K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

(1.0 điểm) Trong Kim Vân Kiều truyện, Thanh Tâm tài nhân đã miêu tả nhân vật Từ Hải trong lần đầu xuất hiện như sau: Lúc ấy, có một hảo hán tên Hải họ Từ, tự là Minh Sơn, vốn người đất Việt, có tính khoáng đạt, rộng rãi, giàu sang coi nhẹ, tì thiếp oi thường, lại còn tinh cả lục thao tam lược, nổi danh cái thế anh hùng (anh hùng trùm cả đời). Trước cũng theo nghề nghiên bút, thi hỏng mấy khoa, sau...
Đọc tiếp

(1.0 điểm)

Trong Kim Vân Kiều truyện, Thanh Tâm tài nhân đã miêu tả nhân vật Từ Hải trong lần đầu xuất hiện như sau:

Lúc ấy, có một hảo hán tên Hải họ Từ, tự là Minh Sơn, vốn người đất Việt, có tính khoáng đạt, rộng rãi, giàu sang coi nhẹ, tì thiếp oi thường, lại còn tinh cả lục thao tam lược, nổi danh cái thế anh hùng (anh hùng trùm cả đời). Trước cũng theo nghề nghiên bút, thi hỏng mấy khoa, sau mới xoay ra thương mại, tiền của có thừa, lại thích kết giao với những giang hồ hiệp khách. Nay nghe Thúy Kiều là hạng tài sắc, lại thêm khí khái hiệp hào, nhân tiện ghé thăm, mụ chủ biết Từ Minh Sơn là tay hảo hán, có lòng hạ cố, vội kêu Thúy Kiều ra tiếp. Thoạt mới nhìn nhau, đôi bên đã có phần thiện cảm…

(Phạm Đan Quế, Truyện Kiều đối chiếu, NXB Hải Phòng, Hải Phòng, 1999, trang 349 – 350)

So sánh với bút pháp miêu tả Từ Hải của Nguyễn Du, hãy chỉ ra một sự sáng tạo của Nguyễn Du so với Thanh Tâm tài nhân khi xây dựng nhân vật Từ Hải.

Bài đọc:

Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1]

Lần thâu gió mát trăng thanh,

Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi.

Râu hùn, hàm én, mày ngài[3],

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.

Đường đường một đấng anh hào[4],

Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài.

Đội trời, đạp đất ở đời,

Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông[7].

Giang hồ quen thú vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo[8].

Qua chơi nghe tiếng nàng kiều,

Tấm lòng nhi nữ[9] cũng xiêu anh hùng.

Thiếp danh đưa đến lầu hồng,

Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa.

Từ rằng: “tâm phúc tương cờ[10],

Phải người trăng gió vật vờ hay sao?

Bây giờ nghe tiếng má đào,

Mắt xanh[11] chẳng để ai vào, có không?”

Thưa rằng: “Lượng cả bao dong,

Tấn Dương[12] được thấy mây rồng có phen.

Rộng thương cỏ nội, hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”

Nghe lời vừa ý, gật đầu,

Cười rằng: “Tri kỉ trước sau mấy người

Khen cho con mắt tinh đời,

Anh hùng đoán giữa trần ai[13] mới già!

Một lời đã biết đến ta,

Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau!”

Hai bên ý hợp, tâm đầu[14],

Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân!

Ngỏ lời nói với băng nhân[15],

Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn[16].

Buồng riêng, sửa chốn thanh nhàn,

Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.

Trai anh hùng, gái thuyền quyên[17],

Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng[18].

(Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, trang 158 – 162)

[1] Nhan đề do người biên soạn đặt.

[2] Biên đình: nơi biên ải xa xôi.

[3] Râu hùm, hàm én, mày ngài: tướng mạo của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm.

[4] Anh hào: anh hùng hào kiệt.

[5] Côn quyền: môn võ đánh bằng tay.

[6] Lược thao: mưu lược về tài dùng binh.

[7] Việt Đông: chỉ tỉnh Quảng Đông ở phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông.

