền ảo. Và thơ ca cũng còn là bão tố.
Thơ ca là hình thức nghệ thuật ra đời sớm nhất trong các loại hình nghệ thuật của con người. Thơ ca là tiếng nói, là niềm say mê của con người trước cuộc sống muôn hình vạn trang. Bản chất của thi ca là cảm xúc. Trí tuệ dường như không liên quan gì mấy đến thi ca. Thi ca bắt nguồn từ điều gì đó sâu hơn; vượt qua trí tuệ. Nó thậm trí không thể gắn cho sự thông thái. Nó là chính nó; nó có bản tính của riêng mình. Không thể định nghĩa. Bởi thế, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu từng viết trong “Ba nghìn thế giới thơm” rằng: “Thơ ca trong bản chất của nó, là mây. Một hình thể vô định và huyền ảo. Và thơ ca cũng còn là bão tố”.
Lời trích dẫn trong tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Nhật Chiêu cũng đồng thời thể hiện quan niệm của ông về thơ ca. Thơ ca lúc nào cũng nhẹ nhàng, bay bổng , lững lờ trôi giữa dòng đời vô tận. Nó ở ngay trong cuộc đời này nhưng cũng thật xa xôi như ở chốn tận cùng thế giới. Thơ ca là một hữu thể vô định mà huyền ảo, nó luôn vận động, luôn luôn đổi dời. Thơ ca mở ra một thế giới kì ảo, một chân trời lạ lẫm, nơi mà đời thực và những giấc mơ trộn lẫn vào với nhau, nơi mà mọi ranh giới hư thực bị xoá nhoà. Và trong cái nhẹ nhàng thoang thoảng thi vị ấy, thơ ca mang trong nó một sức mạnh tiềm tàng, có thể dữ dội như những cơn bão tố. Tất cả những điều đó tạo nên thi ca, rực rỡ và chói loà như một ánh ban mai vàng rực.
Giáo sư Đỗ Lai Thuý từng viết: “Thơ ca là một câu trúc ngôn từ phức tạp, nó bắt ta phải nhớ, phải cảm xúc, phải suy nghĩ bằng chính ngôn ngữ của nó”. Thơ ca được ví như một ma trận ngôn từ mà mỗi người thi sĩ là một nghệ nhân chơi chữ điêu luyện. Ngôn từ trong thi ca đeo trên nó hàng trăm nghìn những chiếc mặt nạ, vừa là nó vừa chẳng phải là nó. Mỗi một bài thơ là một hệ kí hiệu buộc người đọc phải giải mãi thật tỉ mỉ bằng lòng nhiệt thành và trái tim biết rung cảm. Ngôn từ thi ca để làm được điều này cần phải có sức gọi, cả về hình ảnh của sắc, âm thanh của vần điệu nhưng hơn cả, là gợi lên những tình ý đậm đà. Ngôn từ thi ca như tạo ra giữa chúng những khoảng không thinh lặng mà tại đó hồn thơ chan chứa, dạt dào và tràn đầy.
Nhưng như vậy chưa đủ lý do để thơ ca được ví như mây trời. Thơ ca muốn lửng lờ trôi vào hồn người cần được cấu thành từ những ngôn từ nhẹ nhàng, êm dịu. Nó phải tạo thành một làn sóng rung cảm lắng lọc trong tim độc giả thay vì những tạp ngôn xô bồ. Và thi ca, huyền bí đầy bất định chính nhờ tất thảy những những điều đó, nhờ cái ngôn từ đa nghĩ tạo thành các câu mơ hồ như những màn sướng sớm không ngừng thu hút lòng người muốn khám phá, muốn thấu hiểu nó ở tầng sâu nhất.
