Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Các bạn đã nghe những câu chuyện dân gian quen thuộc liên quan tới hà Nội chưa? Tôi tin một điều rằng các bạn chắc hẳn cũng đã từng nghe nhưng cũng chưa đủ để chứng tỏ rằng các bạn biết hết về Hà Nội. Những con đường, phố cổ nên thơ tạo ra một bức tranh huyền bí mang đầy màu sắc. Con người nơi đây hòa đồng,.... Bạn biết không? Những câu chuyện truyền thuyết về hồ Gươm ( hồ Hoàn Kiếm ) nơi vị anh Hùng Lê Lợi hoàn trả gương cho rùa vàng. Nơi đây vẻ đẹp trù phú với đặc sản nổi tiếng.
..............
Phần kết bài:
Vẻ đẹp của Hà Nội và những câu ca dao chưa hẳn là đã kết thúc từ đó, nó luôn mang những dấu ấn trang lịch sử và mở ra thời kì mới cho xã hội. Vẻ đẹp của 36 phố mỗi con phố là mang 1 ý nghĩa mang 1 cái tên riêng biệt mà không giống với nhau. Hà Nội trải dài, đi tới đâu bạn cũng có thể ngắm vẻ đẹp ấy của thiên nhiên đất trời ban tặng. Vì vậy, 36 phố và cả thủ đô Hà Nội vẫn còn là những điều huyền bí mà bạn mới chỉ biết một phần nào đó.

Thời gian 1000 năm qua, nhưng những dấu ấn lịch sử, văn hóa mà sử sách ghi chép để lại và các di tích còn tồn tại là những minh chứng có sức thuyết phục về những nét tương đồng giữa Hoa Lư - Thăng Long Hà Nội hội tụ khá đầy đủ các yếu tố trong không gian văn hóa quốc đô theo dòng lịch sử mà ông cha ta để lại.
Trước hết, về vị trí địa lý, Hoa Lư và Thăng Long Hà Nội đều nằm ở vùng châu thổ đồng bằng Bắc Bộ, ven các dòng sông lớn và đều gắn liền với huyền tích về linh vật “Rồng Vàng”.
Kinh đô Hoa Lư (nay thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình) nằm ở gần kề sông Hoàng Long, nghĩa là Rồng Vàng. Dòng sông này gắn liền với sự tích “Rồng Vàng” nổi lên giữa dòng cứu Đinh Bộ Lĩnh (sau là vua Đinh Tiên Hoàng) bị chú ruột là Đinh Thúc Dự đuổi đánh vì tội giết trâu của chú khao lũ trẻ mục đồng, còn kinh đô Thăng Long nằm ở ven Nhị Hà (tức sông Hồng ngày nay) gắn liền với huyền tích có “Rồng Vàng hiện lên trên ngã ba Tô Giang Nhị Hà dưới chân thành Đại La rẽ sóng tới gần thuyền ngự vua Lý Thái Tổ rồi bay vút lên trời khuất lẫn trong những đám mây bông “Long vân khánh hội”, “Rồng mây gặp hội anh hào ra tay”. Dáng rồng bay vạch thế đất vươn lên nên mới đổi là Thăng Long.
Ngoài những dòng sông lớn là Hoàng Long và Nhị Hà ra thì ở Hoa Lư còn có dòng Sào Khê chạy ngoằn ngoèo uốn lượn bên trong về phía đông Kinh Thành; Còn Thăng Long có dòng Tô lịch ở về phía Tây Kinh Thành.
Dòng Hoàng Long, Nhị Hà cũng như dòng Sào Khê, Tô Lịch, là những tuyến đường giao thông thủy đã diễn ra các sự kiện lịch sử quan trọng trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước, mở mang phát triển quốc gia dân tộc dưới triều Đinh và triều Lý sau đó mà sử sách ghi chép cũng như dân gian lưu truyền.
Cuộc dời đô lịch sử của vua Lý Thái Tổ vào mùa thu năm Canh Tuất (1010) từ sông Hoàng Long ra tới sông Nhị Hà để về thành Đại La (Thăng Long). Còn ở Thăng Long, các vua nhà Lý thường chèo thuyền trên dòng sông Tô Lịch mang nhiều huyền tích, ngắm cảnh đất trời sông nước La Thành-Thăng Long nên thơ và ngoạn mục.
Ở khu cố đô Hoa Lư khai quật khảo cổ học đã tìm thấy khu mộ Hán cạnh chùa Bà Ngô (thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa lư, tỉnh Ninh Bình) bên dòng sông Hoàng Long. Do đó có thể nêu lên một nhận định dựa trên cơ sở xác thực là nơi đây hẳn là trụ sở của Trường Châu thời nhà Đường, vì theo sách Đất nước Việt Nam qua các đời của Đào Duy Anh thì đất Ninh Bình thời Đường thuộc về Trường Châu; còn ở Thăng Long Hà Nội vốn là thành Đại La do Cao Biền xây đúng như sử sách ghi chép.
