K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

11 tháng 5

Dưới đây là phần phân tích chi tiết về tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897–1914) của thực dân Pháp đối với xã hội Việt Nam, cùng với câu trả lời cho câu hỏi về tầng lớp có vai trò quan trọng trong việc tiếp nhận tư tưởng mới.


I. Tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897–1914) của thực dân Pháp đối với xã hội Việt Nam

⚙️ 1. Về kinh tế:

  • Thực dân Pháp đẩy mạnh khai thác tài nguyên thiên nhiên: mỏ than, thiếc, kẽm, đồn điền trồng cao su, cà phê...
  • Giao thông được đầu tư phục vụ mục đích bóc lột: xây dựng đường sắt, đường bộ, cảng biển (như cảng Hải Phòng), nhưng chủ yếu để vận chuyển hàng hóa và nguyên liệu về Pháp.
  • Kinh tế Việt Nam lệ thuộc vào Pháp, mất dần tính tự chủ.
  • Sự phân hóa trong nông thôn sâu sắc hơn: địa chủ giàu lên, nông dân nghèo khổ hơn.

👥 2. Về xã hội:

  • Cơ cấu xã hội truyền thống bị phá vỡ:
    • Tầng lớp địa chủ phong kiến được thực dân Pháp dung dưỡng để phục vụ quyền lợi cai trị.
    • Một bộ phận tư sản dân tộc manh nha hình thành, chủ yếu trong các ngành thủ công và thương mại nhỏ.
    • Giai cấp tiểu tư sản thành thị xuất hiện gồm viên chức, học sinh, trí thức, thợ thủ công.
    • Giai cấp công nhân Việt Nam bước đầu xuất hiện từ các mỏ, nhà máy, xí nghiệp do Pháp xây dựng.
  • Sự phân hóa giai cấp rõ rệt: mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp, giữa nhân dân và phong kiến tay sai càng trở nên sâu sắc.

📚 3. Về văn hóa – tư tưởng:

  • Hệ thống giáo dục Pháp – Việt được thiết lập, nhằm đào tạo người phục vụ bộ máy cai trị.
  • Một bộ phận trí thức tiếp xúc với tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây như: tự do, dân chủ, nhân quyền...
  • Các tư tưởng cải cách, canh tân đất nước (như của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh...) xuất hiện mạnh mẽ, tạo nên các phong trào yêu nước theo khuynh hướng mới.

II. Theo em, tầng lớp nào trong xã hội lúc bấy giờ có vai trò quan trọng trong việc tiếp nhận tư tưởng mới?

Theo em, tầng lớp trí thức và tiểu tư sản thành thị (bao gồm học sinh, sinh viên, nhà báo, viên chức...) là lực lượng có vai trò quan trọng nhất trong việc tiếp nhận tư tưởng mới.

✅ Lý do:

  • Đây là tầng lớp được tiếp xúc với nền giáo dục Pháp – Việt, có hiểu biết nhất định về các tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây.
  • Họ có điều kiện đọc báo, học tiếng Pháp, du học, nên dễ tiếp cận các tư tưởng cách mạng và tinh thần dân tộc hiện đại.
  • Chính từ tầng lớp này đã xuất hiện nhiều nhà cách mạng tiêu biểu như: Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Ái Quốc (sau này là Hồ Chí Minh)...

📝 Kết luận:

Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp đã làm thay đổi sâu sắc cơ cấu kinh tế – xã hội Việt Nam. Trong bối cảnh đó, tầng lớp trí thức và tiểu tư sản thành thị đóng vai trò trung gian quan trọng trong việc truyền bá tư tưởng mới, thức tỉnh tinh thần dân tộc, tạo tiền đề cho các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX.