Mặt khác, thơ ca còn là thành phẩm của quá trình đồng sáng tạo của nhà thơ và bạn đọc. Thơ sẽ chỉ la những lời bộc bạch như một quyển nhật ký bí mật của những nhà văn nếu người đọc bỏ qua nó, khước từ nó và không hoà vào trong hồn điệu vọng vang của nó. Vì lẽ này nên thơ ca mới vô định, nó phụ thuộc vào năng lực cảm thụ và góc độ tiếp nhận của các độc giả.Thơ ca, như những dòng đối thoại không hồi kết của người đọc và nhà văn về văn chương, thơ phú, là quá trình cả hai trăn trở về nhau để hiểu đối phương và rồi tìm thấy chính mình. Và hiển nhiên nhận thức và quan điểm sống của mỗi đối tượng là khác nhau nên hiệu quả đọc cũng như ý nghĩa tìm được cho chính mình cũng không thể giống như nhau.
Ví như trong “Nguyệt cầm”, Xuân Diệu đã mở ra hàng loạt cách suy luận ngay từ trong nhan đề bài thơ. Nguyệt cầm? Là đàn nguyệt hay trăng đàn? Là nghe đàn trong đêm trăng hay đàn dưới ánh trăng? Đâu mới là ý nghĩa thật sự của hai tiếng nguyệt-cầm? Hay tất cả những câu hỏi đó đều chẳng có đáp án hay một lời giải đáp nào cả. Đó chính là sự lặng lẽ của ngôn từ, lặng lẽ đầy gợi mở, là một tấm màn kì bí bao trùm lên bài thơ mượt mà dệt bởi những ngôn từ cô đúc, sống động.
Ngôn từ thi ca vốn dĩ đã đa dạng, độc đáo nhưng cùng với sự kết hợp đầy tinh tế cùng nhau, chúng quyện hoà để xoá nhoà đi những lằn ranh ngữ nghĩa cứng nhắc để tác phẩm trở thành những câu đố không bao giờ có thể bị phá giải, tuy mơ hồ nhưng cũng thú vị hơn bao giờ cả, ví như Xuân Diệu viết:
“Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh”
Tại đây, bằng một từ “nhập”, tác giả đã xoá nhoà đi ranh giới của “trăng” và “nguyệt”, gộp cả hai thành một, hữu hình hoá cả hai vật thể vô định lại ngay trước tầm mắt: “Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân”. Xuân Diệu đi xiếc trên việc sắp đặt từ ngữ, khải niệm trăng đàn lẫn lộn hoàn toàn với nhau, bởi lẽ trăn là nguyệt mà nguyệt cũng lại là càm, ánh sáng và âm thành bện chặt lấy nhau là linh hồn trụ đỡ cho sự thăng hoa xuyên suốt bài thơ. Đồng thơi, nhà thơ sử dụng từ “cung” đầy ẩn ý. Cung? Là cung trăng hay cung đàn? Thế thì trăng nhập vào đàn hay đàn hoà vào trăng? Ta chỉ biết rằng cả hai giờ đây đã là một không còn ranh giới gì, tuy mơ hồ nhưng tràn trề sức hút.
Ngôn từ đã gợi lên hàng loạt cách nghĩ khác nhau về bài thơ, nó khiến cho bài thơ không bao giờ dừng sống động. Các làn nghĩa giao thoa trong sự hài hoà đến tuyệt đối. Chính điều này khiến cho bài thơ không bao giờ ngừng lan toả một làn sóng trùng điệp những thanh sắc vào trái tim độc giả. Và rồi, như một áng mây giữa nền trời bao la, cứ trôi, trôi mãi không nghỉ dừng,…
Thơ ca, xem mơ hồ như bản chất của mình bởi lẽ nó được bật ra từ những cơn mơ tình của người thi sĩ, từ hai bờ của nhận thức và tiềm thực, của hiện tại và những giấc mộng. Khi người nghệ nhân ngôn từ lặng lẽ chìm vào cái ưu tư của riêng mình, khi đối diện với con tim mình, nhà thơ xây dựng trong đó một thế giới chủ quan riêng, dựng lên bởi ngôn từ mà nền tàng là sự bộc phát và chiếm lĩnh những thứ trong bản năng lẫn cái tôi chìm ngủ. Đó là những mảng khuất và tầng sâu thẳm nhất trong tâm hồn để rồi bật lên từ đó, từng tiếng thơ vang vọng.