Ở Hoa Lư và Thăng Long - Hà Nội cơ sở hạ tầng xã hội khá thuận lợi để giao thông buôn bán phát triển kinh tế. Hệ thống giao thông mà chủ yếu là các tuyến đường thủy từ các trung tâm Hoa Lư Thăng Long tỏa đi các nơi trong nước lúc đương thời.
Từ Hoa Lư theo dòng Hoàng Long xuôi ra sông Đáy tại ngã ba Gián Khẩu xuống non nước Vân Sàng, sang sông Vạc để ra biển Đông và vào Châu Hoan Ái theo tuyến kênh do Lê Đại Hành đời Lê đào; ngược lên phía Bắc vào sông Châu ra sông Hồng… sử sách ghi chép cho biết Hoa Lư nhộn nhịp cảnh trên bến dưới thuyền. Thương lái các nước lân bang lúc bấy giờ theo đường thủy cập bến Hồng Giang mang hàng hóa là vải lụa, gấm vóc trao đổi bán buôn tấp nập. Còn ở Kinh thành Thăng Long là nơi hội họp của bốn phương là trung tâm của đất nước, nơi đông người nhiều của thương thuyền các nước lúc bấy giờ đến trao đổi hàng hóa buôn bán đông vui, tấp nập mà dân gian còn lưu truyền “Thứ nhất Kinh Kỳ, Thứ nhì Phố Hiến”.
Về cấu trúc của Kinh thành thì cả Hoa Lư thời Đinh-Tiền Lê và Thăng Long thời Lý đều có những nét tương đồng, đều có hai vòng thành mà sử sách ghi chép cũng như hiện còn lưu giữ những dấu tích:
Thành Hoa Lư gồm có thành nội và thành ngoại. Giữa thành nội và thành ngoại không lồng vào nhau theo vị trí trong ngoài mà gần như là song song với nhau, ngăn cách nhau bằng dãy núi Phi Vân, nối thông với nhau bởi một quèn gọi là Quèn Vông vì trên quèn đó có rất nhiều cây lá vông mọc xanh tốt um tùm.
Cả thành nội và thành ngoại của thành Hoa Lư đều có hai vòng thành. Ở khu thành ngoại, vòng thành bên ngoài giống như thành Thăng Long là tường thành phía đông nối từ núi Dãng sang núi Thanh Lâu và núi Cột Cờ. Tường thành phía bắc nối từ núi Cột Cờ sang núi Chẽ và từ núi Chẽ sang núi Chợ. Ở phía đông có dãy núi Hang Quần; phía tây có dãy núi Phi Vân chắn giữ; phía vam có quèn Thụ Mộc như một tường thành.
Như vậy, thành ngoài bao gồm cả cánh đồng Hậu Đường chạy đến Hang Luồn (Xuyên Thủy Động) và quèn Thụ Mộc. Vòng thành ngoài vừa là chiến lũy khi có chiến sự xảy ra, lại vừa là đề phòng nước lũ lụt của sông Hoàng Long, giống như La Thành Thăng Long vậy.
Ở khu thành nội thành Hoa Lư, vòng thành bên ngoài từ núi Cánh Hàn sang núi Nghẽn về phía bắc; còn ở phía đông cũng chung với dãy núi Phi Vân của thành ngoài; phía tây có dãy núi Chùa Thủ chắn giữ; phía nam là núi đá bao bọc không cần phải dùng tường thành.
Vòng thành trong thành nội Thành Hoa Lư thời Đinh-Tiền lê giống như Cung Thành, Cấm Thành của Thành Thăng Long thời Lý. Năm Kỷ Tỵ (1029) thành Thăng Long xây dựng thêm Long Thành ở trong cùng.
Thành Thăng Long thời Lý được các nhà nghiên cứu xác định là thành của Cao Biền. Vòng thành ngoài đến nay vẫn còn dấu tích đó là địa danh La Thành. Các tường Thành này đều được đắp bằng đất và dựa vào địa thế tự nhiên mà đào đắp. Các cửa thành chỉ là những khuyết của tường thành mà không xây đắp cổng hay lầu cổng (Môn Lâu), như các tòa ô thành ở đời sau (giống như lối đi đặc biệt ở phía đông bắc thành Hoa Lư được phát hiện trong đợt khai quật khảo cổ học năm 1970).
Như vậy, về cấu trúc thành Hoa Lư và thành Thăng Long có những nét giống nhau là đều có hai vòng thành, đều không xây dựng các cổng ra vào (Môn Lâu) như các tòa thành đời sau này; chỉ khác nhau ở chỗ: thành Hoa Lư dựa vào thế núi non hiểm trở mà xây dựng tường thành, còn ở thành Thăng Long tường thành chủ yếu xây đắp bằng đất.
Về kiến trúc cung điện thì ở thành Hoa Lư và thành Thăng Long đều có những điểm giống nhau là các cung điện đều quy tụ về tâm điểm và đối xứng nhau qua tâm điểm.
