Trình bày diễn biến, ý nghĩa của cách mạng tư sản ở Anh
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Cách mạng tư sản Anh:
* Diễn biến:
- Tháng 8-1642, Sác-lơ I tuyên chiến với Quốc hội.
- Từ năm 1642 đến năm 1648, đã xảy ra nội chiến giữa Quốc hội được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, với nhà vua có sự hỗ trợ của quý tộc phong kiến và Giáo hội Anh.
- Tháng 1-1649, Sác-lơ I bị xử tử. Anh trở thành nước cộng hoà do Ô-li-vơ Crôm-oen (1599-1658) đứng đầu. Cách mạng đạt tới đỉnh cao.
- Năm 1653, nền độc tài quân sự được thiết lập. Bước thụt lùi của cách mạng.
- Tháng 12-1688, Quốc hội tiến hành chính biến, đưa Vin-hem Ô-ran-giơ (Quốc trưởng Hà Lan, con rể vua Anh) lên ngôi vua. Chế độ quân chủ lập hiến được thiết lập.
* Kết quả:
- Lật đổ chế độ phong kiến, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển.
- Thiết lập chế độ quân chủ lập hiến.
Ý nghĩa :
– Lật đổ chế độ phong kiến, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển.
– Mở đầu 1 thời đại mới trong lịch sử loài người: Thời kỳ cận đại.
– 8/ 1642, Sác lơ tuyên chiến với Quốc hội, nội chiến bùng nổ.
– 30/1/1649, Sác lơ I bị xử tử, nền Cộng hoà được thiết lập, cách mạng đạt đỉnh cao.
– 1653 thiết lập nền độc tài quân sự do Crôm – oen đứng đầu.
– 1658 Crôm-oen chết, nước Anh lâm vào tình trạng bất ổn, chế độ phong kiến phục hồi.
– 12/1688, Quốc hội làm chính biến, thiết lập nền quân chủ lập hiến.
* Tính chất: là cuộc cách mạng tư sản không triệt để vì:
– Tàn dư phong kiến vẫn còn tồn tại.
– Vấn đề ruộng đất của nông dân chưa được giải quyết.
– Nhân dân không được hưởng quyền lợi gì, bị bóc lột.
* Ý nghĩa:
– Lật đổ chế độ phong kiến, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển.
– Mở đầu 1 thời đại mới trong lịch sử loài người: Thời kỳ cận đại.
*) Nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự bùng nổ của cuộc Cách mạng Hà Lan : mâu thuẩn giữa nhân dân Nê-dec-lan với vương quốc Tây Ban Nha
*) Nguyên nhân cách mạng bùng nổ ở Anh :
- Kinh tế: đầu thế kỷ XVII, nền kinh tế nước Anh phát triển nhất châu Âu nhờ buôn bán nô lệ da đen, len dạ.
-Tháng 4-1640 Vua Sac lơ I triệu tập quôc hội để tăng thuế nhằm đàn áp cuộc nổi dây của người Xcốt-len.
-Quốc hội không phê duyệt, và công kích chính sách bạo ngược của nhà vua, đòi kiểm soát quân đội, tài chính và giáo hội.
-Sac-lơ I dùng vũ lực đàn áp Quốc hội, bị thất bại phải chạy lên phía Bắc Luân Đôn chuẩn bị lực lượng phản công.
Cách mạng Tháng Mười Nga đã khai phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp kiến tạo một xã hội mới chưa từng có trong lịch sử nhân loại.
Từ một nước Nga dưới sự cai trị của Sa hoàng, đất nước Nga Xô-viết dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã có sự phát triển vượt bậc về kinh tế, quốc phòng, an ninh, văn hóa, y tế, giáo dục… Trong một thời kỳ dài của lịch sử ở thế kỷ 20, Liên Xô đã trở thành một cường quốc thế giới, là trụ cột của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới.
