K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

7 tháng 3 2018

Phương thức biểu đạt chính là tự sự.

Chúc bạn học tốt.

1 tháng 4 2019

tự lên mạng mà xem

hok tốt

ko rảnh

1 tháng 4 2019

hay dc

29 tháng 11 2019

anh nha mình chờ các bạn gửi tin nhắn

29 tháng 11 2019

nghiênj

8 tháng 10 2017

Ttt nha list

8 tháng 10 2017

Cmt mạnh zô nheaaa -.-

1 tháng 2 2016

Bên kia sống Đuống in trong tập thơ cùng tên xuất bản năm 1956. Tác giả kể về trận giặc Pháp đánh chiếm phía Nam tỉnh Bắc Ninh trong khi ông đang công tác ở chiến khu Việt Bắc. Một đêm tháng tư năm 1948, nghe tin quê hương bị giặc tàn phá, nhà thơ vô cùng xúc động đã sáng tác nên bài thơ này và nó nhanh chóng được lưu truyền rộng rãi trong cán bộ, chiến sĩ ta. Sống Đuống là con sống nối liền sống Hồng và sống Lục Đầu tức sống Thái Bình. Bờ Nam sống là quê hương tác giả. Bờ Bắc là vùng tự do của kháng chiến.

Bài thơ khá dài, gồm hai phần lớn: Phần thứ nhất nói về quê hương nhà thơ bên kia sông Đuống đang bị giặc giày xéo; phần thứ hai kể chuyện bộ đội trở về cùng nhân dân đánh giặc giải phóng quê hương.

Bằng cách miêu tả cuộc sống thanh bình của quê hương giờ đây đang bị quân xâm lược hung tàn giày xéo tan hoang, nhà thơ bộc lộ nỗi đau quặn thắt của trái tim, sâu xa hơn là bày tỏ tình cảm yêu mến tha thiết đối với quê hương, đất nước và dân tộc.
 
Mở đầu là vẻ đẹp thơ mộng của con sống Đuống với cái dáng nghiêng nghiêng mềm mại, với cát trắng phẳng lì, một dòng lấp lánh, xanh xanh bãi mía bờ dâu, ngô khoai biêng biếc. Đó là hình ảnh của cuộc sống thanh bình, no ấm. Vậy mà giờ đây, tất cả đã bị xáo trộn phũ phàng. Đứng bên này sông (tức là bờ Bắc), tác giả nhớ tiếc vì không thể về bên kia được, bởi bên kia đã bị giặc chiếm rồi. Nỗi buồn thấm đẫm tâm trạng nhà thơ, người con đang xa quê hương. Nhưng cớ sao mà nhà thơ buồn đến mức xót xa như rụng bàn tay?
 
Ở câu thơ thứ nhất: Em ơi buồn làm chi; nhân vật Em là ai? Có thể là người thương hoặc có khi là chính bản thân nhà thơ. Nó là âm thanh chủ đạo tạo ra âm hưởng tha thiết chung của toàn bài ; đau thương mà vẫn dịu nhẹ, thấm sâu. Kể cả hình ảnh so sánh khá táo bạo : xót xa như rụng bàn tay, nghe đau đớn thấu ruột gan nhưng vẫn là nỗi đau cố nén vào trong.
 
Bắc Ninh thuộc vùng Kinh Bắc xưa là vùng đất có bề dày lịch sử rất đáng tự hào: có mộ Kinh Dương Vương ở Thuận Thành; là địa bàn đánh giặc Ân của Thánh Gióng. Hai Bà Trưng cũng chiến đấu chống quân Nam Hán ở đấy. Lí Thường Kiệt đánh đuổi quân Tống ở sông Như Nguyệt tức sông cầu.
Chiến dịch xương Giang của Lê Lợi – Nguyễn Trãi cũng diễn ra trên mảnh đất này… Về văn học, truyện cổ Tấm Cám có nguồn gốc từ đó. Tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng khắp nơi. Về kiến trúc và điêu khắc thì chùa Bút Tháp có pho tượng Phật Bà nghìn mắt nghìn tay. Con người Kinh Bắc nổi tiếng là tài giỏi, thanh lịch : Trai Cầu vồng, Yên Thế; gái Nội Duệ, cầu Lim. Bắc Ninh là cái nôi của dân ca quan họ ngọt ngào làm mê đắm lòng người.
 