Năm Giáp Thân (984), Vua Lê Đại Hành cho xây dựng nhiều cung điện cột dát vàng dát bạc khá lộng lẫy như: Điện Bách Bảo Thiên Tuế ở giữa; các điện Phong Lưu, Cực Lạc, Tử Hoa; Bồng Lai đối xứng nhau ở hai bên đông tây tả hữu; còn ở Thành Thăng Long năm Thuận Thiên thứ nhất (1010) Lý Thái Tổ cho xây dựng điện Càn Nguyên ở giữa; Các điện Tập Hiền, Giảng Vũ, Nhật Quang, Nguyệt Minh đối xứng nhau ở hai bên tả hữu.
Các mô típ hoa văn trang trí trên vật liệu xây dựng kiến trúc cung điện đồ dùng trong sinh hoạt cũng có những nét tương đồng thật đáng trân trọng.
Những viên gạch trang trí hoa văn hình hoa sen ở thành Hoa Lư là cơ sở để các nghệ nhân dân gian thời Lý phát triển với những họa tiết trang trí phong phú hơn, thành những viên gạch có hoa văn hay trang trí hình hoa sen, hoa cúc khá rực rỡ. Những con vịt bằng đất nung phát hiện ở thành Hoa Lư là hình mẫu để các nghệ sĩ tạo hình thời Lý tạo nên những con vịt đất nung nhìn tươi tắn, mịn màng, xinh đẹp. Một số bát, đĩa, bình gốm ở Hoa Lư cũng là những khuôn mẫu dáng hình để các nghệ nhân dân gian thời Lý chế tác ra các đồ dùng gốm bát, đĩa, bình, lọ, liễn, chậu… được pha lên lớp men ngọc trắng ngà thật là tinh tế và đẹp mắt.
Ngày nay ở Hoa Lư-Thăng Long Hà Nội còn lưu giữ những địa danh mang đậm dấu ấn lịch sử văn hóa truyền thống đất quốc đô như: Tháp Báo Thiên; Chùa Nhất Trụ-Chùa Một Cột; Chùa Bà Ngô; Chùa Am; Đình Ngang; Cầu Đông; Cầu Dền; Cột Cờ; Đông Môn; Tràng Tiền; Ngã ba Bồ Đề; Cống Chẹn…
Những địa danh lịch sử văn hóa truyền thống trên đã gợi lên bóng dáng của thành cổ Hoa Lư ở đất Kinh thành Thăng Long mang những nét tương đồng, là chứng tích của sự kiện lịch sử trọng đại trong cuộc dời đô của vua Lý Thái Tổ từ Hoa Lư ra thành Đại La-Thăng Long - Hà Nội đã ngàn năm qua.
Hoa Lư-Thăng Long - Hà Nội có những nét tương đồng về vị trí địa lý; hành chính; kinh tế lịch sử văn hóa và địa danh… là những minh chứng mang các giá trị, ý nghĩa lịch sử văn hóa như là sự nối tiếp truyền thống dựng đặt đất Quốc Đô thời thống nhất, độc lập, tự chủ triều Đinh-Tiền Lê; xây dựng phát triển quốc gia dân tộc Đại Việt thời Lý và các đời tiếp theo với Thăng Long-Hà Nội to đẹp hơn, bề thế hơn; là nơi hội tụ của mọi miền đất nước. Đây là nơi chung đúc vượng khí của núi sông, anh linh của đất trời; dung hòa giữa tinh hoa văn hóa dân gian truyền thống với văn hóa cung đình lung linh tỏa sáng muôn sắc màu rực rỡ, trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước, xây dựng phát triển quốc gia Đại Việt.

Câu 1:
Xuất phát từ câu nói của sứ giả Nguyễn Thư Hiên chép ở sách Dư địa chí do Nguyễn Trãi biên soạn có lời của Nguyễn Thiên Túng liên quan đến 4 xứ: “Nguyễn Như Hiên nói” Thế xứ Thanh, thần xứ Nghệ, nước Hưng Thái, ma Cao Lạng đều rất đáng sợ”. Câu nói có liên quan đến hai xứ Thanh và Nghệ, là mảnh đất sản sinh ra những con người, vua chúa, quan thần của đất nước. Xứ Thanh xưa mà nay là Thanh Hóa là nơi kinh đô của đất nước, nơi có nhiều vua, chúa nhất nước.
Đất Thanh Hóa trải qua nhiều tên gọi khác nhau đến đời Lý được đổi tên thành Thanh Hóa. Theo sách Dư địa chí, Thanh Hóa là vùng địa lý thuận lợi, hình thể tốt có thể xem như yết hầu của đất nước. Chính vì vậy nơi đây trở thành chỗ quân Tây Sơn lui về để ngăn bước tiến quân Thanh.
Câu 2:Theo em đó là công trình Thành nhà Hồ.