11 tháng 5

Tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) của thực dân Pháp đối với xã hội Việt Nam:

Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp đã gây ra những biến đổi sâu sắc và toàn diện trong xã hội Việt Nam, trên cả phương diện tích cực và tiêu cực:

1. Về kinh tế:

  • Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa du nhập: Pháp đầu tư xây dựng các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, khai thác tài nguyên (than, kim loại, cao su,...), xây dựng hệ thống giao thông vận tải (đường sắt, đường bộ, bến cảng). Điều này bước đầu làm thay đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp lạc hậu, mang yếu tố tư bản chủ nghĩa vào Việt Nam.
  • Sự ra đời các ngành kinh tế mới: Bên cạnh nông nghiệp, xuất hiện các ngành công nghiệp khai khoáng, chế biến, dịch vụ, thương mại.
  • Phân hóa kinh tế: Nền kinh tế Việt Nam trở thành một bộ phận phụ thuộc vào kinh tế Pháp, thị trường bị Pháp độc chiếm, tài nguyên bị khai thác cạn kiệt. Kinh tế phát triển mất cân đối, chủ yếu phục vụ lợi ích của Pháp.
  • Nông nghiệp bị kìm hãm: Pháp tập trung vào khai thác tài nguyên và phát triển các đồn điền, ít chú trọng đầu tư vào nông nghiệp truyền thống, khiến nông nghiệp phát triển chậm chạp.

2. Về xã hội:

  • Sự phân hóa giai cấp sâu sắc:
    • Giai cấp địa chủ phong kiến: Một bộ phận nhỏ cấu kết với Pháp trở thành tay sai, giàu có và áp bức bóc lột nông dân. Phần lớn địa chủ vừa và nhỏ bị chèn ép, có tinh thần chống Pháp.
    • Giai cấp nông dân: Chiếm đại đa số dân số, bị tước đoạt ruộng đất, bần cùng hóa, trở thành lực lượng phản kháng mạnh mẽ. Một bộ phận nhỏ ra thành thị, hầm mỏ, đồn điền làm thuê.
    • Giai cấp công nhân: Ra đời từ các hầm mỏ, nhà máy, đồn điền, bị áp bức bóc lột nặng nề, có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ.
    • Tầng lớp tư sản: Xuất hiện nhưng còn yếu ớt, bị Pháp chèn ép, có xu hướng muốn cải cách kinh tế để phát triển.
    • Tầng lớp tiểu tư sản, trí thức: Bao gồm học sinh, sinh viên, giáo viên, viên chức, nhà báo,... có trình độ văn hóa, nhạy bén với thời cuộc, có tinh thần yêu nước, là lực lượng quan trọng trong việc tiếp thu và truyền bá tư tưởng mới.
  • Đô thị hóa: Các trung tâm kinh tế, hành chính, văn hóa như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng phát triển, thu hút dân cư từ nông thôn ra thành thị.
  • Thay đổi về văn hóa, giáo dục: Văn hóa phương Tây du nhập vào Việt Nam, xuất hiện các trường học theo kiểu phương Tây, chữ Quốc ngữ được phổ biến. Tuy nhiên, Pháp vẫn duy trì nền giáo dục lạc hậu để kìm hãm sự phát triển của người Việt.
  • Nảy sinh mâu thuẫn xã hội gay gắt: Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến cũng trở nên gay gắt.

Tầng lớp xã hội có vai trò quan trọng trong việc tiếp nhận tư tưởng mới:

Theo em, tầng lớp tiểu tư sản và trí thức có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tiếp nhận tư tưởng mới vào đầu thế kỷ XX. Điều này xuất phát từ những yếu tố sau:

  • Trình độ học vấn: Họ là những người được tiếp xúc với nền giáo dục mới, có kiến thức và khả năng đọc hiểu các sách báo, tài liệu từ bên ngoài, đặc biệt là các tư tưởng dân chủ tư sản từ phương Tây và các nước châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc.
  • Sự nhạy bén với thời cuộc: Họ là những người chứng kiến rõ nhất sự lạc hậu của xã hội phong kiến và sự áp bức của thực dân Pháp. Điều này thúc đẩy họ tìm kiếm những con đường cứu nước, giải phóng dân tộc mới.
  • Khả năng truyền bá: Với vai trò là giáo viên, nhà báo, văn sĩ, họ có điều kiện để truyền bá những tư tưởng mới, khơi dậy lòng yêu nước và ý thức dân tộc trong quần chúng nhân dân, đặc biệt là học sinh, sinh viên và các tầng lớp thị dân.
  • Tinh thần yêu nước và khát vọng độc lập: Họ là những người có lòng tự trọng dân tộc cao, không cam chịu cảnh nước mất nhà tan, luôn trăn trở tìm kiếm con đường giải phóng cho dân tộc.
  • Sự phân hóa trong nội bộ: Một bộ phận trí thức phong kiến thức thời cũng nhận ra sự lỗi thời của hệ tư tưởng cũ và tích cực tiếp thu những tư tưởng mới.
21 tháng 5 2019