Cuộc sống êm đềm đang diễn ra bình thường như quy luật ngày lên đêm xuống. Bên kia sống Đuống là quê anh, làng Lạc Thổ, làng Đông Hồ. Ai đặt cho làng cái tên hay như thế ? Lạc Thổ là đất vui, là cảnh Niết Bàn của Phật. Đông Hồ đem lại niềm vui tỉnh thần cho cả tỉnh, cả nước với nghề làm tranh Tết. Các nghệ nhân tài hoa xưa đã sáng tạo ra những bức tranh có nội dung vui tươi, màu sắc đậm đà, nét vẽ lại mộc mạc, chân chất. Tranh nào tranh nấy như những lời chúc mừng năm mới tốt đẹp. Từ con người đến loài vật đều vui với xuân, đều nảy nở, sinh sôi. Gà đàn, Lợn ổ, Lợn âm dương, Đám cưới chuột, Hứng dừa, Thầy đồ Cóc… Từ làng Đông Hồ, tranh tỏa đi khắp nơi. Chợ Tết rực rỡ màu tranh xanh đỏ tím vàng loang loáng, lấp lánh trên nền giấy điệp (giấy quét một lớp bột vỏ sò gọi là điệp pha với keo), đưa tới mọi nhà niềm vui và niềm tin năm mới làm ăn phát đạt. Tranh Đông Hồ có vẻ đẹp dân dã, thanh tao mà ý nghĩa ấm áp biết bao nhiêu !
 
Bỗng dưng lũ xâm lăng ùn ùn kéo đến như đám cháy ngùn ngụt lừa hang tàn. Nhà thơ miêu tả chúng bằng những dòng thơ đẩy căm hận và khinh bỉ, ví chúng chẳng khác gì chó ngộ một đàn, lưỡi dài lê sắc máu; tàn phá đến kiệt cùng ngõ thẳm, bờ hoang. Hỏi có cái gì còn nguyên vẹn khi ruộng khô, nhà cháy?
 
Sông Đuống là quê hương anh, quê hương em, quê hương của chúng ta. Cuộc sống yên lành, tươi đẹp từ cỏ cây, sống nước đến tấm lòng nhân hậu của con người, vẻ đẹp phong phú ấy thể hiện ở lúa nếp thơm nồng, ở tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong, Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã… nhưng quân xâm lược dã man đã đốt phá tan hoang. Cảnh vật, con người của quê hương giờ đây tan tác, chia hai, không biết về đâu ?
 
Nào chỉ có đau đớn về vật chất? Quân giặc đốt phá, giết chóc khiến quê hương tơi bời trong lửa đạn ; nhưng đó mới chỉ là những vết thương trước mắt. Còn điều sâu xa hơn là những bức tranh vẽ đàn lợn âm dương, đám cưới chuột kia chứa đựng ý nghĩa về nguồn gốc sự sống trong quan niệm bình dị mà sâu sắc của cha ông cũng bị giặc hủy diệt. Đó là hủy diệt sự sống. Hỏi còn tội ác nào lớn hơn thế nữa ?!
 
Lời thơ, ý thơ đau đớn mà âm điệu đoạn thơ cũng xót xa kéo dài vô tận. Quê hương ta chứa đựng cuộc đời của ông bà, cha mẹ, chứa đựng cuộc đời ta. Nhưng nó lại ở bên kia sông Đuống, nằm trong vùng địch tạm chiếm nên trở thành xa xôi. Cả thời gian lẫn không gian đều mờ mịt khiến nỗi xót xa trở thành nỗi đau tột cùng : xót xa như rụng bàn tay. Giặc tràn tới, bây giờ không biết mọi cái đã về đâu ? Âm điệu của hai chữ về đâu nghe như một tiếng trời ơi vút lên giữa thinh không, vô vọng!
 