Thành nhà Hồ thuộc địa phận các xã Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, Vĩnh Quang, Vĩnh Yến, Vĩnh Phúc, Vĩnh Ninh, Vĩnh Khang,
Vĩnh Thành và thị trấn Vĩnh Lộc ( huyện Vĩnh Lộc) tỉnh Thanh Hóa. Đây là kinh thành của nước Đại Việt từ năm 1398-1407.Thành Tây Đô được xây vào năm 1397 dưới triều Trần do quyền thầnHồ Quý Ly chỉ huy, người không lâu sau (1400) lập ra nhà Hồ. Theo sử sách, thành bắt đầu xây dựng vào mùa xuân tháng 1 năm Đinh Sửu niên hiệu Quang Thái thứ 10 đời vua Thuận Tông của vương triều Trần. Người quyết định chủ trương xây dựng là Hồ Quý Ly, lúc bấy giờ giữ chức Nhập nội Phụ chính Thái sư Bình chương quân quốc trọng sự, tước Tuyên Trung Vệ quốc Đại vương, cương vị Tể tướng, nắm giữ mọi quyền lực của triều đình. Người trực tiếp tổ chức và điều hành công việc kiến tạo là Thượng thư bộ Lại Thái sử lệnh Đỗ Tỉnh (có sách chép Mẫn). Hồ Quý Ly xây thành mới ở động An Tôn (nay thuộc địa phận các xã Vĩnh Long, Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa), làm kinh đô mới với tên Tây Đô, nhằm buộc triều Trần dời đô vào đấy trong mục tiêu chuẩn bị phế bỏ vương triều Trần. Tháng 3 năm Canh Thân (26-3 đến 24-4-1400), vương triều Hồ thành lập (1400- 1407) và Tây Đô là kinh thành của vương triều mới, thành Thăng Long đổi tên là Đông Đô vẫn giữ vai trò quan trọng của đất nước. Vì vậy thành Tây Đô được dân gian quen gọi là Thành nhà Hồ. Thành đá được xây dựng trong một thời gian kỷ lục, chỉ chừng 3 tháng. Các cấu trúc khác như các cung điện, rồi La Thành phòng vệ bên ngoài, đàn Nam Giao... còn được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cho đến năm 1402. Hổ Quý Ly từ khi nắm quyền lực của triều Trần cho đến khi sáng lập vương triều mới đã ban hành và thực thi một loạt chính sách cải cách về các mặt chính trị, kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục nhằm khắc phục cuộc khủng hoảng của chế độ quân chủ cuối triều Trần, củng cố chính quyền trung ương và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Minh. Trong lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam, Hồ Quý Ly là một nhà cải cách lớn với một hệ thống chính sách và biện pháp khá toàn diện, táo bạo. Thành nhà Hồ được xây dựng và tồn tại trong những biến động cuối thế kỷ XIV đầu thê kỷ XV, gắn liền với sự nghiệp của nhà cải cách lớn Hồ Quý Ly và vương triều Hồ.Mặc dù thành Tây Đô, với bốn bức tường và cổng thành còn lại tương đối nguyên vẹn, sẽ là rất đơn giản trong việc xác định về cấu trúc toà thành, nhưng các công trình nghiên cứu trước nay đều đưa ra các số liệu khác nhau về kích thước tường thành, cổng thành và do đó, việc nhận định về cấu trúc toà thành vẫn chưa thống nhất.

Sau sự thất bại ở Xuân Lộc, ngày 23 tháng 4 tổng thống Mỹ tuyên bố: “cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã chấm dứt đối với người Mỹ…” Nguyễn Văn Thiệu vội vã công bố từ chức tổng thống chuồn sang Mỹ. Trần Văn Hương lên thay, sau đó, ngày 28 – 4 – 1975, Dương Văn Minh thay Hương làm tổng thống Việt Nam Cộng hòa.
Địch vá víu 5 sư đoàn chủ lực tan rã từ miền Trung và Xuân Lộc về chốt giữ vòng cung: Biên Hòa – Long Bình – Tây Ninh – Long An.
Ở Biên Hòa, sư đoàn 18 sau khi tháo chạy khỏi Xuân Lộc, nhưng củng cố lại thành 3 chiến đoàn án ngữ quốc lộ 1. Tàn quân bảo an Xuân Lộc chạy về kết hợp với bảo an thị xã Biên Hòa thành 2 liên đoàn 933 và 318, cùng với lữ đoàn 468 thủy quân lục chiến án ngữ quốc lộ 15. Lữ đoàn 3 kỵ binh và lữ đoàn 258 thủy quân lục chiến chốt giữ khu vực Biên Hòa – Long Bình. Hai lữ đoàn dù đảm nhiệm giữ các cầu: Đồng Nai, Rạch Chiếc, cầu Gềnh, cầu Hóa An… và tuyến ngoại vi Sài Gòn.
Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định chiến dịch giải phóng Sài Gòn – Gia Định mang tên là: CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH ([1][36]).
Lực lượng quân chủ lực ta tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh tương đương 5 quân đoàn và tiến vào Sài Gòn từ 4 hướng:
- Hướng bắc từ Bình Dương (theo quốc lộ 13) do quân đoàn 1 đảm nhiệm.
- Hướng đông – đông bắc từ Biên Hòa theo quốc lộ 1 và 15 do quân đoàn 4 và quân đoàn 2 đảm nhiệm.
- Hướng tây bắc từ Tây Ninh do quân đoàn 3 đảm nhiệm.
- Hướng tây nam – Long An do đoàn 232 đảm nhiệm.