[8] Gươm đàn … một chèo: Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: “Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa tuy” (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông.

[9] Tấm lòng nhi nữ: ý nói người đẹp.

[10] Tâm phúc tương cờ: tương cờ tức tương kì. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỉ chứ không phải là yêu đương trăng gió tạm bợ.

[11] Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói Từ Hải hỏi Kiều: Xưa nay, nàng chưa hề xem trọng ai có phải không.

[12] Tấn Dương: Tên đất nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tùy, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói Thúy Kiều tin tưởng Từ Hải là Từ hải sẽ nên nghiệp đế vương. 

[13] Trần ai: bụi bặm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường.

[14] Ý hợp, tâm đầu: hợp ý nhau, có những tình cảm và các suy nghĩ như nhau.

[15] Băng nhân: người làm mối trong việc hôn nhân.

[16] Nguyên ngân: số tiền bỏ ra khi trước; phát hoàn: đưa trả lại.

[17] Thuyền quyên: người con gái đẹp.

[18] Sánh phượng, cưỡi rồng: xưa Kính Trọng, nước Tần được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: “Phượng hoàng vu phi…” (Chim phượng hoàng cùng bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này ý nói Thúy Kiều và Từ Hải đẹp duyên với nhau.

0
(1.0 điểm) Theo em, nhân vật Từ Hải được khắc họa bằng bút pháp gì? Hãy phân tích tác dụng của bút pháp đó. Bài đọc: Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1] Lần thâu gió mát trăng thanh, Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi. Râu hùn, hàm én, mày ngài[3], Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao. Đường đường một đấng anh hào[4], Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài. Đội trời, đạp đất ở đời, Họ...
Đọc tiếp

(1.0 điểm)

Theo em, nhân vật Từ Hải được khắc họa bằng bút pháp gì? Hãy phân tích tác dụng của bút pháp đó.

Bài đọc:

Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1]

Lần thâu gió mát trăng thanh,

Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi.

Râu hùn, hàm én, mày ngài[3],

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.

Đường đường một đấng anh hào[4],

Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài.

Đội trời, đạp đất ở đời,

Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông[7].

Giang hồ quen thú vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo[8].

Qua chơi nghe tiếng nàng kiều,

Tấm lòng nhi nữ[9] cũng xiêu anh hùng.

Thiếp danh đưa đến lầu hồng,

Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa.

Từ rằng: “tâm phúc tương cờ[10],

Phải người trăng gió vật vờ hay sao?

Bây giờ nghe tiếng má đào,

Mắt xanh[11] chẳng để ai vào, có không?”

Thưa rằng: “Lượng cả bao dong,

Tấn Dương[12] được thấy mây rồng có phen.

Rộng thương cỏ nội, hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”

Nghe lời vừa ý, gật đầu,

Cười rằng: “Tri kỉ trước sau mấy người

Khen cho con mắt tinh đời,

Anh hùng đoán giữa trần ai[13] mới già!

Một lời đã biết đến ta,

Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau!”

Hai bên ý hợp, tâm đầu[14],

Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân!

Ngỏ lời nói với băng nhân[15],

Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn[16].

Buồng riêng, sửa chốn thanh nhàn,

Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.

Trai anh hùng, gái thuyền quyên[17],

Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng[18].

(Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, trang 158 – 162)

[1] Nhan đề do người biên soạn đặt.

[2] Biên đình: nơi biên ải xa xôi.

[3] Râu hùm, hàm én, mày ngài: tướng mạo của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm.

[4] Anh hào: anh hùng hào kiệt.

[5] Côn quyền: môn võ đánh bằng tay.

[6] Lược thao: mưu lược về tài dùng binh.

[7] Việt Đông: chỉ tỉnh Quảng Đông ở phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông.

[8] Gươm đàn … một chèo: Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: “Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa tuy” (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông.

[9] Tấm lòng nhi nữ: ý nói người đẹp.

[10] Tâm phúc tương cờ: tương cờ tức tương kì. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỉ chứ không phải là yêu đương trăng gió tạm bợ.

