Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Xã hội ngày càng văn minh, càng phát triển thì người ta càng có xu hướng quan tâm đến di sản văn hoá đến di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh. Đó là một nhu cầu của cuộc sống. Thế hệ mai sau có quyền biết được những giá trị văn hoá nói chung và di sản văn hoá vật thể nói riêng. Với trách nhiệm là một công dân tương lai, chúng ta phải biết bảo vệ, giữ gìn, và phát huy những giá trị văn hoá đó. để làm giàu đất nước để góp phần cho văn hoá nhân loại ngày càng phong phú hơn.
Một điều đáng mừng là trong những năm gần đây, cùng với sự chuyển mình mạnh mẽ về kinh tế, đã diễn ra sự "phục hưng" trong lĩnh vực văn hoá. Nhiều giá trị văn hoá truyền thống như quan hệ trong gia đình, làng xóm, lễ hội, phong tục tập quán có lúc bị xem thường đang dần dần được khôi phục. Mặc dù vậy, kinh tế thị trường với khuynh hướng "thương mại hoá", với sự xáo trộn hơn về bậc thang giá trị, sự phục hồi những hủ tục ... cũng đang tác động ráo riết. Hơn lúc nào hết, việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống đang trở nên ngày càng bức thiết và đây không phải là trách nhiệm của riêng ai mà là trách nhiệm của toàn xã hội. Nói như tác giả Trần Ngọc Thêm, "một môn học về văn hoá dân tộc với mấy chục tiết trong nhà trường chỉ là những hạt mưa, trong khi thông tin ngoài xã hội hàng ngày là những cơn lũ: thử điểm xem trên các phương tiện thông tin đại chứng hàng ngày có bao nhiêu fim, bài có nội dung giáo dục về văn hoá dân tộc và có bao nhiêu vụ án đầy tình tiết giật gân và bạo lực ?"
Việc giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống phải dựa trên nguyên tắc lựa chọn và duy trì nguyên vẹn những cái gì? Cái gì cần dẹp bỏ? Cái gì cần bổ sung, làm mới?
Về thể chế
Thứ nhất: Xây dựng và vận dụng bảng giá trị văn hoá:
Chúng ta biết rằng, không có một nền văn hoá nào lại không có những giá trị chuẩn của xã hội đó. Nói cách khác, chuẩn giá trị xã hội là cái không thể thiếu. Vấn đề là ở chỗ, chuẩn giá trị đó phải như thế nào? Lấy cái gi làm cơ sở, làm nền tảng ?
Theo kinh nghiệm của các nước Đông Nam Á thì phải diễn đạt những chuẩn mực này một cách ngắn gọn mà dễ hiểu, phải vừa chặt chẽ lại vừa sinh động để cho mọi tầng lớp trong xã hội đều có thể thấm nhuần, có thể thực hiện được. Bên cạnh đó, về mặt nội dung, chuẩn giá trị xã hội phải làm thế nào để vừa thể hiện được sự kết hợp hài hoà giữa các giá trị truyền thống và các giá trị tiên tiến mà trong đó các giá trị truyền thống luôn luôn làm nền tảng, làm cơ sở cho các giá trị mới.
Ví dụ, nếu như trước đây, tinh thần yêu nước truyền thống lấy độc lập dân tộc làm mục tiêu cao nhất với phương châm "tất cả cho tiền tuyến" thì ngày nay, yêu nước phải là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc là nấc thang để tiến tới mục tiêu cao hơn là mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Để bảo vệ nền độc lập dân tộc, chúng ta cần đẩy mạnh phát triển kinh tế, củng cố tiềm lực quốc phòng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Có xây dựng được một nền kinh tế vững mạnh mới tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật ngang tầm với trình độ văn minh thế giới. Trong xây dựng kinh tế, yêu nước chính là cố gắng phấn đấu học tập, tu dưỡng, rèn luyện, lao động để làm ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội. Mỗi cá nhân dù ở cương vị nào, cũng phải hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Lợi ích không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm biết hưởng các quyền lợi nhưng phải cố gắng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Yêu nước trong bối cảnh hiện nay phải gắn liền với độc lập, tự chủ về kinh tế, tạo ra cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả; mặt khác, hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả sẽ tạo điều kiện cần thiết để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, tránh được sự lệ thuộc vào đối tác trong quá trình hội nhập. Yêu nước ngày nay phải kết hợp chặt chẽ với việc chống tham nhũng, bởi vì nó chính là kẻ thù vô cùng nguy hiểm.