Đáp án A

14 tháng 5 2022

Những chuyển biến xã hội việt nam trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp:

*Nông thôn

- Giai cấp địa chủ phong kiến đã đầu hàng làm tay sai cho thực dân Pháp với sống lượng ngày càng đông đảo

- Nông dân bị bần cùng hóa,bị bóc lột một cách nặng nề,sẵn sàng tham gia Cách Mạng để giải phóng chính mình và dân tộc

*Thành thị                   

- Nhiều đô thị xuất hiện và phát triển

- Một số tầng lớp và giai cấp mới xuất hiện

          + Tư sản

          + Tiểu tư sản thành thị

          + Công nhân

Vai trò chính trị của giai cấp tư sản và vô sản:

- Giai cấp tư sản thời kỳ này vẫn đang trên đường hình thành giai cấp.Tiếng nói chính trị của học còn rất hạn chế.Do bị lệ thuộc,yếu ớt về mặt kinh tế nên họ chưa dám tỏ thái độ hưởng hứng hay tham gia các cuộc vận động cách mạng giải phóng dân tộc dầu thế kỉ XX.Tuy vậy tư sản Việt Nam cũng dần bắt đầu thể hiện vai trò trong đời sống chính trị.

- Giai cấp vô sản dần trưởng thành và nhờ những đặc tính chính trị xã hội thuận lợi,nên sớm có vai trò đặc biệt quan trọng trong công cuộc giải phóng dân tộc,đưa đất nước tiến tới con đường xã hội chủ nghĩa sau này.

13 tháng 5 2022

tham khảo

20/01/2019 - Lượt xem: 767439

 ​I. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH MỸ THO VÀ TỈNH GÒ CÔNG  

1. Sự thống trị của thực dân Pháp

Sau khi bình định đất Nam Kỳ, chính quyền thực dân ở Mỹ Tho và Gò Công ráo riết đẩy mạnh việc vơ vét, bóc lột nhân dân ta để làm giàu cho chính quốc và bọn tư bản Pháp.

Nông nghiệp là ngành mà thực dân chú trọng nhiều nhất, bởi vì đầu tư ít vốn, nhưng thu được lợi nhuận cao thông qua việc xuất cảng thóc gạo. Ruộng đất bị thực dân Pháp chiếm đoạt một cách trắng trợn nhưng lại được "Hợp pháp hóa" bằng những sắc lệnh, nghị định. Ngoài ra, các địa chủ người Pháp lẫn người Việt tăng cường bóc lột phong kiến với mức địa tô rất nặng nề, thông thường chiếm đến 67% hoa lợi mà người nông dân tá điền thu được.

Ngoài ra, tầng lớp địa chủ còn tiến hành nhiều phương cách khác để bóc lột tá điền, như đặt ra lệ công lễ, vật lễ (tức là ngày công phải phục dịch vào các dịp lễ, Tết, giỗ chạp, những vật phẩm phải nộp như gạo nếp, vịt, sáp ong, rượu, trà,...), cho vay lãi nặng hoặc bán chịu cho tá điền những mặt hàng thiết yếu (vải vóc, nước mắm, muối, dầu lửa,...) để đến vụ mùa thu hoạch thì thu lại lúa với lãi suất cao,...

Công nghiệp ở địa phương hầu như không có sự đầu tư đáng kể nào của chính quyền thực dân và tư bản Pháp. Địa phương chí tỉnh Mỹ Tho năm 1902 cho biết : "Ở tỉnh Mỹ Tho, công nghiệp hoàn toàn không có gì, không có xưởng chế tạo máy và tất nhiên không có máy móc tinh xảo". Tại Tiền Giang, bọn chúng chỉ đầu tư vào ngành thu lợi lớn nhất là xay xát thóc gạo, tuy nhiên số lượng ít và công suất lại rất nhỏ. Địa phương chí tỉnh Gò Công năm 1936 cho biết : "Công nghiệp phát triển duy nhất ở trong tỉnh là các nhà máy xay lúa, với 22 nhà máy chạy bằng dầu, bao gồm 3 cái ở tỉnh lỵ và 19 cái ở các làng".