[11] Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói Từ Hải hỏi Kiều: Xưa nay, nàng chưa hề xem trọng ai có phải không.

[12] Tấn Dương: Tên đất nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tùy, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói Thúy Kiều tin tưởng Từ Hải là Từ hải sẽ nên nghiệp đế vương. 

[13] Trần ai: bụi bặm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường.

[14] Ý hợp, tâm đầu: hợp ý nhau, có những tình cảm và các suy nghĩ như nhau.

[15] Băng nhân: người làm mối trong việc hôn nhân.

[16] Nguyên ngân: số tiền bỏ ra khi trước; phát hoàn: đưa trả lại.

[17] Thuyền quyên: người con gái đẹp.

[18] Sánh phượng, cưỡi rồng: xưa Kính Trọng, nước Tần được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: “Phượng hoàng vu phi…” (Chim phượng hoàng cùng bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này ý nói Thúy Kiều và Từ Hải đẹp duyên với nhau.

0
(1.0 điểm) Liệt kê những từ ngữ, hình ảnh mà Nguyễn Du sử dụng để chỉ và miêu tả nhân vật Từ Hải trong văn bản. Từ đó, nêu nhận xét của em về thái độ của tác giả dành cho nhân vật này. Bài đọc: Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1] Lần thâu gió mát trăng thanh, Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi. Râu hùn, hàm én, mày ngài[3], Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao. Đường đường một đấng anh...
Đọc tiếp

(1.0 điểm)

Liệt kê những từ ngữ, hình ảnh mà Nguyễn Du sử dụng để chỉ và miêu tả nhân vật Từ Hải trong văn bản. Từ đó, nêu nhận xét của em về thái độ của tác giả dành cho nhân vật này.

Bài đọc:

Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1]

Lần thâu gió mát trăng thanh,

Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi.

Râu hùn, hàm én, mày ngài[3],

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.

Đường đường một đấng anh hào[4],

Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài.

Đội trời, đạp đất ở đời,

Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông[7].

Giang hồ quen thú vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo[8].

Qua chơi nghe tiếng nàng kiều,

Tấm lòng nhi nữ[9] cũng xiêu anh hùng.

Thiếp danh đưa đến lầu hồng,

Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa.

Từ rằng: “tâm phúc tương cờ[10],

Phải người trăng gió vật vờ hay sao?

Bây giờ nghe tiếng má đào,

Mắt xanh[11] chẳng để ai vào, có không?”

Thưa rằng: “Lượng cả bao dong,

Tấn Dương[12] được thấy mây rồng có phen.

Rộng thương cỏ nội, hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”

Nghe lời vừa ý, gật đầu,

Cười rằng: “Tri kỉ trước sau mấy người

Khen cho con mắt tinh đời,

Anh hùng đoán giữa trần ai[13] mới già!

Một lời đã biết đến ta,

Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau!”

Hai bên ý hợp, tâm đầu[14],

Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân!

Ngỏ lời nói với băng nhân[15],

Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn[16].

Buồng riêng, sửa chốn thanh nhàn,

Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.

Trai anh hùng, gái thuyền quyên[17],

Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng[18].

(Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, trang 158 – 162)

[1] Nhan đề do người biên soạn đặt.

[2] Biên đình: nơi biên ải xa xôi.

[3] Râu hùm, hàm én, mày ngài: tướng mạo của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm.

[4] Anh hào: anh hùng hào kiệt.

[5] Côn quyền: môn võ đánh bằng tay.

[6] Lược thao: mưu lược về tài dùng binh.

[7] Việt Đông: chỉ tỉnh Quảng Đông ở phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông.

[8] Gươm đàn … một chèo: Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: “Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa tuy” (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông.

[9] Tấm lòng nhi nữ: ý nói người đẹp.

[10] Tâm phúc tương cờ: tương cờ tức tương kì. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỉ chứ không phải là yêu đương trăng gió tạm bợ.

[11] Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói Từ Hải hỏi Kiều: Xưa nay, nàng chưa hề xem trọng ai có phải không.