Quê hương sông Đuống còn một nét văn hóa nữa cũng nổi tiếng cả nước như tranh làng Hồ ; đó là hội hè mùa xuân. Hội xuân có bao vẻ đẹp, vẻ hay. Hội hè là nơi mọi người vui chung niềm vui mùa màng tốt tươi năm trước, cầu mong năm nay càng tốt tưới hơn. Hội hè là nơi mọi người vui với sức mạnh, tài ba của Trai cầu vồng, Yên Thế, gái Nội Duệ, cầu Lim, vui câu hát điệu hò của liền anh liền chị, vui gặp gỡ gái trai… Núi Thiên Thái, chùa Bút Tháp và bao nhiêu nơi khác khắp miền quê sống Đuống mùa xuân đều có hội. Hội hè đã trở thành mơ ước của mọi lứa tuổi mỗi độ xuân về, đã thành nếp trong óc trong tim mọi người như một thứ mộng bình yên, trải mấy trăm năm. Nhưng nay dẫu đang là mùa xuân mà không ai còn lòng dạ nào mở hội. Có thể chuông chùa còn văng vẳng nhưng những người đi dự hội xuân năm ngoái lên núi, vào chùa, sang sống với con đò đưa các liền anh, liền chị… những cô môi cắn chỉ quết trầu, những cụ già phơ phơ tóc trắng, những em sột soạt quần nâu… bây giờ ở đái?! Nhà thơ băn khoăn, ao ước: Ai về bên kia sống Đuống, Cho ta gửi tấm the đen. Quê ta có nghề trồng dâu nuôi tằm và dệt lụa. Ta gửi về cho mẹ, cho em tấm the đen để may áo tứ thân đi dự hội cho vời bớt lo toan suốt một năm, một đời. Nhưng bóng mẹ, bóng em nay ở đâu? Nỗi lo lắng, khắc khoải thấm đẫm trong từng câu, từng chữ.
 
Đoạn thơ nêu lên một nét sinh hoạt văn hóa lâu đời của quê hương Kinh Bắc là hội xuân. Bắt đầu bằng âm hưởng nhớ thương da diết với ai về và cho ta – những mô típ quen thuộc trong ca dao, dân ca; cuối cùng là: Gửi về may áo cho ai cũng vẫn bằng giọng điệu thân thương. Tội nghiệp thay Tấm the đen không người nhận, phơ phất giữa cõi trống không, chẳng biết về đâu?
 
Một biểu hiện khác nữa của cuộc sống văn hóa ở quê hương nhà thơ là những cảnh sinh hoạt dân dã với những con người quen thuộc: Những cô hàng xén răng đen, Cười như mùa thu tỏa nắng, những phiên chợ Hồ, chợ Sui người đua chen, Bãi Trầm Chỉ người giăng tơ nghẽn lối, Những nàng dệt sợi, Đi bán lụa màu, Những người thợ nhuộm, Đồng Tỉnh, Huê cầu… Làm ăn vất vả, tất bật, hay lam hay làm… đều là những vẻ đẹp có từ thuở xưa. Ông cha truyền lại cho con cháu những nghề tinh khéo, truyền lại luôn cả cái phong tục mắc cửi giăng tơ ngang đường, ai đi qua phải giải cho được câu đố hay câu hát mới được qua, không thì chỉ tơ không buộc mà cứ vương. Truyền cái nghề pha màu chọn nắng, chiều người mà nhuộm cho vừa mắt vừa lòng các cô, các chị. Thợ nhuộm Đồng Tỉnh, Huê cầu đi đâu cũng để lại những tấm áo, những thắt lưng, những chéo yếm bền màu, đẹp sắc và để luôn lại những nỗi nhớ niềm thương: Ai về Đồng Tỉnh, Huê cầu, Để thương để nhớ để sầu cho ai ?!
 
Có ai về bên kia sống Đuống không em? Còn chăng những chị, những em tuy quanh năm phải tảo tần phụng dưỡng mẹ cha, lo cho chồng con mà vẫn góp phần làm cho cuộc đời tươi sen và cười nắng. Đẹp và duyên biết chừng nào! Thế mà giờ đây, những người chị, người em ấy của quê hương đã tan tác đi đâu, về đâu ? Âm điệu đoạn thơ mỗi lúc một nghẹn ngào, chới với.
 