Về giao thông, ngay sau khi chiếm đóng, thực dân Pháp đã có ý thức rất rõ tầm quan trọng của các con kênh đào ở đây. Tháng 5/1877, chính quyền Pháp cho đào kênh Chợ Gạo nối sông Tiền tại rạch Kỳ Hôn với sông Vàm Cỏ Tây.

Do địa hình thường bị cắt xẻ bởi sông rạch nên ở một số tuyến đường liên tỉnh và nội hạt, chính quyền Pháp cho thiết lập các bến phà để đảm bảo việc giao thông liên lạc, như phà Rạch Miễu nối Mỹ Tho với Bến Tre, phà Mỹ Thuận nối Mỹ Tho với Vĩnh Long, phà Chợ Gạo nối Mỹ Tho với Gò Công, phà Mỹ Lợi nối Gò Công với Chợ Lớn và phà Rạch Lá nối Gò Công với Tân An.

Ngoài ra, hệ thông cầu cũng bắt đầu được xây dựng. Năm 1895, chiếc cầu Quay được hoàn thành. Chiếc cầu này đã giúp cho đô thị Mỹ Tho có điều kiện phát triển về mọi mặt, nhất là về kinh tế - thương mại.

Sở dĩ như vậy là do, Tiền Giang là cửa ngõ của Đồng bằng sông Cửu Long, đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển hàng hóa từ các tỉnh miền Tây Nam Bộ đến Sài Gòn và ngược lại, phục vụ cho chính sách tận thu nông sản để xuất khẩu của Pháp.

Bên cạnh hệ thống đường thủy và đường bộ, giới cầm quyền Pháp ở Nam Kỳ còn thiết lập tuyến đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho. Đây là tuyến đường sắt đầu tiên ở Việt Nam.

Việc thiết lập và phát triển hệ thống giao thông đường thủy, đường bộ và đường sắt của Pháp ở Tiền Giang, về mặt khách quan có tác dụng mở rộng lưu thông nội địa. Chỉ riêng năm 1912, người Pháp đã thu được 573.035 francs từ tuyến đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho.

Về thương mại, Pháp đã sử dụng giới tư sản mại bản Hoa kiều, vì họ có vốn lớn, đủ sức mua hàng hóa của Pháp để bán lại ở Việt Nam, đồng thời thu mua lúa gạo của Nam Kỳ bán cho thực dân Pháp để đáp ứng cho yêu cầu xuất khẩu nông sản của tư bản Pháp. Sự cấu kết của tư bản Pháp và tư bản Hoa kiều nhằm hạn chế sự phát triển của giới thương gia người Việt.

Thực dân Pháp còn đặt ra những khoản sưu thuế hết sức nặng nề để tận thu, tận vét tiền của của nhân dân. So với thời nhà Nguyễn, các thứ thuế cũ trong thời kỳ này đều tăng vọt, bên cạnh đó rất nhiều thứ thuế mới đặt ra, như: Thuế thân, thuế muối, thuế rượu và thuế thuốc phiện.

Về giáo dục, ở Mỹ Tho, năm 1879, chính quyền thực dân Pháp thành lập trường Collège de Mytho giảng dạy chương trình trung học đệ nhất cấp (tương đương cấp Trung học cơ sở hiện nay) cho cả xứ Nam Kỳ, 1 trường tiểu học đặt tại tỉnh lỵ và 15 trường sơ học ở 15 tổng. Ở Gò Công, chỉ có 1 trường tiểu học đặt tại tỉnh lỵ và 4 trường sơ học ở 4 tổng. Tuyệt đại đa số nhân dân đều bị mù chữ. Pháp một mặt duy trì những tập quán lạc hậu, lỗi thời, mê tín dị đoan, một mặt tuyên truyền, phổ biến lối sống ăn chơi trác táng, trụy lạc (sòng bạc, tiệm hút, tiệm rượu,...) nhằm tạo tâm lý tự ti, vong bản và thủ tiêu ý chí đấu tranh của nhân dân.

