K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Câu 1. (2,0 điểm)        Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích. Bài đọc: Đường đường một đấng anh hào, Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài Đội trời đạp đất ở đời, Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông Giang hồ quen thú vẫy vùng, Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều, Tấm lòng...
Đọc tiếp

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm)

       Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích.

Bài đọc:

Đường đường một đấng anh hào,

Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài

Đội trời đạp đất ở đời,

Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông

Giang hồ quen thú vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo

Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,

Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng

Thiếp danh đưa đến lầu hồng,

Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa.

Từ rằng: “Tâm phúc tương cờ,

Phải người trăng gió vật vờ hay sao?

Bấy lâu nghe tiếng má đào,

Mắt xanh chẳng để ai vào có không?

Một đời được mấy anh hùng,

Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi!”

Nàng rằng: “Người dạy quá lời,

Thân này còn dám xem ai làm thường!

Chút riêng chọn đá thử vàng,

Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu?

Còn như vào trước ra sau,

Ai cho kén chọn vàng thau tại mình!”

Từ rằng: “Lời nói hữu tình,

Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân.

Lại đây xem lại cho gần,

Phỏng tin được một vài phần hay không?”

Thưa rằng: “Lượng cả bao dung,

Tấn Dương được thấy mây rồng có phen.

Rộng thương cỏ nội hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”

Nghe lời vừa ý gật đầu,

Cười rằng: “Tri kỷ trước sau mấy người?

Khen cho con mắt tinh đời,

Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!

Một lời đã biết đến ta,

Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau!”

Hai bên ý hợp tâm đầu,

Khi thân chẳng lọ là cầu mới thân.

Ngỏ lời nói với băng nhân,

Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn.

Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn,

Đặt giường thất bảo vây màn bát tiên.

Trai anh hùng gái thuyền quyên,

Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng.

(Trích “Truyện Kiều”, Nguyễn Du, Nhà xuất bản Trẻ, 2015, tr 293 - 297)

0
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm) Đọc đoạn trích và thực hiện các yêu cầu. Câu 1. (0,5 điểm) Xác định người kể chuyện trong đoạn trích. Câu 2. (0,5 điểm) Hai nhân vật Từ Hải và Thúy Kiều gặp nhau trong hoàn cảnh nào? Câu 3. (1,0 điểm) Anh/chị có nhận xét gì về nhân vật Thúy Kiều qua những câu thơ sau? Thưa rằng: “Lượng cả bao dung, Tấn Dương được thấy mây rồng có phen. Rộng thương cỏ nội hoa...
Đọc tiếp

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)

Đọc đoạn trích và thực hiện các yêu cầu.

Câu 1. (0,5 điểm) Xác định người kể chuyện trong đoạn trích.

Câu 2. (0,5 điểm) Hai nhân vật Từ Hải và Thúy Kiều gặp nhau trong hoàn cảnh nào?

Câu 3. (1,0 điểm) Anh/chị có nhận xét gì về nhân vật Thúy Kiều qua những câu thơ sau?

Thưa rằng: “Lượng cả bao dung,

Tấn Dương được thấy mây rồng có phen.

Rộng thương cỏ nội hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”

Câu 4. (1,0 điểm) Anh/chị có nhận xét như thế nào về nhân vật Từ Hải qua đoạn trích?

Câu 5. (1,0 điểm) Đoạn trích đã khơi gợi trong anh/chị những tình cảm/cảm xúc gì? Vì sao?

Bài đọc:

Đường đường một đấng anh hào,

Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài

Đội trời đạp đất ở đời,

Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông

Giang hồ quen thú vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo

Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,

Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng

Thiếp danh đưa đến lầu hồng,

Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa.

Từ rằng: “Tâm phúc tương cờ,

Phải người trăng gió vật vờ hay sao?

Bấy lâu nghe tiếng má đào,

Mắt xanh chẳng để ai vào có không?

Một đời được mấy anh hùng,

Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi!”

Nàng rằng: “Người dạy quá lời,

Thân này còn dám xem ai làm thường!

Chút riêng chọn đá thử vàng,

Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu?

Còn như vào trước ra sau,

Ai cho kén chọn vàng thau tại mình!”

Từ rằng: “Lời nói hữu tình,

Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân.

Lại đây xem lại cho gần,

Phỏng tin được một vài phần hay không?”

Thưa rằng: “Lượng cả bao dung,

Tấn Dương được thấy mây rồng có phen.

Rộng thương cỏ nội hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”

Nghe lời vừa ý gật đầu,

Cười rằng: “Tri kỷ trước sau mấy người?

Khen cho con mắt tinh đời,

Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!

Một lời đã biết đến ta,

Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau!”

Hai bên ý hợp tâm đầu,

Khi thân chẳng lọ là cầu mới thân.

Ngỏ lời nói với băng nhân,

Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn.

Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn,

Đặt giường thất bảo vây màn bát tiên.

Trai anh hùng gái thuyền quyên,

Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng.

(Trích “Truyện Kiều”, Nguyễn Du, Nhà xuất bản Trẻ, 2015, tr 293 - 297)

1
29 tháng 2

1. Người kể chuyện trong đoạn trích trên là chủ thể trữ tình 

 

 

7 tháng 5

Anh /Chị hãy viết đoạn văn 200 chữ trả lời câu hỏi : Làm thế nào để thích ứng với thời đại số

18 tháng 2

m n u g a v à

18 tháng 2

giải với 

11 tháng 3

jdjsiajdnxnfjaooMxncnfjaisnndnsndn

6 tháng 3

TỐNG BIỆT HÀNH

Đưa người, ta không đưa qua sông,

Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

Đưa người ta chỉ đưa người ấy

Một giã gia đình, một dửng dưng...

- Li khách! Li khách! Con đường nhỏ,

Chí nhớn chưa về bàn tay không,

Thì không bao giờ nói trở lại!

Ba năm mẹ già cũng đừng mong!

*

Ta biết người buồn chiều hôm trước:

Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,

Một chị, hai chị cũng như sen

Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.

Ta biết người buồn sáng hôm nay:

Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay,

Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc

Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...

Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!

Mẹ thà coi như chiếc lá bay,

Chị thà coi như là hạt bụi,

Em thà coi như hơi rượu say.

(Hoài Thanh – Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam (1932 – 1941), NXB Văn học, Hà Nội, 2007, tr. 280 – 281)

*Giới thiệu: Thâm Tâm (1917 – 1950), tên khai sinh là Nguyễn Tuấn Trình, sinh tại thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương), tỉnh Hải Dương, là một trong những gương mặt của phong trào Thơ mới 1932 – 1945. Ông nổi tiếng với bài thơ “Tống biệt hành”.

Bạn chưa trả lời câu hỏi này. Trả lời câu hỏi này Bài 6  Xem hướng dẫn  Bình luận (54)

(2.0 điểm)

Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) nêu cảm nhận về hình tượng “li khách” trong bài thơ “Tống biệt hành” (Thâm Tâm).

Bài đọc:

TỐNG BIỆT HÀNH

Đưa người, ta không đưa qua sông,

Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

Đưa người ta chỉ đưa người ấy

Một giã gia đình, một dửng dưng...

- Li khách! Li khách! Con đường nhỏ,

Chí nhớn chưa về bàn tay không,

Thì không bao giờ nói trở lại!

Ba năm mẹ già cũng đừng mong!