Để chuẩn bị cho chiến dịch cuối cùng quét sạch quân thù, từ ngày 9 – 4, đồng chí Phan Văn Trang, Bí thư Thành ủy Biên Hòa vào nội thành triển khai kế hoạch chuẩn bị phát động quần chúng nổi dậy, thành lập 10 Ủy ban khởi nghĩa trong nội ngoại thành phố. Ngày 16 tháng 4, Thành ủy Biên Hòa ra nghị quyết về “Tổng công kích và nổi dậy ở thị xã Biên Hòa”.
Chiến dịch Hồ Chí Minh trên địa bàn Biên Hòa hình thành hai mũi tiến công của 2 quân đoàn chủ lực. Quân đoàn 4 tiến vào Sài Gòn – Gia Định theo quốc lộ 1 và xa lộ Biên Hòa. Quân đoàn 2 sau khi đập tan tuyến phòng thủ ở Phan Rang vào đến Xuân Lộc, tiến công vào Sài Gòn – Gia Định theo hai mũi là quốc lộ 15 và bến phà Cát Lái. Sư đoàn 2 đặc công (mới được thành lập) có nhiệm vụ đánh chiếm các cầu Đồng Nai trên xa lộ, cầu Rạch Chiếc, cầu Gành, cầu Rạch Cát và quốc lộ 1 đảm bảo cho đại quân ta tiến về Sài Gòn được thuận lợi.
Ngày 26 tháng 4 năm 1975 chiến dịch lịch sử mang tên chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu.
Tại Biên Hòa trận địa pháo tầm xa 130 ly ở Hiếu Liêm (chiến khu Đ) nã đạn dồn dập vào các căn cứ sân bay Biên Hòa, các sư đoàn bộ binh đồng loạt tấn công. Sư đoàn 6 tiến công yếu khu Trảng Bom. Sư đoàn 7 tiến công các căn cứ địch dọc lộ 1 đến Hố Nai. Lực lượng vũ trang huyện Thống Nhất và nhân dân nổi dậy giải phóng toàn huyện vào ngày 27 – 4 – 1975.
Ngay từ 17 giờ ngày 26 tháng 4 đạn pháo 130 ly của ta trùm lên căn cứ Nước Trong (Long Thành ). Pháo vừa ngưng, bộ binh xe tăng ta từ nhiều hướng tiến công mãnh liệt. Sư đoàn 304 Quân đoàn 2 đánh chiếm căn cứ Nước Trong. Sư đoàn 325 Quân đoàn 2 tiến vào chi khu Long Thành. Lực lượng vũ trang địa phương tiểu đoàn 240 Biên Hòa phối hợp với quân chủ lực đánh phân khu Phước Thiền.
Đêm 26 rạng 27 – 4 tiểu đoàn thuộc trung đoàn đặc công 116 đánh chiếm khu trung tâm tổng kho Long Bình, cụm bố phòng Bến Gỗ, tiến chiếm và chốt giữ cầu Đồng Nai. Đêm 27 rạng 28 tiểu đoàn 174 và tiểu đoàn 23 đánh chiếm cầu Hóa An (cầu Mới), cầu Gành, cầu Rạch Cát…
Ngày 27 tháng 4 sư đoàn 6 và sư đoàn 7 Quân đoàn 4 quét sạch địch ở ngã ba Dầu Giây, trận địa pháo Sông Thao, tiến lên tiêu diệt địch và làm chủ chi khu Trảng Bom, Bàu Cá; sư đoàn 325 Quân đoàn 2 làm chủ chi khu Long Thành.
Ngày 27 tháng 4 sân bay quân sự Biên Hòa hoàn toàn bị tê liệt.
Ngày 28 tháng 4 hướng Biên Hòa sư đoàn 6, sư đoàn 7 đánh các cụm quân địch dọc theo quốc lộ 1 từ Suối Đỉa, Trà Cổ và truy kích địch về căn cứ ở Hố Nai. Tám giờ 30 phút trung tướng Nguyễn Văn Toàn tư lệnh quân đoàn 3 đến Long Bình giao nhiệm vụ “tử thủ” cho tướng Lê Minh Đảo tư lệnh sư đoàn 18 rồi lên máy bay chuồn thẳng. Các tướng tá trong Bộ tư lệnh quân đoàn 3 cũng cuốn gói chuồn về Sài Gòn. Sở chỉ huy quân đoàn 3 chỉ còn viên thiếu tá quản trị hành chánh quân đoàn tiếp tục “tử thủ”.
Hai giờ sáng ngày 26 tháng 4 tiểu đoàn 9 trung đoàn đặc công 113 tập kích căn cứ thiết đoàn 15 tại Hóc Bà Thức bắt sống tên chỉ huy. Sư đoàn 6 phát triển ra ga Long Lạc. Sư đoàn 6 cùng sư đoàn 7 tiến quân về Hố Nai trước sự chống cự điên cuồng của địch.