Đặc biệt, thắng lợi của cách mạng Tháng Mười đã mở đường cho Chủ nghĩa Mác – Lê-nin thâm nhập vào tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Dưới ánh sáng của cách mạng Tháng Mười, đã có rất nhiều nước ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ La-tinh đã đứng lên đấu tranh đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, phá vỡ từng mảng lớn hệ thống thuộc địa của chúng và giành được tự do, độc lập, đưa nhân dân lên địa vị làm chủ xã hội.
Sau chiến thắng của Cách mạng Tháng Mười, phong trào cách mạng ở mỗi nước, trong đó có Việt Nam, trở thành một bộ phận khăng khít của phong trào cách mạng thế giới.
Ý nghĩa cách mạng Tháng Mười Nga đối với nước NgaCách mạng Tháng Mười thắng lợi đã phá vỡ mắt xích yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc. Đây được xem là bước ngoặt lịch sử vô cùng quan trọng trong lịch sử thế giới hiện đại.
Đây cũng là lần đầu tiên trên thế giới, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, liên minh công nhân, nông dân và binh lính Nga đã đồng loạt đứng lên, lật đổ chế độ Nga hoàng, lập ra Nhà nước Xô viết, đưa nhân dân Nga từ thân phận nô lệ thành người làm chủ. Thắng lợi này cũng mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử nước Nga – kỷ nguyên độc lập tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng Mười cũng xóa bỏ các giai cấp bóc lột, tư sản, địa chủ và chế độ người bóc lột người, đưa giai cấp vô sản bị áp bức, bóc lột nặng nề thành giai cấp đứng đầu và làm chủ xã hội. Đồng thời, giải phóng nhân dân lao động, đưa người lao động trở thành giai cấp lãnh đạo.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Mười tạo điều kiện cho sự ra đời nhà nước xã hội chủ nghĩa – nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trong lịch sử loài người và làm cho chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực trong đời sống chính trị thế giới. Có thể thấy, nó đã mở ra một bước ngoặt căn bản trong lịch sử loài người, từ thế giới tư bản chủ nghĩa sang thế giới xã hội chủ nghĩa, mở ra một thời đại mới – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Ý nghĩa cách mạng Tháng Mười Nga với cách mạng Việt NamKhông chỉ có tầm ảnh hưởng ở nước Nga và trên thế giới, cách mạng Tháng Mười còn có ý nghĩa to lớn và quan trọng đối với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Nhận định về ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Giống như Mặt Trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên Trái Đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.
Vào những năm đầu thế kỷ 20, trong lúc cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam đang gặp phải khó khăn về tổ chức lãnh đạo và đường lối, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh tìm thấy ánh sáng của cách mạng Tháng Mười, từ đó hoạch định con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Đồng thời, cuộc cách mạng này cũng góp phần cổ vũ tinh thần nhân dân ta đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, lật đổ ách áp bức của thực dân, đế quốc để đi lên con đường Chủ nghĩa xã hội. Cũng từ đó, tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt Nam – Liên Xô không ngừng củng cố và phát triển.
Những bài học kinh nghiệm từ Cách mạng tháng Mười Nga đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng một cách sáng tạo trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, đưa lại những thành công lớn trong quá trình bảo vệ, xây dựng đất nước.
Trên đây là phần trình bày về ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Bài viết hi vọng đã đem đến thông tin hữu ích cho bạn đọc.
Các cuộc cách mạng tư sản có ý nghĩa lịch sử to lớn đã chấm dứt sự đô hộ của ngoại bang (ở Hà Lan), lật đổ chế độ phong kiến chuyên chế (ờ Anh), giải phóng nhân dân khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân (ở Bắc Mĩ), mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển ở các nước này.