[12] Tấn Dương: Tên đất nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tùy, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói Thúy Kiều tin tưởng Từ Hải là Từ hải sẽ nên nghiệp đế vương. 

[13] Trần ai: bụi bặm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường.

[14] Ý hợp, tâm đầu: hợp ý nhau, có những tình cảm và các suy nghĩ như nhau.

[15] Băng nhân: người làm mối trong việc hôn nhân.

[16] Nguyên ngân: số tiền bỏ ra khi trước; phát hoàn: đưa trả lại.

[17] Thuyền quyên: người con gái đẹp.

[18] Sánh phượng, cưỡi rồng: xưa Kính Trọng, nước Tần được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: “Phượng hoàng vu phi…” (Chim phượng hoàng cùng bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này ý nói Thúy Kiều và Từ Hải đẹp duyên với nhau.

0
(0.5 điểm) Liệt kê một số điển tích, điển cố trong văn bản. Bài đọc: Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1] Lần thâu gió mát trăng thanh, Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi. Râu hùn, hàm én, mày ngài[3], Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao. Đường đường một đấng anh hào[4], Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài. Đội trời, đạp đất ở đời, Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt...
Đọc tiếp

(0.5 điểm)

Liệt kê một số điển tích, điển cố trong văn bản.

Bài đọc:

Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1]

Lần thâu gió mát trăng thanh,

Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi.

Râu hùn, hàm én, mày ngài[3],

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.

Đường đường một đấng anh hào[4],

Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài.

Đội trời, đạp đất ở đời,

Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông[7].

Giang hồ quen thú vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo[8].

Qua chơi nghe tiếng nàng kiều,

Tấm lòng nhi nữ[9] cũng xiêu anh hùng.

Thiếp danh đưa đến lầu hồng,

Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa.

Từ rằng: “tâm phúc tương cờ[10],

Phải người trăng gió vật vờ hay sao?

Bây giờ nghe tiếng má đào,

Mắt xanh[11] chẳng để ai vào, có không?”

Thưa rằng: “Lượng cả bao dong,

Tấn Dương[12] được thấy mây rồng có phen.

Rộng thương cỏ nội, hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”

Nghe lời vừa ý, gật đầu,

Cười rằng: “Tri kỉ trước sau mấy người

Khen cho con mắt tinh đời,

Anh hùng đoán giữa trần ai[13] mới già!

Một lời đã biết đến ta,

Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau!”

Hai bên ý hợp, tâm đầu[14],

Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân!

Ngỏ lời nói với băng nhân[15],

Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn[16].

Buồng riêng, sửa chốn thanh nhàn,

Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.

Trai anh hùng, gái thuyền quyên[17],

Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng[18].

(Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, trang 158 – 162)

[1] Nhan đề do người biên soạn đặt.

[2] Biên đình: nơi biên ải xa xôi.

[3] Râu hùm, hàm én, mày ngài: tướng mạo của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm.

[4] Anh hào: anh hùng hào kiệt.

[5] Côn quyền: môn võ đánh bằng tay.

[6] Lược thao: mưu lược về tài dùng binh.

[7] Việt Đông: chỉ tỉnh Quảng Đông ở phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông.

[8] Gươm đàn … một chèo: Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: “Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa tuy” (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông.

[9] Tấm lòng nhi nữ: ý nói người đẹp.

[10] Tâm phúc tương cờ: tương cờ tức tương kì. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỉ chứ không phải là yêu đương trăng gió tạm bợ.

[11] Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói Từ Hải hỏi Kiều: Xưa nay, nàng chưa hề xem trọng ai có phải không.

[12] Tấn Dương: Tên đất nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tùy, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói Thúy Kiều tin tưởng Từ Hải là Từ hải sẽ nên nghiệp đế vương. 

[13] Trần ai: bụi bặm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường.

[14] Ý hợp, tâm đầu: hợp ý nhau, có những tình cảm và các suy nghĩ như nhau.

[15] Băng nhân: người làm mối trong việc hôn nhân.

[16] Nguyên ngân: số tiền bỏ ra khi trước; phát hoàn: đưa trả lại.