Tại khu kỹ nghệ Biên Hòa, Ủy ban khởi nghĩa của Thành ủy Biên Hòa phát lệnh đánh địch. Lập tức cơ sở mật trong 17 nhà máy lãnh đạo tự vệ và công nhân nổi dậy. Trên 200 công nhân và nông dân khu vực Bình Đa, Tam Hiệp cùng nổi dậy hỗ trợ cơ sở mật ở khu kỹ nghệ. Cờ giải phóng được kéo lên trung tâm SONADEZI và các nhà máy. Cơ sở nội tuyến của Thành ủy Biên Hòa lái 2 chiếc xe thiết giáp M113 của địch đầy ắp súng đạn, dẫn đầu đoàn người tiếp tục truy kích tàn quân địch trong khu kỹ nghệ, bắt sống tên Lành cảnh sát trưởng khu kỹ nghệ, thu toàn bộ hồ sơ. Đến chiều 29 tháng 4, hầu hết các nhà máy Khu kỹ nghệ Biên Hòa và một số ấp lân cận hoàn toàn giải phóng.
Sau hơn một ngày liên tục tiến công, đến 11 giờ ngày 29 tháng 4 sư đoàn 304 làm chủ căn cứ ngã ba Thái Lan, quét sạch địch từ căn cứ Nước Trong đến tổng kho Long Bình, phát triển về xa lộ Biên Hòa. Sư đoàn 325 đã làm chủ chi khu Nhơn Trạch và tiếp tục tiến công Thành Tuy Hạ, chiếm được đồi Bình Phú, đặt trận địa pháo 130 ly. Đêm 29 tháng 4 tại đồi Bình Phú pháo binh ta nã đạn dồn dập vào sân bay Tân Sơn Nhất. Đến chiều 29 tháng 4 toàn bộ địch ở Long Thành – Nhơn Trạch bị quét sạch, sư đoàn 325 tập kết ở bến phà Cát Lái, nơi đây Huyện ủy Nhơn Trạch đã chuẩn bị trên 100 ghe thuyền sẵn sàng đưa lực lượng quân đoàn 2 tiến vào Sài Gòn.
Sáng 30 tháng 4 từ Long Thành, Nhơn Trạch - lữ đoàn tăng 203 đến cầu Đồng Nai. Trung đoàn đặc công 116 sau 3 ngày đếm đánh chiếm giữ cầu đã lên xe tăng dẫn đường cho lữ đoàn 203 hành quân vào đánh chiếm dinh Độc Lập. Sư đoàn 325 (quân đoàn 2) dùng xuồng, ghe máy, ghe chèo tay… ào ạt vượt sông - tại bến phà Cát Lái cùng tiến vào Sài Gòn.
15 giờ ngày 29 – 4 – 1975, tù nhân trong nhà tù Tân Hiệp nổi dậy phá khám ra quốc lộ 1 về hướng Trảng Bom. Đến tối ngày 29 – 4 đoàn đến Bộ chỉ huy tiền phương Mặt trận Biên Hòa, được đưa về chỉ huy sở sư đoàn 6 tại nhà thờ Bắc Hòa (Hố Nai). Pháo địch vẫn còn bắn xối xả dọc quốc lộ 1. Bộ phận tiếp nhận đưa tù nhân về hướng Gia Kiệm. Lực lượng ta tiếp tục tiến công. 6 giờ sáng ngày 30 – 4 – 1975, Bộ Tư lệnh sư đoàn 6 đến ngã ba Kẻ Sặt, cùng lúc đài phát thanh Sài Gòn thông tin tổng thống ngụy Dương Văn Minh đầu hàng. Quân đoàn 4 nhanh chóng triển khai lực lượng tiến về Sài Gòn. Sư đoàn 6 tiếp quản sân bay Biên Hòa, tổng kho Long Bình.
6 giờ sáng 30 – 4 – 1975, đảng viên mật Trương Thị Sáu (chi bộ Đảng chợ Biên Hòa ) được anh Muộn, cơ sở nội tuyến bảo vệ đã hạ cờ ba que thượng cờ Tổ quốc ở Tòa hành chánh tỉnh Biên Hòa.
10 giờ 30 phút sáng 30 – 4 – 1975, Ủy ban Quân quản thành phố Biên Hòa, trung đoàn 5 tiến vào tiếp quản Tòa hành chánh Biên Hòa trong tiếng reo hò, hoan hô của hàng ngàn quần chúng trong thành phố Biên Hòa.
Lịch sử đã lập lại một cách kỳ diệu. Ba mươi năm trước (26 – 8 – 1945), nhân dân Biên Hòa đã chiếm Tòa bố giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám. Ba mươi năm sau, một lần nữa quân dân Biên Hòa cắm cờ ở Tòa hành chánh, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng quê hương, cùng cả nước bước vào kỷ nguyên độc lập thống nhất đất nước và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Câu 3 :
-Thăng Long tứ trấn là khái niệm xuất hiện trong dân gian để chỉ về bốn ngôi đền thiêng trấn giữ các hướng Đông Tây Nam Bắc của thành Thăng Long, hoặc bốn kinh trấn hay còn gọi là nội trấn (ngoài ra là các phiên trấn) bao quanh kinh thành Thăng Long.