Hiệp ước gồm 19 điều với nội dung bao trùm là nước An Nam thừa nhận và chấp nhận nền bảo hộ của nước Pháp. Nước Pháp sẽ thay mặt nước An Nam trong mọi quan hệ đối ngoại. Người An Nam sống ở nước ngoài sẽ đặt dưới sự bảo hộ của nước Pháp. Hai bên điều chỉnh lại ranh giới ba miền Bắc, Trung, Nam. Từ phía nam tỉnh Bình Thuận trở vào gọi là Nam Kỳ. Từ đây trở ra tới địa giới phía nam tỉnh Ninh Bình gọi là Trung Kỳ và từ đây trở ra đến biên giới Việt Trung gọi là Bắc Kỳ. Nam kỳ được xác định là thuộc địa của Pháp, còn Bắc Kỳ và Trung Kỳ hợp lại được gọi là Nương quốc An Nam (Empire dAnnam) và được đặt dưới chế độ bảo hộ của Pháp.
Hậu quả của Patonot: Việc triều đình nhà Nguyễn ký kết với người Pháp hiệp ước Pa tơ nốt đã chấm dứt triều đại phong kiến nhà Nguyễn với tư cách là một quốc gia độc lập, thay vào đó là chế độ thuộc địa nửa phong kiến, đặt Việt Nam trước ách đô hộ của thực dân Pháp cho đến cách mạng tháng 8 năm 1945
Hiệp ước gồm 19 điều với nội dung bao trùm là nước An Nam thừa nhận và chấp nhận nền bảo hộ của nước Pháp. Nước Pháp sẽ thay mặt nước An Nam trong mọi quan hệ đối ngoại. Người An Nam sống ở nước ngoài sẽ đặt dưới sự bảo hộ của nước Pháp. Hai bên điều chỉnh lại ranh giới ba miền Bắc, Trung, Nam. Từ phía nam tỉnh Bình Thuận trở vào gọi là Nam Kỳ. Từ đây trở ra tới địa giới phía nam tỉnh Ninh Bình gọi là Trung Kỳ và từ đây trở ra đến biên giới Việt Trung gọi là Bắc Kỳ. Nam kỳ được xác định là thuộc địa của Pháp, còn Bắc Kỳ và Trung Kỳ hợp lại được gọi là Nương quốc An Nam (Empire dAnnam) và được đặt dưới chế độ bảo hộ của Pháp.
Hậu quả của Patonot: Việc triều đình nhà Nguyễn ký kết với người Pháp hiệp ước Pa tơ nốt đã chấm dứt triều đại phong kiến nhà Nguyễn với tư cách là một quốc gia độc lập, thay vào đó là chế độ thuộc địa nửa phong kiến, đặt Việt Nam trước ách đô hộ của thực dân Pháp cho đến cách mạng tháng 8 năm 1945
Cách mạng Hà Lan (1566/1568 – 1648)[2] là cuộc khởi nghĩa của nhân dân Vùng đất thấp chống lại sự cai trị của Hitler
. Đây cũng là dấu mốc đánh dấu sự chuyển giao lịch sử giữa thời kỳ Trung cổ và Cận đại.
Cải cách Minh Trị, hay Cách mạng Minh Trị, hay Minh Trị Duy tân, (明治維新 Meiji-ishin) là một chuỗi các sự kiện cải cách, cách tân dẫn đến các thay đổi to lớn trong cấu trúc xã hội và chính trị của Nhật Bản. Cuộc cách mạng Minh Trị diễn ra từ năm 1866 đến năm 1869, một thời kỳ 3 năm chuyển đổi thời kỳ hậu Giang Hộ (thường gọi là Hậu Tướng quân Tokugawa) và bắt đầu thời kỳ Minh Trị.
Nhận xét của mình là:
+ Là cuộc cách mạng tư sản đầu tiên trên thế giới
+ Lật đổ ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển.
+ Mở ra thời đại mới, thời đại bùng nổ của các cuộc cách mạng tư sản.
+ Nhưng đều là cuộc cách mạng chưa triệt để
+ Chỉ có giai cấp tư sản được hưởng lợi còn nhân dân lao động thì không được hưởng.
