Câu 9. (1 điểm)
Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn sau: Có một điều Dung ngày càng nhận ra tiếng ho của ông ngày càng khô và rời rạc như lời kêu cứu.
Câu 10. (1 điểm)
Trong văn bản có một câu văn gợi suy ngẫm: Thế nghĩa là có hai thế giới ở trong ngôi nhà. Em sẽ làm gì để gắn kết gia đình và rút ngắn khoảng cách thế hệ trong ngôi nhà? (trả lời bằng đoạn văn từ 5 - 7 câu văn)
Bài đọc:
ÔNG NGOẠI
(Tóm tắt đoạn đầu: Gia đình cậu mợ của Dung đậu phỏng vấn và đi định cư nước ngoài. Mẹ Dung quyết định cho Dung sang ở với ông ngoại để tiện bề trông nom ông. Dung dù không muốn nhưng vẫn nghe lời mẹ.)
Sang bên ấy được hai hôm, Dung chạy về mẹ, than thở lướt sướt: "Ở với ông ngoại buồn muốn chết, đi học về, mở karaoke lại sợ ồn, nói chưa được mấy câu thì hết chuyện. Chẳng lẽ con lại nói chuyện tình yêu với ông ngoại à? Bọn bạn không dám lại nhà chơi. Ông khó lắm. Con mở nhạc cũng ngại, con nấu cơm khét ông mắng cả buổi. Suốt ngày ông cứ lo tỉa tót cho mấy chậu kiểng, mấy con cá vàng. Con hỏi: "Ngoại chăm sóc hoài không chán sao?", ngoại nói cây cũng có linh hồn. Con không tin, ghé tai vào nghe thử, có cây nào than buồn, có cây nào thèm nghe Michael Jackson đâu".
Mẹ cười:
- Con vì ông một chút, ông cũng vì con thôi, thử xem.
(...)
Thế nghĩa là có hai thế giới ở trong ngôi nhà. Thế giới của ông là mấy ông bạn già, là mấy chồng nhựt báo, là cái radio đầu hồi còn đánh nhau, là trầm tư suy ngẫm, là mảnh sân hoa trái. Thế giới của Dung là tiếng nhạc gào thét xập xình, là sắc màu xanh đỏ, là quả đất như nằm gọn trong bàn tay. Sáng nó dậy thật sớm để nấu cơm, sau đó đi học, chiều lại học, buổi tối nó vù xe đến bạn chơi hoặc về nhà nghe mấy đứa em cãi nhau ỏm tỏi. Hai thế giới vừa giành giựt vừa hòa tan nhau.
(...)
Hôm bữa Dung nói với ông:
- Sao ông Chín bên nhà rủ ngoại đi tham gia câu lạc bộ gì đó, ngoại không đi?
Ông nhìn Dung thật lâu: "Ngoại sợ con ở nhà một mình buồn". Dung chột dạ: "Có bao giờ đi chơi mà mình nghĩ tới ông không?".
(...)
Có những sự thay đổi Dung không thể ngờ được. Bây giờ mỗi đêm Dung trở mình nghe ông ngoại ho khúc khắc. Nghe cây mai nhỏ nứt mình, nảy chồi. Dung nghiện hương trầm tối tối ông thắp lên bàn thờ bà ngoại. Lắm khi lũ em Dung sang, chúng nó phá phách quậy tung cả lên, Dung mắng, chúng nó trề môi: "Chị hai khó như một bà già", Dung giật mình. Có lẽ quen với cái tĩnh lặng trong sân mà mỗi chiều Dung giúp ông tưới cây, cái khoảng không xanh lạc lõng trong khói bụi, đâu đó, trên tàng me già, dăm chú chim hót líu lo. Dung quen dáng ông ngoại với mái tóc bạc, với đôi mắt hõm, cái cằm vuông, quen mỗi tháng một lần cọc cạch lên phường nhận lương hưu. Có một điều Dung ngày càng nhận ra tiếng ho của ông ngày càng khô và rời rạc như lời kêu cứu. (...)
Ngày 18 tháng 12, Dung mở tờ lịch mới, hôm nay là sinh nhật của nó. Hôm qua, mẹ cho Dung một món tiền kha khá, bọn bạn reo lên inh ỏi: "Party nghe Dung, làm xôm tụ, tụi này kéo lại". Dung nói với ông, ông gật đầu:
- Ừ thì sinh nhật mà, con có mua bánh kem chưa? Ông biết làm đấy.
Dung tròn mắt:
- Thật ư?
Ông khẽ cốc đầu nó.
- Đừng có khinh ngoại.
Nói rồi hai ông cháu lăn vào khuấy bột, trộn sữa. Tay ông nhẹ nhàng, nắn nót mười tám nụ hồng trên mặt bánh, Dung thòm thèm mãi. Buổi sinh nhật thật rôm rả, bọn Dung khiêu vũ với nhau; ông ngoại cũng nhảy, ông mặc chiếc áo màu xanh thắt nơ hoa rất đẹp. Lúc ông nắm tay nó, bật nhạc dạo bài Tango "Xa vắng", Dung ngạc nhiên và buồn cười đến nỗi giẫm lên cả chân ông. Bọn bạn reo ầm lên, chúng khen bánh kem ngon, khen ông nhảy giỏi, Dung hãnh diện lắm...
(Trích Ông ngoại, Nguyễn Ngọc Tư)
Qua truyện cô bé quàng khăn đỏ đã rút ra bài học lớn nhất cho các em nhỏ là phải biết vâng lời bố mẹ, đi đến nơi về đến chốn không được la cà dọc đường. Không được tiếp xúc với bất kỳ người lạ nào để có thể đảm bảo an toàn cho chính bản thân và gia đình. Hình ảnh cô bé trong câu chuyện gặp phải chó sói và để chó sói ăn thịt cả cô và bà ngoại là một ví dụ điển hình cho những đứa trẻ không biết vâng lời. Nếu trong trường hợp không may các em gặp phải người xấu phải kêu cứu hoặc tìm ngay người lớn xung quanh để được giúp đỡ.
Đồng thời đây cũng là một lời nhắc nhở cảnh tỉnh đối với các bậc cha mẹ khi trẻ còn nhỏ nên dạy trẻ cách phân biệt giữa người tốt, kẻ xấu. Bên cạnh đó, phải giáo dục cho trẻ nếu gặp phải người xấu thì con trẻ nên biết làm sao để tự bảo vệ bản thân mình.
Những câu chuyện cổ tích được kể luôn đem lại những bài học có ý nghĩa nhân văn và giá trị đạo đức cao trong cuộc sống. Truyện cô bé quàng khăn đỏ cũng không phải là ngoại lệ Câu chuyện đưa ra hình tượng con chó sói gian trá để đại diện cho cái xấu, cái ác. Qua nhân vật đó tác giả muốn phê phán những người giả nhân, giả nghĩa, xảo trá lợi dụng lòng tốt, sự tin tưởng của người khác để hại người lợi mình.
Còn hình ảnh bác thợ săn đại diện cho những người tốt trong xã hội, sẵn sàng cứu giúp đỡ người gặp nạn mặc dù biết rằng có thể rất nguy hiểm. Người hiền lành, tốt bụng thì chắc chắn sẽ gặp may mắn và người xấu xa gian trá nhất định phải gánh chịu hậu quả.
Tham khảo ạ.