Thơ ca, trong cái tâm thức của người thi sĩ, nó phát khởi, nó vẫy vùng để được bung ra thành những âm thanh mạnh mẽ dội vào lòng người đọc. Và khi đó, nó mang lấy nhữg trăn trở, những khao khát không cách nào nguôi ngoai của nhà thơ. Để rồi, họ đi lại vào trong sáng tác của mình và tìm lại chính bản thân đầy nguyên sơ nhưng cũng thần bí và xa lạ. Giống một Huy Cận:
“Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu”
Ẩn đằng sau một Huy Cận năm nào lại là một linh hồn khác, một linh hồn đầy bơ vơ. Giữa cái đất trời thênh thang và dòng đời vô tận, đời người tuy ngắn ngủi, linh hồn tuy mong manh, đơn chiếc nhưng lại gánh hết nỗi buồn dai dẳng đến ngàn năm. Cái buồn như choán ngợp, như nuốt chửng lấy hồn người giữa vũ trụ bao la. Ở đây, ngay trong sáng tác của mình, Huy Cận đã bộc lộ một cái tôi xa lạ hẳn đi, đã thể hiện một nỗi lòng tiềm ẩn, chính điều đó khiến cho bài thơ như đưa con người vào cõi mộng, nơi mọi chiếc mặt nạ tháo xuống và cái tôi dần lộ diện, tuy kì bí, xa lạ nhưng cũng đơn côi, đáng thương đến lạ lùng.
Trong “Lược khảo Văn học”, Giáo sư Nguyễn Văn Trung có viết: “Trước một thế giới tan vỡ hay có nguy cơ tan vỡ, nhà văn nhặt nhạnh những mảnh vỡ để tái tạo lại chính nó, đồng thời kích hoạt những dây đàn cảm xúc của con người”. Thơ ca, chính vì lẽ đó, tạo nên từ những mảnh vỡ, từ cuộc đời với những tụng ca, bi ca, với thăng trầm của nỗi thống khổ và hạnh phúc vô bờ. Bởi thế, chính những bờ vực đầy chênh vênh của xúc cảm ấy, thơ ca mang lấy sự vang dội của những cơn bão tố không ngừng lay động, không ngừng xô đẩy vào lòng người đầy chơi vơi.
Có một Hàn Mặc Tử, đảo điên đầy thống khổ trong niềm đau cùng tận khi đối diện với “Một hồn đau rã lần theo hương khói”. Để rồi, đứng giữa bóng tối mịt mù của vô vọng cùng một trái tim chưa bao giờ ngừng sống và thèm sống, Hàn Mặc Tử đã để lại một cơn bão tố mang tên thơ ca kết đọng lại bằng những máu, những lệ và chiếc linh hồn cô tủi chưa bao giờ ngừng réo rắt, ngừng dữ dội:
“Mỗi khối tình nức nở giữa âm u
Mỗi hồn đau rã lần theo hương khói
Một bài thơ cháy tan trong nắng dọi
Một lời run hoi hóp giữa không trung
Cả niềm yêu, ý nhớ cả một vùng
Hoá thành vũng máu đào trong ác lặn”
Từng chút một, những vụn vỡ, tan biến hiện dần lên trong thơ Hàn cùng những thanh trắc không ngừng tiếp nối nhau như một tiếng thét toáng đầy bất lực, đầy thương đau giữa bốn bề thống khổ. Hàn Mặc Tử đã viết về nỗi cô đơn tận cùng và dai dẳng bám lấy mình theo cách ấy. Nhưng hơn cả, đó là nỗi mặc cảm chia lìa và mất mát đầy ám ánh. Cơn bão tố mà vần thơ ông gieo vào lòng người không chỉ là những rùng rợn của chao đảo trong thực hư mơ tỉnh mà còn là sự hãi hùng vì những vụn vỡ chia phôi. Đó là sự rạn nứt của thương yêu, là sự tàn lụi của thể xác hoà với linh hồn đầy bất lực, đó là sự huỷ diệt của tạo hoá đầy quyền uy, là một chút níu giữ, một chút quẫy đạp ngoi ngóp trong niềm đau, trong nỗi tuyệt vọng từng bước xâm lấn. Để rồi, có còn lại gì đâu, từng thương yêu, từng trìu mến cứ thế mà lặng lại, bị dìm chết ở đó trong máu của ta, của người và của đời, trong cái buồn thương, khổ đau không cách nào ngừng đeo đuổi hồn người, lòng người.