:>Tick cho mình nhé<:
Nội chiến Anh (English Civil War, 1642–1651) là một loạt các xung đột giữa phe Nghị hội ("Viên Đầu đảng") và phe Bảo hoàng ("Kị Sĩ đảng") xoay quanh thể chế chính trị tại Anh và vấn đề tự do tôn giáo. Các cuộc chiến này thường được các sử gia chia làm ba giai đoạn:
- Nội chiến Anh lần thứ nhất (1642-1646), giữa phe Bảo hoàng Anh của vua Charles I với quốc hội dài hạn.
- Nội chiến Anh lần thứ nhì (1648-1649), giữa phe Bảo hoàng Anh của vua Charles I với quốc hội dài hạn.
- Nội chiến Anh lần thứ ba (1649-1651), giữa phe Bảo hoàng của vua Charles II và nhóm dân biểu còn lại.
Sau khi vua James I (1603-1625) qua đời vào năm 1625, Thái tử Charles lên nối ngôi, tức là vua Charles I.
Năm 1625, vua Charles cưới Henrietta Maria, con gái vua Henri IV của Pháp. Cuộc hôn nhân này không được quần thần và thần dân Anh tán tưởng vì Vương hậu Maria là một tín đồ Công giáo La Mã ngoan đạo, lại được nuôi dưỡng trong một chế độ quân chủ tuyệt đối. Về sau, sự ảnh hưởng của Maria đối với các chính sách của Charles khiến cho giữa ông và Quốc hội xảy ra tranh chấp.
Cũng như đối với vua James, vấn đề trọng đại được đặt ra là quốc vương Anh có thể là vị vua có quyền lực tuyệt đối như các vương triều châu Âu khác, hay các quyền làm luật và đánh thuế của nhà vua đều bị giới hạn bởi Quốc hội. Ngoài ra, còn có vấn đề tôn giáo nữa. Nhiều cận thần của vua Charles I theo Thanh giáo (Puritan) muốn huỷ bỏ một số lễ nghi của Công giáo Rôma và e ngại nhà vua sẽ phục hồi Công giáo (Catholic). Như vậy, giữa nhà vua và quốc hội có sự bất tín nhiệm lẫn nhau. Do cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha và Pháp, vua Charles rất cần tiền chi phí chiến tranh nhưng quốc hội lại không chịu bỏ phiếu phê chuẩn số tiền mà ông cần đến. Vua Charles đành phải tiết kiệm tiền bằng cách cho quân sĩ sống nhờ nhà dân và buộc các nhà giàu phải cho triều đình vay tiền, những người từ chối sẽ bị tống giam vào ngục. Hành động này của vua Charles I và các quyết định bất thường khác đã khiến cho các vị lãnh đạo quốc hội Anh phản đối, vị họ cho rằng các chính sách này vi phạm đến các tự do hiến định của nhân dân. Sự tranh chấp lên tới mức độ căng thẳng khiến cho nhà vua phải giải tán quốc hội hai lần.
Năm 1628, vua Charles triệu tập quốc hội thứ ba và sự thù nghịch giữa nhà vua với quốc hội càng tăng thêm rõ ràng. Quốc hội thứ ba đã xác nhận lời trách cứ của họ đối với các yêu sách bất hợp pháp của nhà vua, buộc ông phải nhận đơn thỉnh nguyện trong đó liệt kê "các quyền lợi khác nhau và các tự do của thần dân". Đơn thỉnh nguyện về quyền lợi này đề nghị huỷ bỏ việc bắt buộc vay tiền và đóng quân tại nhà dân, đồng thời cũng xác nhận rằng quốc hội có quyền giới hạn các quyền lực của nhà vua. Để có tiền, vua Charles I đã ký nhận đơn thỉnh nguyện rồi về sau, do cảm thấy bị mất thể diện, ông đã giải tán quốc hội thứ ba năm 1629 và trong vòng 11 năm tiếp theo, ông trị vì mà không triệu tập quốc hội nữa. Cũng trong thời gian này, ông không thèm đếm xỉa tới các lời thỉnh cầu và với một số cận thần. Ông còn nghĩ đền nhiều cách gây quỹ làm mất lòng dân, chẳng hạn như để trang bị một hạm đội, nhà vua đòi thần dân nộp "tiền đóng tàu" (ship money) và coi đây không phải là một thứ thuế. Thần dân Anh đã phản kháng việc này và trong số đó có ông John Hampden đã từ chối nộp 20 bảng Anh và đã táo bạo đưa vấn đề ra toà án để tranh cãi.