Đông trấn: "Bạch Mã tối linh từ" (đền Bạch Mã) (phố Hàng Buồm) thờ thần Long Đỗ - thành hoàng Hà Nội. Đền được xây dựng từ thế kỷ 9Tây Trấn: "Tây Trấn từ" (đền Voi Phục), (hiện nằm trong Công viên Thủ Lệ) thờ Linh Lang - một hoàng tử thời nhà Lý. Đền được xây dựng từ thế kỷ 11Nam trấn: "Kim Liên từ" (đền Kim Liên), trước đây thuộc phường Kim Hoa, sau thuộc phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức (nay là phường Phương Liên, Đống Đa, Hà Nội), thờ Cao Sơn Đại Vương. Đền được xây dựng từ thế kỷ 17Bắc trấn: "Trấn Vũ quán" (đền Quán Thánh), (cuối đường Thanh Niên), thờ Huyền Thiên Trấn Vũ. Đền được xây dựng từ thế kỷ 10tham khảo !
1.
Có thể nói kiến trúc hoàng cung Thăng Long là một đỉnh cao của sự tiến bộ của kiến trúc đương thời lúc bấy giờ. Không chỉ có diện tích và quy mô to lớn, kiến trúc và trang trí nội thất bên trong còn rất nguy nga và tráng lệ thể hiện được sự quyền quý của quý tộc. Sách sử xưa có viết về cung điện Thăng Long được chạm trổ hết sức khéo léo, là công trình được thi công xây dựng tỉ mỉ từ trước đến nay chưa từng có. Bên trong cung điện đều sơn son, cột điện thì vẽ các hình long, hạc, tiên nữ qua đó bạn có thể hình dung vẻ đẹp quy nga và tráng lệ của cung Thăng Long lúc bấy giờ.
2.
Nguyễn Trung Ngạn (1289 - 1370). Ông đỗ Hoàng giáp năm 1304. Nguyễn Trung Ngạn thuở nhỏ tên là Cốt, tự là Bang Trực, hiệu là Giới Hiên, người làng Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi (nay là huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên). Khi còn bé, Nguyễn Trung Ngạn được dân trong vùng nể phục, gọi là “thần đồng”. Ông không chỉ là vị quan giỏi việc nội chính mà còn là nhà ngoại giao xuất sắc.
-Trần Thì Kiến (1260 - 1330) người huyện Đông Triều, phủ Tân Hưng (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh). Khi làm quan triều Trần, ông là pháp quan liêm chính, giỏi lý số
3.là Đền Bạch Mã, đền Voi Phục, đền Kim Liên và đền Quán Thánh. Đây là 4 ngôi đền thiêng được dựng lên để thờ 4 vị thần trấn giữ những vị trí huyết mạch của mảnh đất Thăng Long.

Rủ nhau đi khắp Long Thành
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai.
Đóng vai một hướng dẫn viên du lịch em hãy giới thiệu (khoảng 2 đến 3 trang A4) về Lịch sử 36 phố phường của Thăng Long - Hà Nội.
Trả lời:
Xin kính chào mọi người, tiếp theo tôi xin được giới thiệu cho quý khách về phố cổ Hà Nội.
Việt Nam thi văn hợp tuyển của Dương Quảng Hàm có ghi lại ca dao về 36 sáu phố ở Hà Nội như sau:
Rủ nhau chơi khắp Long thành
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai:
Khu “Hà Nội 36 phố phường” là một cách gọi không chính xác của khu phố cổ, vì 36 phố phường là một cách gọi ước lệ khu vực đô thị cổ, nằm bên trong và bên ngoài cả khu phố cổ. Đây là một khu vực đô thị có từ lâu đời của Hà Nội nằm ở ngoài hoàng thành Thăng Long. Khu đô thị này tập trung dân cư hoạt động tiểu thủ công nghiệp và buôn bán giao thương, hình thành lên những phố nghề đặc trưng, mang những nét truyền thống riêng biệt của cư dân thành thị, kinh đô. Ngày nay khu phố cổ Hà Nội là điểm đến hấp dẫn cho những ai muốn tìm hiểu về Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội.
Khu dân cư sinh hoạt và buôn bán sầm uất này đã được hình thành từ thời Lý – Trần, nằm ở phía đông của hoàng thành Thăng Long ra đến sát sông Hồng. Đầu đời đời Lê, trong sách Dư Địa Chí, Nguyễn Trãi cũng đã đề cập đến tên một số phường nghề tại đây. Dưới thời Lê, đặt phủ Phụng Thiên gồm hai huyện là Vĩnh Thuận và Thọ Xương, thì khu này nằm gọn trong bốn tổng Túc của huyện Thọ Xương là Tiền Túc, Hậu Túc, Tả Túc, Hữu Túc. Bên ngoài khu vực là vòng thành Đại La có trổ các cửa ô. Thời Lê, giữa khu này có một số đầm hồ, lớn nhất là hồ Thái Cực. Sông Tô Lịch nối với hào thành, các đầm hồ, thông với hồ Hoàn Kiếm và sông Hồng cũng ở khu vực này. Đến cuối thế kỉ 19 thì các sông hồ đó hoàn toàn bị lấp, nhưng vẫn còn để lại dấu tích qua các địa danh: Hà Khẩu, Giang Khẩu, Cầu Gỗ, Cầu Đông. Thời Lý – Trần, dân cư từ các làng quanh đồng bằng Bắc Bộ tụ tập về khu vực này sinh sống, tạo thành khu phố đông đúc nhất kinh thành. Đến đời Lê, dần dần đã có một số Hoa kiều buôn bán ở đây, hình thành nên các khu phố Tàu. Thời Pháp thuộc, sau khi lấp toàn bộ các đầm hồ, khu phố được chỉnh trang, người Ấn, người Pháp cũng đến đây buôn bán. Hai chợ nhỏ được giải tỏa để lập chợ Đồng Xuân, Đường ray xe điện Bờ hồ – Thụy Khuê cũng chạy xuyên qua đây. Cho đến nay, đây vẫn là khu buôn bán nhộn nhịp nhất của Hà Nội. Tuyến phố đi bộ cũng được mở tại đây.