Cơn bão lòng chưa hề dịu đi của Hàn phả vào hồn thơ như một sự bùng nổ hoàn toàn khỏi những giới hạn, những kiềm toả để rồi nó thổi bùng lên ngọn lửa đê mê trong tâm thức sáng tạo của nhà thơ. Sự mê cuồng ấy, cơn bão giông của sự sâu sắc ngữ nghĩa mà thơ ca mang đến đó lại một lần lan toả, một lần len lỏi để khơi lên sự cảm thông đầy chua xót trong lòng độc giả. Và bão tố của thơ ca trong thơ Hàn với những bi thương, đau đớn và đơn côi ấy mãi mãi bất diệt, mãi mãi là tiếng nói giao thoa giữa những linh hồn trong cõi đời quạnh quẽ.
Bão tố trong thơ ca không có sấm chớp đì đùng nhưng nó có những tiếng thơ trào dâng. Từng làn sóng ngôn từ trùng điệp xô vào lòng ta khiến ta bồi hồi, thổn thức. Nó lam ta lay động và xuyến xao, khiến lòng ta không nguôi mà gợn nhẹ nỗi cồn cào, lăn tăn, Đó là cái tình trong thơ, cái cội nguồn cho mọi lời tha thiết. Một lần nữa, Đỗ Lai Thuý viết: “Thơ ca đứng trên cái chênh vênh của đời thực. Đó là cái đẹp của nó, là bi kịch của nó và là vận may kì diệu của nó”. Quả thật vậy, trên bờ vực của lòng người chênh vênh, thơ ca xuất hiện thu gọn tất cả vào trong tầm mắt.
Thơ ca viết về những lần chao đảo của linh hồn, nó tìm ra trong đó cái đẹp bản thể. Nó mang mác cái buồn của thời cuộc, nó nghẹn ngào nỗi đơn côi của vận mệnh. Nhưng lại càng vì thế mà nó càng may mắn: nó đã nhìn thấy, đã nắm bắt và thấu hiểu được lòng người heo hút. Nên cũng từ đây, thơ ca bộc bạch những lời thủ thỉ với lòng người khiến ai nấy “rùng mình” vì nỗi lòng đột nhiên trào dâng, vì tiếng lòng tựa như ứa ra trong từng nhịp thơ, vần thơ. Những thi vị, những ý nghĩa sâu sắc của những bài thơ bởi thế mới như là bão tố, nó đánh mạnh vào lòng người, tạo ra sợi dây gắn kết mang tên cảm thông. Những âm thanh, những hình ảnh thơ cũng dần hiện lên ngay trước mắt, không ngừng liên tục khiến cho người ta xuyến xao cả một vùng tâm thức.
Thơ ca là như thế, vừa êm ả như mây, vừa kỳ lạ, huyền ảo như những cơn bão ào ạt xô vào lòng người. Bởi thế, để đọc được thơ ca, ta cũng hãy như người thi sĩ kia, thành một kẻ điên, kẻ say, kẻ mơ. Ta hãy qua hết cuộc đời thường nhật để lắng nghe thanh âm sâu thẳm nhất của thơ ca. Ta hãy nhìn nhìn bằng đôi mắt trong veo của kẻ say chẳng màn thế sự để chìm mình trong vị rượu thi ca và tắm mướt lòng mình trong những dòng thơ dịu dàng êm ả.
Thế giới của thi ca, như một vùng trời của những điều hồ mơ, bí ẩn. Ý tứ của thơ ca lại chẳng vì thế mà rủng roẻng, sáo rỗng và vô hồn. Và thơ ca chính vì thế nên mới là một sự tồn tại bất tử, nơi cứu rỗi bao kiếp người đi qua cuộc đời bão giông. Thơ ca trong bản chất của nó, là mây. Một hình thể vô định và huyền ảo. Và thơ ca cũng còn là bão tố.