Sự áp bức, bóc lột đã đưa đến sự bần cùng hóa không thể tránh khỏi của nhân dân lao động và kèm theo dó là sự phân hóa xã hội diễn ra ngày càng sâu sắc.

Một bộ phận nông dân không còn đất sống phải rời bỏ nông thôn vào thành thị làm đủ mọi nghề kiếm sống, hoặc phải tha phương cầu thực.

Được thực dân Pháp nâng đỡ, ưu thế kinh tế và chính trị của giai cấp địa chủ không ngừng được tăng lên. Ở tỉnh Mỹ Tho, giai cấp địa chủ chỉ chiếm 1,2% dân số, nhưng sở hữu đến 75% diện tích ruộng đất canh tác của toàn tỉnh. Ở tỉnh Gò Công, giai cấp địa chủ chỉ chiếm 0,3% dân số, nhưng sở hữu đến 50% diện tích ruộng đất canh tác của toàn tỉnh.

Đội ngũ tư sản dân tộc ở Tiền Giang được hình thành vào đầu thế kỉ XX với số lượng và tiềm lực kinh tế, tài chính rất nhỏ bé, chủ yếu làm dịch vụ và thương nghiệp, có một ít mở xưởng sản xuất tiểu thủ công nghiệp.

Do bản chất giai cấp, giới tư sản người Việt bắt tay với tư sản Pháp ra sức bóc lột công nhân để làm giàu. Tuy nhiên, họ cũng bị tư sản Pháp cạnh tranh, chèn ép và kiềm hãm. Do đó, trong chừng mực nhất định, giai cấp này, trừ bọn mại bản, vẫn có tinh thần dân tộc và tham gia đấu tranh chống thực dân Pháp khi có điều kiện.

Tầng lớp tiểu tư sản ở Tiền Giang bao gồm: Tiểu thương, tiểu chủ, viên chức, trí thức, học sinh,... Tuy thu nhập có phần ổn định hơn công nhân, nông dân và dân nghèo thành thị, nhưng do giá cả ngày càng tăng, nên đời sống của họ cũng rất eo hẹp, vất vả và bấp bênh. Vốn có lòng yêu nước, căm thù thực dân xâm lược và có điều kiện tiếp thu những trào lưu tư tưởng mới, tầng lớp này là lực lượng rất tích cực trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.

Do sự hình thành của một số xưởng sản xuất nên đội ngũ công nhân ở Tiền Giang đã ra đời, nhưng với số lượng ít ỏi và mức độ tập trung còn thấp. Song, vốn xuất thân từ người nông dân bị bần cùng hóa phải ra thành thị bán sức lao động để kiếm sống và bị thực dân, tư sản, phong kiến bóc lột thậm tệ, lại có tinh thần yêu nước sâu sắc nên giai cấp công nhân, khi được giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành lực lượng chính, đảm nhận vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ.

Như vậy, sự thống trị của thực dân Pháp đã tạo ra những biến đổi về kinh tế và xã hội ở Tiền Giang. Sự áp bức tàn bạo về chính trị, bóc lột nặng nề về kinh tế và nô dịch về văn hóa đã tạo nên sự căm phẫn tột độ của các tầng lớp nhân dân, nhất là của quần chúng lao khổ. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến ngày càng trở nên gay gắt. Đó là nguyên nhân chính khiến cho các cuộc đấu tranh của nhân dân Tiền Giang liên tiếp bùng nổ và phát triển ngày càng mạnh mẽ.

1. Dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có sự phân hóa, xuất hiện giai cấp tầng lớp mới nào? Trình bày những nét chính về một  giai cấp, tầng lớp trong số các giai cấp, tầng lớp mới đó ?GỢI Ý: Mục II. 2 SGK trang 141, 142* Dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp xã hội Việt Nam...
Đọc tiếp

1. Dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có sự phân hóa, xuất hiện giai cấp tầng lớp mới nào? Trình bày những nét chính về một  giai cấp, tầng lớp trong số các giai cấp, tầng lớp mới đó ?