Ba đoạn thơ cùng thể hiện một nỗi đau xót chung trước cuộc sống của quê hương đang bị lũ giặc hung ác giày xéo tan tành. Bên kia sống Đuống, bên này sống Đuống, vốn hai bờ, một sông nay chỉ còn một bờ, một nửa. Một nửa sống, một nửa con người! Đau xót như chết nửa con người chứ không phải chỉ như rụng bàn tay, Những ai có quê hương, làng mạc bị giặc chiếm đóng mà không thể ghé về thăm được, đứng bên này sông nhìn qua vùng giặc tạm chiếm, đều không khỏi xót xa, đau đớn và căm giận lũ cướp nước bạo tàn, đồng thời thông cảm với tâm trạng nhà thơ. Bao nhiêu thiết tha, trìu mến trong những chữ quê hương ta, ai về, cho ta gửi tấm the đen, gửi về may áo cho ai, ai về… có nhớ… Tưởng như ai về là về giùm cho ta, mang hộ tấm lòng da diết nhớ của ta cùng về.
1 tháng 2 2016

Mỗi một con người ai cũng có một quê hương. Và Hoàng Cầm cũng vậy, mảnh đất ăn sâu vào máu thịt ông là miền đất Kinh Bắc bên kia sông Đuống. Nhớ về quê hương là nhớ về những gì sâu nặng nhất trong tâm hồn và trong đáy sâu của cảm xúc đó nhà thơ cho ra đời “Bên kia sông Đuống”.

Bài thơ ra đời khi quê hương Kinh Bắc của ông rơi vào tay giặc Pháp. Nỗi đau xót khi nghe tin quê hương ngập chìm khói lửa chiến tranh trĩu nặng tâm hồn ông .Đứng bên này Sông Đuống, mảnh đất tự do, hướng về quê hương bên kia Sông Đuống, mảnh đất bị giặc chiếm đóng với bao nỗi niềm và xót xa trong tâm trạng. Một dòng sông mà giờ đây đôi bờ cách biệt .

Dòng thơ đầu tiên mở ra tác phẩm là một tiếng gọi cất lên từ sâu thẳm trái tim đau đớn của nhà thơ, đồng thời cũng là một lời an ủi:

Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì

“Em” ở đây là một nhân vật phiếm chỉ. Tuy nhiên, có phần chắc chắn đó là một cô gái cùng quê bên kia sông Đuống với nhà thơ. Trong thơ Hoàng Cầm ta thường gặp một nhân vật em như vậy, bởi đó là cái cớ để nhà thơ bộc lộ xúc cảm của mình một cách chân thành nhất .

Và lời an ủi đưa em về sông Đuống thực chất chỉ diến ra trong hoài niệm của nhà thơ. Trong niềm hoài niệm đó, hình ảnh trung tâm là con sông quê hương với bờ cát trắng phẳng lì chảy từ quá khứ xa xôi về hiện tại, hiện lên trong tâm trí nhà thơ như một dòng sáng lấp lánh và trù phú hai bên bờ những mầu xanh bạt ngàn của những bãi mía, nương dâu:

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì

Dáng nằm nghiêng nghiêng của dòng sông Đuống là một phát hiện, một sáng tạo độc đáo của Hoàng Cầm. Cảm xúc mãnh liệt cùng trí tưởng tượng phong phú đã giúp nhà thơ sáng tạo ra một hình ảnh thơ độc đáo đầy ấn tượng, làm xáo trộn cả không gian và thời gian, ám ảnh hoài tâm trí người đọc.

Từ bên này, nhà thơ đau đáu hướng cặp mắt về bên kia sông Đuống. Đoạn thơ kết thúc bằng một hình ảnh diến tả nỗi đau “Sao xót xa như rụng bàn tay”. Hoàng Cầm đã mượn nỗi đau của thể xác để diến tả, thể hiện một cách một cách cụ thể nỗi đau về tinh thần. Phải là người coi quê hương là máu thịt của mình mới có tình cảm mãnh liệt đến như vậy. Có thể nói, tâm trạng ở đây đã đạt đến độ điển hình.

Cảm hứng chủ đạo trong đoạn thứ nhất là nỗi đau, sự nuối tiếc, xót xa, căm giận trước cảnh tượng quê hương thanh bình, đông vui, tươi đẹp bị giặc chiếm đóng. Từ cảm xúc về nỗi đau đó, quê hương Kinh Bắc dần dần hiện lên trong kí ức nhà thơ.