Năm 1633, William Laud, Tổng Giám mục Canterbury, theo sự ủng hộ của vua Charles I, muốn áp dụng Anh giáo Thượng giáo hội vào toàn thể nước Anh và Scotland. Việc tổng giám mục Laud bắt dùng Sách Cầu nguyện Chung (Book of Common Prayer) tại các nhà thờ Scotland đã khiến cho dân Scotland nổi lên chống đối. Do không thể dẹp loạn, vua Charles I phải triệu tập một quốc hội vào năm 1640 nhưng lại hạ lệnh giải tán chỉ 5 ngày sau đó. Đây là quốc hội Ngắn hạn (the Short Parliament). Nhưng sự bất lực của nhà vua đã khiến cho một quốc hội thành lập cùng năm ấy quốc hội mới thông qua một nghị quyết kể từ này, quốc hội sẽ không bị giải tán nếu không có sự đồng ý của chính họ. Người đương thời đã gọi đây là Quốc hội Dài hạn (The Long Parliament).
Ngay sau đó quốc hội Dài hạn đã tống giam Thomas Wentworth, Bá tước Strafford thứ nhất cùng với Tổng Giám mục Laud vào Tháp Luân Đôn (The Tower of London). Năm 1641, Bá tước Strafford bị hành quyết và Tổng Giám mục Laud phải chịu chung số phận vào 4 năm sau. Đồng thời, quốc hội Anh phổ biến tới toàn dân "Bài khiển trách lớn lao" (the Grand Remonstrace), trong đó liệt kê lỗi lầm của nhà vua và đòi hỏi các bộ trưởng phải chịu trách nhiệm trước quốc hội, đòi hỏi nhà vua không được đánh thuế dân chúng nếu không có sự đồng ý của quốc hội. Vua Charles I lúc đấy đã không muốn từ bỏ một uy quyền nào. Năm 1642, ông đã nổi giận, dẫn một toán binh sĩ trang bị đầy đủ khí giới, xông vào Toà Nhà Quốc hội để bắt 5 dân biểu hàng đầu, thường tỏ ra chống đối Charles I. Nhưng 5 người này đã được báo trước và trốn chạy. Hành động của Charles đã nhanh chóng gây ra cuộc nội chiến, và ông đã bỏ chạy lên mạn bắc nước Anh chuẩn bị lực lượng chống lại Quốc hội và nhân dân.
Diễn biếnCả Vương thất và quốc hội đều lo tập trung quân đội. Có một nửa nhân viên quốc hội ủng hộ Vương thất, được gọi là các "kị binh" (cavaliers), gồm các nhà quý tộc và phần lớn các, trong khi những người gọi là các "kẻ đầu tròn" (roundheads) vì họ cắt tóc thật sát. Các "kẻ đầu tròn" khi đó đã kiểm soát được thành phố Luân Đôn, điều khiển được hải quân và có quyền đánh thuế để tăng ngân quỹ. Tháng 8 năm 1642, cuộc nội chiến bùng nổ, phe quốc hội hay các "kẻ đầu tròn" đã sớm tìm ra một vị chỉ huy quân sự có tài, đó là ông Oliver Cromwell - một người Thanh giáo.
Oliver CromwellTháng 7 năm 1644, trong trận chiến Marston Moor gần xứ York, Vương thân Ruper đã đưa một đạo quân bảo hoàng đánh vào cánh phải của quân quốc hội thì bất ngờ, quân kị binh của Cromwell từ bên trái đánh sang và giành chiến thắng, khiến cho Vương thân Ruper phải gọi đội kị binh của Cromwell là đạo quân "sườn sắt" (the Ironsides).