GỢI Ý: Mục II. 2 SGK trang 141, 142

* Dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp xã hội Việt Nam có sự phân hóa, xuất hiện giai cấp tầng lớp mới là:

- Tầng lớp tư sản.

- Tầng lớp tiểu tư sản.

- Giai cấp công nhân.

* Trình bày những nét chính về một giai cấp, tầng lớp. Có thể chọn:

+ Tầng lớp tư sản: Có nguồn gốc từ các nhà thầu khoán, chủ xí nghiệp, chủ hãng buôn… => bị chính quyền thực dân kìm hãm, tư bản Pháp chèn ép.

+ Tầng lớp tiểu tư sản: Bao gồm chủ các xưởng thủ công nhỏ, cơ sở buôn bán nhỏ, viên chức cấp thấp và những người làm nghề tự do => đời sống bấp bênh, có ý thức dân tộc. Tích cực tham gia các hoạt động cứu nước.

+ Giai cấp công nhân: phần lớn xuất thân từ nông dân, làm việc trong các đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, xí nghiệp, lương thấp nên đời sống khổ cực, có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ chống giới chủ nhằm cải thiện đời sống.

 

0
16 tháng 8 2021

Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột. Giai cấp tư sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định. Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức, những người làm nghề tự do… đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành người vô sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào.

Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu: Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; Hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân, trong đó chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.

15 tháng 4 2022

Tham khảo:

Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc đã để lại hậu quả nặng nề đối với Pháp => Pháp đã tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương (1919 - 1929) để bù đắp thiệt hại của chiến tranh gây ra  và làm giàu cho chính quốc.

* Về kinh tế:

- Tích cực:

+ Cuộc khai thác của Pháp làm xuất hiện nền công nghiệp thuộc địa mang yếu tố thực dân

+ Thành thị theo hướng hiện đại ra đời, bước đầu làm xuất hiện nền kinh tế hàng hoá, tính chất tự cung tự cấp của nền kinh tế cũ bị phá vỡ.

+ Xây dựng được hệ thống giao thông vận tải.

- Tiêu cực: Một trong những mục tiêu của công cuộc khai thác là vơ vét sức người, sức của nhân dân thuộc địa. Do vậy:

+ Tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cùng kiệt

+ Nông nghiệp lạc hậu, dậm chân tại chỗ

+ Công nghiệp phát triển nhỏ giọt, mất cân đối, thiếu hẳn công nghiệp nặng.

=> Nền kinh tế Việt Nam cơ bản vẫn là nền sản xuất nhỏ, lạc hậu và phụ thuộc vào nền kinh tế chính quốc.

* Về xã hội: Bên cạnh các giai cấp cũ không ngừng bị phân hoá, xã hội Việt Nam đã xuất hiện thêm những giai cấp, tầng lớp mới:

Giai cấp địa chủ phong kiến: đầu hàng, làm tay sai cho thực dân Pháp. Tuy nhiên, có một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ có tinh thần yêu nước.

Giai cấp nông dân: có số lượng đông đảo, bị áp bức bóc lột nặng nề. Họ sẵn sàng hưởng ứng, tham gia cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Tầng lớp tư sản: có nguồn gốc từ các nhà thầu khoán, chủ xí nghiệp, xưởng thủ công, chủ hãng buôn,... bị kìm hãm, chèn ép, chưa có tinh thần cách mạng.

Tiểu tư sản thành thị: bao gồm chủ các xưởng thủ công nhỏ, viên chức cấp thấp và những người làm nghề tự do. Đó là những người có trình độ học vấn, nhạy bén với thời cuộc nên đã sớm giác ngộ và tích cực tham gia vào cuộc vận động cứu nước đầu thế kỉ XX.

Công nhân: xuất thân từ nông dân, làm việc trong các đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, xí nghiệp,… đời sống khổ cực, có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ chống giới chủ nhằm cải thiện đời sống.

- Đời sống nhân dân khổ cực, mâu thuẫn xã hội sâu sắc.