[17] Thuyền quyên: người con gái đẹp.

[18] Sánh phượng, cưỡi rồng: xưa Kính Trọng, nước Tần được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: “Phượng hoàng vu phi…” (Chim phượng hoàng cùng bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này ý nói Thúy Kiều và Từ Hải đẹp duyên với nhau.

0
(0.5 điểm) Văn bản kể về sự việc gì? Bài đọc: Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1] Lần thâu gió mát trăng thanh, Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi. Râu hùn, hàm én, mày ngài[3], Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao. Đường đường một đấng anh hào[4], Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài. Đội trời, đạp đất ở đời, Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông[7]. Giang hồ quen thú vẫy...
Đọc tiếp

(0.5 điểm)

Văn bản kể về sự việc gì?

Bài đọc:

Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1]

Lần thâu gió mát trăng thanh,

Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi.

Râu hùn, hàm én, mày ngài[3],

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.

Đường đường một đấng anh hào[4],

Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài.

Đội trời, đạp đất ở đời,

Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông[7].

Giang hồ quen thú vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo[8].

Qua chơi nghe tiếng nàng kiều,

Tấm lòng nhi nữ[9] cũng xiêu anh hùng.

Thiếp danh đưa đến lầu hồng,

Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa.

Từ rằng: “tâm phúc tương cờ[10],

Phải người trăng gió vật vờ hay sao?

Bây giờ nghe tiếng má đào,

Mắt xanh[11] chẳng để ai vào, có không?”

Thưa rằng: “Lượng cả bao dong,

Tấn Dương[12] được thấy mây rồng có phen.

Rộng thương cỏ nội, hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”

Nghe lời vừa ý, gật đầu,

Cười rằng: “Tri kỉ trước sau mấy người

Khen cho con mắt tinh đời,

Anh hùng đoán giữa trần ai[13] mới già!

Một lời đã biết đến ta,

Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau!”

Hai bên ý hợp, tâm đầu[14],

Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân!

Ngỏ lời nói với băng nhân[15],

Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn[16].

Buồng riêng, sửa chốn thanh nhàn,

Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.

Trai anh hùng, gái thuyền quyên[17],

Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng[18].

(Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, trang 158 – 162)

[1] Nhan đề do người biên soạn đặt.

[2] Biên đình: nơi biên ải xa xôi.

[3] Râu hùm, hàm én, mày ngài: tướng mạo của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm.

[4] Anh hào: anh hùng hào kiệt.

[5] Côn quyền: môn võ đánh bằng tay.

[6] Lược thao: mưu lược về tài dùng binh.

[7] Việt Đông: chỉ tỉnh Quảng Đông ở phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông.

[8] Gươm đàn … một chèo: Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: “Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa tuy” (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông.

[9] Tấm lòng nhi nữ: ý nói người đẹp.

[10] Tâm phúc tương cờ: tương cờ tức tương kì. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỉ chứ không phải là yêu đương trăng gió tạm bợ.

[11] Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói Từ Hải hỏi Kiều: Xưa nay, nàng chưa hề xem trọng ai có phải không.

[12] Tấn Dương: Tên đất nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tùy, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói Thúy Kiều tin tưởng Từ Hải là Từ hải sẽ nên nghiệp đế vương. 

[13] Trần ai: bụi bặm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường.

[14] Ý hợp, tâm đầu: hợp ý nhau, có những tình cảm và các suy nghĩ như nhau.

[15] Băng nhân: người làm mối trong việc hôn nhân.

[16] Nguyên ngân: số tiền bỏ ra khi trước; phát hoàn: đưa trả lại.

[17] Thuyền quyên: người con gái đẹp.

[18] Sánh phượng, cưỡi rồng: xưa Kính Trọng, nước Tần được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: “Phượng hoàng vu phi…” (Chim phượng hoàng cùng bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này ý nói Thúy Kiều và Từ Hải đẹp duyên với nhau.