Cuộc nội chiến ngày càng tiếp diễn, vai trò của Cromwell ngày càng trở nên quan trọng. Cromwell đã tổ chức lại quân đội theo kiểu mẫu đạo quân "sườn sắt" và đại phá Vương quân trong trận chiến cuối cùng Naseby vào tháng 6 năm 1645. Đầu năm sau (1646), vua Charles phải chạy sang Scotland nhưng bị dân xứ này bắt được và giao cho nhân dân Anh.
Nước Anh thời kỳ này được trị vì bởi các lãnh đạo quân đội và nhóm dân biểu "còn lại" (the Rump) của quốc hội năm 1640, là những người rất trung thành với lý tưởng Thanh giáo. Các nhà lãnh đạo này đều cho rằng Charles không đáng tin cậy và độc đoán, cần phải trừ khử. Ngày 20 tháng 1 năm 1649, trước sức ép của nhân dân và quân đội,Charles bị đưa ra xét xử vì tội "phản bội". Ngày 30 tháng 1 cùng năm nhà vua bị kết án là "bạo chúa, phản bội, sát nhân và là kẻ thù của nhân dân" và bị xử tử trước sự chứng kiến của đông đảo quần chúng.
Oliver Cromwell sau đó lên nắm quyền, thiết lập chế độ độc tài khiến người dân oán hận. Tới khi Oliver Cromwell qua đời, nước Anh đã chán ngán với sự cai trị của Thanh giáo, nhiều người muốn dàn xếp những mối bất hoà cũ và khôi phục lại chế độ quân chủ, vua Charles II được mời quay trở lại triều đình năm 1660 nhưng vẫn muốn giữ những thành quả của cách mạng. Khi ấy Hiến pháp được đưa ra với quy định rằng Nhà vua và Nghị viện sẽ cùng cai trị, dù trên thực tế mãi tới thế kỷ sau quy định này mới được thực sự áp dụng trong thực tế. Với việc thành lập Hội Hoàng gia, khoa học và nghệ thuật được khuyến khích phát triển. Năm 1688, chế độ quân chủ lập hiến chính thức được xác lập, với Vương công xứ Orange là William III nắm quyền, nhưng quyền lợi lại nằm trong tay tư sản và quý tộc mới.
Ý nghĩaLực lượng cách mạng chiến thắng trong cuộc nội chiến tại Anh nhờ được quần chúng ủng hộ và tham gia đấu tranh. Cách mạng dọn đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ hơn, thể hiện sự thắng thế của giai cấp tư sản và quý tộc đối với nhà vua, báo hiệu sự suy vong của chế độ quân chủ chuyên chế và dần được thay thế bởi chế độ quân chủ lập hiến, một hình thức nhà nước dân chủ. Sau cuộc cách mạng này nhà vua phải chia sẻ quyền lực với Quốc hội và chịu sự chế định của Hiến pháp.
* Diễn biến:
- Tháng 8-1642, Sác-lơ I tuyên chiến với Quốc hội.
- Từ năm 1642 đến năm 1648, đã xảy ra nội chiến giữa Quốc hội được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, với nhà vua có sự hỗ trợ của quý tộc phong kiến và Giáo hội Anh.
- Tháng 1-1649, Sác-lơ I bị xử tử. Anh trở thành nước cộng hoà do Ô-li-vơ Crôm-oen (1599-1658) đứng đầu. Cách mạng đạt tới đỉnh cao.
- Năm 1653, nền độc tài quân sự được thiết lập.Bước thụt lùi của cách mạng.
- Tháng 12-1688, Quốc hội tiến hành chính biến, đưa Vin-hem Ô-ran-giơ (Quốc trưởng Hà Lan, con rể vua Anh) lên ngôi vua. Chế độ quân chủ lập hiến được thiết lập.
* Kết quả:
- Lật đổ chế độ phong kiến, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển.
- Thiết lập chế độ quân chủ lập hiến