Vùng quê Kinh Bắc, trong hoài niệm, được gợi lên bởi hương lúa nếp thơm nồng – biểu tượng của cuộc sống ấm no, và tranh Đông Hồ – biểu tượng của đời sống tinh thần lành mạnh.

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Vẻ đẹp quê hương bừng sáng lên rồi bị ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. Nhà thơ miêu tả thật xúc động những cảnh tan tác chia lìa của quê hương khi quân giặc tới: ngùn ngụt lửa hung tàn, ruộng khô, nhà cháy, con người chia li, cả loài vật cũng thành ra tan tác:

Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu

Ở đây cái ảo đã hòa nhập cùng cái thực. Mượn hình ảnh trong tranh để diễn tả cảnh tượng thật ngoài đời, nhà thơ đã lay động sâu xa tình cảm của những con người vốn gắn bó máu thịt với truyền thống văn hóa hàng ngàn đời của quê hương Kinh Bắc.

Không chỉ có vậy, hình ảnh quê hương Kinh Bắc còn được gợi lên với những đền chùa cổ kính, những hội hè đình đám thể hiện khát vọng một cuộc sống hạnh phúc, bình yên của nhân dân. Vậy mà giấc mộng bình yên mấy trăm năm ấy giờ đây tan vỡ.

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu

Những con người mang một phần linh hồn của quê hương xứ sở ấy giờ đây trở nên bơ vơ, tan tác. Cũng không còn nữa những hội hè đông vui, nhôn nhịp. Chỉ còn tiếng chuông chùa văng vẳng từ thuở bình yên xa xưa vọng về càng làm tăng thêm sự hoang vắng của quê hương như tiếng thở than nuối tiếc một thời yên ấm.

Vùng quê Kinh Bắc còn được gợi lên bằng cảnh lao động nhộn nhịp, buôn bán đông vui, sầm uất. Trong tâm trí nhà thơ, hình ảnh những cô gái Kinh Bắc dăng tơ dệt lụa, buôn bán tảo tần hiện lên với những nét xinh tươi, dịu dàng, duyên dáng và biết bao tình tứ.

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng

Nhưng giờ đây cũng tan tác chia lìa, không biết đi đâu, về đâu.

Trong niềm tiếc thương không nguôi những người, những cảnh vật của quê hương, Hoàng Cầm đã dành tình cảm sâu nặng nhất cho người mẹ già và em nhỏ. Người mẹ già nua, còm cõi vốn đã vất vả trong thời bình lại càng khốn khổ hơn khi quân giặc tới. Kinh Bắc vốn là đất lành giờ đây bỗng hóa thành đất dữ. Chẳng những con người không sống được yên ổn mà cả những cánh cò cũng táo tác, hốt hoảng không chốn nương thân.

Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Hình ảnh cánh cò lồng vào hình ảnh người mẹ, nhưng không phải là cánh cò bay lả bay la của thời bình nữa mà là cánh cò hốt hoảng chạy trốn đạn bom, soi bóng trên lưng người mẹ run rẩy, bước thấp bước cao trên đường trơn mưa lạnh.

Số phận tội nghiệp của những đứa trẻ trong chiến tranh được Hoàng Cầm gợi lên trong cảnh đói khát cùng với sự đe dọa của đạn bom. Cả ban ngày lẫn ban đêm, cả khi thức lẫn khi ngủ, cái chết luôn rình rập, đe dọa chúng. Lòng uất hận, căm thù của nhà thơ bùng lên dữ dội. Câu thơ Hoàng Cầm đến đây thét lên phẫn nộ:

Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết ngươi hờn

Phần còn lại của bài thơ diễn tả cảnh bộ đội trở về và nhân dân vùng lên đấu tranh tấn công một cách chủ động vào kẻ thù. Giọng thơ chuyển từ nhớ tiếc, xót thương sang uất hận, căm thù.

Lời cảm thán, niềm hoài niệm ở đầu bài thơ đã trở thành lời hứa hẹn, niềm hi vọng ở đoạn kết. Một khung cảnh mùa xuân tràn trề niềm vui và ánh sáng lại trở về với vùng quê Kinh Bắc. Cô gái Kinh Bắc lại hiện ra với nụ cười tươi tắn giữa không khí tưng bừng của ngày hội .

Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh

Bên kia sông Đuống là những dòng tình cảm mãnh liệt nhất, chân thành và trong sáng nhất mà Hoàng Cầm đã dành cho quê hương yêu dấu của mình, và qua đó đánh thức trong mỗi chúng ta tình yêu quê hương đất nước. Đó là thứ tình cảm thiêng liêng cao cả và gắn bó như chính lời bài hát của nhạc sĩ Giáp Văn Thạch

24 tháng 4 2016

c1: đoan thơ trên đươc viết theo thể thơ luc bát

c2:nói về các anh hùng và biển đảo hs,ts

c3:sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ 

tác dụng : làm cho đoạn thơ được sống động thể hiện sắc trái,biểu cảm

26 tháng 4 2016

Cám ơn bạn nha :))

2 tháng 6 2017

Hình tượng so sánh trong câu thơ mở đầu : Đôi mắt em muốn nhìn vào tâm tưởng anh như Trăng kia muốn vào sâu biển cả Thể hiện niềm khát khao hòa hợp, hiểu biết nhau trong tình yêu. (Đôi mắt như ánh sáng lung linh diệu huyền muốn rọi sáng tận đáy sâu trái tim người yêu. Khát khao thấu hiểu người mình yêu là chính đáng nhưng vô vọng bởi chiều sâu tâm tưởng anh là vô cùng như chiều sâu biển cả).

15 tháng 2 2022

thể thơ tự do

15 tháng 2 2022

viết theo thể thơ tự do

Ở quanh con, người tử tế vẫn nhiềuVẫn còn có bao điều tốt đẹpXa danh lợi, hãy chịu bề thua thiệtHãy vì người, nếu mong họ vì con. Rách cho thơm, dẫu đói thì phải sạchTình thương yêu không mua được bằng tiềnCần gỗ tốt, nước sơn còn phải tốtOán bên lòng, ơn khắc dạ đừng quên. Nếu vấp ngã, con tự mình đứng dậyMuốn tập bơi, cứ nhảy xuống giữa dòngThà mất cả, cố giữ...
Đọc tiếp

Ở quanh con, người tử tế vẫn nhiều

Vẫn còn có bao điều tốt đẹp

Xa danh lợi, hãy chịu bề thua thiệt

Hãy vì người, nếu mong họ vì con.

 

Rách cho thơm, dẫu đói thì phải sạch

Tình thương yêu không mua được bằng tiền

Cần gỗ tốt, nước sơn còn phải tốt

Oán bên lòng, ơn khắc dạ đừng quên.

 

Nếu vấp ngã, con tự mình đứng dậy

Muốn tập bơi, cứ nhảy xuống giữa dòng

Thà mất cả, cố giữ gìn danh dự

Sống thẳng mình, mặc kệ thế gian cong.

(Nói với con, Nguyễn Huy Hoàng, nguồn http://baophunuthudo.vn/article)

Câu 1: Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào?

Câu 2: Việc vận dụng tục ngữ dân gian trong đoạn thơ thứ 2 có tác dụng gì?

Câu 3: Anh/ chị hiểu nội dung các dòng thơ sau như thế nào?

Ở quanh con, người tử tế vẫn nhiều

Vẫn còn có bao điều tốt đẹp

Xa danh lợi, hãy chịu bề thua thiệt

Hãy vì người, nếu mong họ vì con.

Câu 4: Những lời tâm sự "nói với con" của nhà thơ được thể hiện trong đoạn trích gợi cho anh/chị suy nghĩ gì?

II. Làm văn

Câu 1: Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của việc "Sống thẳng mình" của con người trong cuộc sống hôm nay.

 

1
11 tháng 2 2020

Phần đọc hiểu

Câu 1: Đoạn trích được viết theo thể thơ 8 chữ.

Câu 2: Việc vận dụng tục ngữ dân gian trong đoạn thơ thứ hai có tác dụng nhắc nhở người con giữ cho mình phẩm chất tâm hồn cao đẹp, trong sạch dù gặp hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt.

Câu 3: 

- Tin vào những điều tốt đẹp, tử tế trên đời.

- Biết sống vì người khác.

Câu 4:  Suy nghĩ theo các hướng

- Sống tử tế, yêu thương

- Tình cảm của người làm cha, mẹ với con cái.