0
1. ĐỌC HIỂU (6,0 điểm) Đọc bài thơ sau: (1) Con đã đi rất xa rồi Ngoảnh nhìn lại vẫn gặp ánh đèn thành phố (2) Sau cánh rừng, sau cù lao, biển cả Một ánh đèn sáng đến nơi con Và lòng con yêu mến, xót thương hơn Khi con nghĩ đến cuộc đời của mẹ Khi con nhớ đến căn nhà nhỏ bé Mẹ một mình đang dõi theo con (3) Giữa bao nhiêu mưa nắng đời thường Đã có lúc lòng con hờ hững Thấy hạnh phúc của riêng mình...
Đọc tiếp

1. ĐỌC HIỂU (6,0 điểm)

Đọc bài thơ sau:

(1) Con đã đi rất xa rồi
Ngoảnh nhìn lại vẫn gặp ánh đèn thành phố

(2) Sau cánh rừng, sau cù lao, biển cả
Một ánh đèn sáng đến nơi con
Và lòng con yêu mến, xót thương hơn Khi con nghĩ đến cuộc đời của mẹ
Khi con nhớ đến căn nhà nhỏ bé
Mẹ một mình đang dõi theo con

(3) Giữa bao nhiêu mưa nắng đời thường
Đã có lúc lòng con hờ hững
Thấy hạnh phúc của riêng mình quá lớn
Ngỡ chỉ mình đau đớn xót xa thôi

(4) Giữa bao nhiêu năm tháng ngược xuôi
Đã có lúc lòng con đơn bạc

Quên cả những điều tưởng không sao quên được

Như người no quên cơn đói của mình

(5) Sao đêm nay se thắt cả lòng con Khi con gặp ánh đèn thành phố
Nơi mẹ sống, mẹ vui buồn, sướng khổ
Chỉ một mình tóc cứ bạc thêm ra

(6) Sao đêm nay khi đã đi xa
Lòng con bồng bồn chồn quay trở lại Bên đời mẹ nhọc nhằn dầu dãi
Nỗi mất còn thăm thẳm trong tim

(7) Đời mẹ như bến vắng bên sông Nơi đón nhận những con thuyền tránh gió
Như cây tự quên mình trong quả
Quả chín rồi ai dễ nhớ ơn cây
Như trời xanh nhẫn nại sau mây
Con đường nhỏ dẫn về bao tổ ấm

(8) Con muốn có lời gì đằm thắm
Ru tuổi già của mẹ tháng năm nay.
(Kính gửi mẹ, Ý Nhi, in trong Văn chương một thời để nhớ, NXB Văn họcHà Nội, 2006)

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1. Xác định dạng thức xuất hiện của chủ thể trữ tình trong bài thơ? (0,5 điểm)

Câu 2. Bài thơ được viết theo thể thơ nào? (0,5 điểm)

Câu 3. Câu thơ Quả chín rồi ai dễ nhớ ơn cây gợi anh/ chị nhớ đến câu tục ngữ nào trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam? (0,5 điểm)

Câu 4. Hình ảnh “ánh đèn thành phố” đã gợi cho người con suy nghĩ về những điều gì? (0,5 điểm)

Câu 5. Người con muốn bộc bạch điều gì qua hai khổ thơ (3) và (4)? (0,5 điểm)

Câu 6. Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong đoạn thơ sau: Đời mẹ như bến vắng bên sông Nơi đón nhận những con thuyền tránh gió Như cây tự quên mình trong quả Quả chín rồi ai dễ nhớ ơn cây Như trời xanh nhẫn nại sau mây Con đường nhỏ dẫn về bao tổ ấm (1,0 điểm)

Câu 7. Từ những trăn trở của người con ở trong bài thơ, anh/ chị rút ra được bài học gì cho bản thân mình? (1,0 điểm)

Câu 8. Bài thơ kết thúc bằng một ước muốn: Con muốn có lời gì đằm thắm/ Ru tuổi già của mẹ tháng năm nay. Anh/ chị hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 5 - 7 dòng) để gửi những lời đằm thắm dành tặng cho người mẹ của mình. (1,5 điểm)

0
DT
8 tháng 4

Thể thơ tự do.