Đặc trưng nổi tiếng nhất của khu phố cổ là các phố nghề. Thợ thủ công từ các làng nghề quanh Thăng Long xưa tụ tập về đây, tập trung theo từng khu vực chuyên làm nghề của mình. Các thuyền buôn có thể vào giữa phố để buôn bán trao đổi, khiến các phố nghề càng phát triển. Và chính sản phẩm được buôn bán trở thành tên phố, với chữ “Hàng” đằng trước, mỗi phố chuyên môn buôn bán một loại mặt hàng.
Hiện nay, một số phố vẫn còn giữ được sản phẩm truyền thống như phố Hàng Mã, Hàng Tre, Hàng Thiếc, phố Thuốc Bắc, … Ngoài ra một số phố tuy không giữ nghề truyền thống, nhưng cũng tập trung chuyên bán một loại hàng hóa, như phố Hàng Quạt bán đồ thờ, phố Hàng Buồm bán bánh kẹo, phố Mã Mây chuyên dịch vụ du lịch…
* Phố Hàng Mã ngày xưa chuyên buôn bán đồ vàng mã để thờ cúng, bao gồm tiền giấy âm phủ, vàng giấy âm phủ, sau mở rộng thêm các tượng giấy hình các quan, hình nhà cửa… để đốt cúng cho người âm. Ngày nay phố Hàng Mã tập trung nhộn nhịp vào các dịp lễ, tết Trung Thu, Nguyên Đán với các mặt hàng phong phú về đồ chơi. Ngoai ra, tại đây cũng là nơi bán các hàng trang trí phông màn đám cưới với các hình cắt cô dâu, chú rể làm tự bọt xốp nhiều màu sắc.
* Liên quan đến phố Hàng Mã còn có phố Mã Mây. Phố này nguyên bao gồm hai phố xưa: phố Hàng Mã và phố Hàng Mây. Đoạn phố Hàng Mây nằm giáp phố Hàng Buồm, trên bờ sông Nhị, nơi tập trung thuyền bè miền ngược chở các mặt hàng lâm sản như song, mây, tre, nứa…
* Phố Hàng Bạc do ông Lưu Xuân Tín được nhà vua cho phép mở lò đúc bạc thành nén cho triều đình[2], kéo người trong họ hàng và nguời làng Trâu Khê (huyện Bình Giang – Hải Dương) ra đây mở phường đúc bạc, thành lập trường đúc ở số nhà 58 Hàng Bạc.
* Phố Hàng Đào là nơi buôn tơ, bán vải vóc (chữ vải điều chỉ màu đỏ được đọc chệch thành chữ đào)
* Phố Hàng Lược nối từ phố Hàng Cót đến phố Chả Cá, vốn là nơi có nhiều nhà buôn bán lược: lượcgỗ, lược sừng và sau này là lược nhựa cất cho các cửa hàng xén bán cho các cô làm đồ trang điểm
* Phố Hàng Chai không phải là nơi sản xuất, buôn bán chai lọ; phố này là một đoạn ngõ nhỏ nối phố Hàng Rươi và Hàng Cót, đây là nơi tập trung dân nghèo làm nghề “ve chai”, chuyên thu lượm các đồ phế liệu, đồ bỏ (rác)
* Phố Hàng Gà chạy từ phố Hàng Điếu đến phố Hàng Cót, vốn là nơi tập trung các cửa hàng bán đồ gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng, bồ câu, gà tây…
* Phố Hàng Chĩnh được người Pháp gọi là Rue des Vases (phố hàng Vại Chậu), vốn thông ra bờ sông, là bến đậu các thuyền chở vại, chậu bằng sành của làng Phù Lãng, nồi đất, chum vại, tiểu sành từ Hương Canh, bằng gốm từ Thổ Hà
* Phố Hàng Đồng và phố Bát Sứ thời thuộc Pháp có tên chung là Rue des Tasses (phố Hàng Chén). Đoạn Hàng Đồng và Hàng Mã trước thuộc thôn Yên Phú, có nghề gốc bán đồ đồng (chứ không phải đồ đồng nát) như mâm, nồi, đình, bát hương, lọ hoa, hạc thờ…
Mong rằng mọi người sẽ hiểu hơn về 'Hà Nội 36 phố phường'.
Huế-Kinh thành Huế
cố đô hoa lư