Như vậy, yêu nước ngày nay là đem hết tinh thần và nghị lực, sức mạnh và tài năng của từng người, từng tập thể và cả cộng đồng dân tộc để bảo vệ độc lập dân tộc, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển đất nước; vươn lên mạnh mẽ trong sản xuất, kinh doanh theo phương châm "ích nước lợi nhà"; tăng cường đoàn kết dân tộc cùng nhau xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, văn minh.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, phải chăng một bảng giá trị sẽ gồm những giá trị xã hội sau để có thể đáp ứng được những yêu cầu trên:
Một là: Độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội
Hai là: Tự lập, tự cường, lập thân, lập nghiệp
Ba là: Hoà đồng dân tộc, khoan dung văn hoá
Bốn là: Nếp sống văn minh, môi trường trong sạch
Năm là: Cần cù, năng động, sáng tạo trong lao động
Sáu là: Suốt đời học tập, thích ứng với cái mới
Bảy là: Giữ gìn gia đình, Bảo vệ Tổ quốc
Đây chính là sự bổ sung, làm mới những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Bất cứ một bảng giá trị văn hoá nào cũng phải được sự đồng tình, ủng hộ và sự thực hiện của nhân dân.
Thứ hai: Xây dựng các khuôn mẫu ứng xử và thể chế xã hội - văn hoá mới.
Từ những chuẩn giá trị vừa nêu trong bảng giá trị trên cần phải được cụ thể hoá thành những nội dung phù hợp cho từng lớp đối tượng như học sinh, thanh niên, công nhân, nông dân, trí thức, cán bộ, doanh nhân, v..v... để xây dựng các tập thể văn hoá cho từng đơn vị (từng cộng đồng) văn hoá. Với các làng, xã thì nên đưa nó vào trong nội dung của hương ước mới.
Bên cạnh đó, phải xây dựng quy chế văn hoá nơi cộng đồng, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của từng địa phương. Dần dần, các chuẩn giá trị đó sẽ tạo thành các khuôn mẫu ứng xử và thói quen trong cuộc sống. Khi đã trở thành khuôn mẫu ứng xử và thể chế xã hội - văn hoá thì nó sẽ có thể hình thành và định vị khung của lối sống đạo đức của từng người, từng gia đình, nhà trường, doanh nghiệp, công sở ... đồng thời nó sẽ góp phần duy trì sự ổn định của các chuẩn mực của lối sống đạo đức đó trong điều kiện xã hội đầy sự biến động.
Thứ ba: Chủ động phòng chống lối sống thực dụng, sự băng hoại đạo đức, sự đảo lộn các bậc thang giá trị xã hội và sự phá hoại phong tục tập quán truyền thống và cách mạng.
Song song với giải pháp xây dựng là các giải pháp về phòng chống văn hoá độc hại, các tệ nạn xã hội, sự phá hoại truyền thống dân tọc. Trong cơ chế thị trường thì đây là một việc làm rất khó, khó ở chỗ là khó tách bạch giữa cái tiêu cực và tích cực. Do vậy, cần nhìn nhận thấy những hạn chế trong nhận thức, luật pháp, chính sách và biện pháp hành chính để có những biện pháp thích hợp phòng chống lại những tiêu cực nảy sinh trong xã hội.
Cách chống tham nhũng của người Trung Quốc chỉ xoay quanh có tám chữ: không thể, không dám, không muốn, không cần, nghĩa là:
Không thể: Làm thế nào để thể chế, cơ chế - chính sách phải không tạo điều kiện cho nạn tham nhũng xuất hiện.
Không dám: Pháp luật phải thật nghiêm khắc cho những người vi phạm phải thân bại danh liệt để kẻ khác phải thấy sợ và không dám vi phạm.
Không muốn: Phải giáo dục về vấn đề này để giúp họ có một lập trường tốt, không vì ham muốn đồng tiền mà bị sa sút nhân cách.
Không cần: Nhà nước phải tạo điều kiện về vật chất cho cán bộ để họ có đủ điều kiện sống mà không cần tham nhũng...
Có lẽ, chúng ta nên tham khảo quan điểm đó, coi nó như một giải pháp trong việc chống tham nhũng nói riêng, mở rộng trong việc chống những thói hư, tật xấu và tiêu cực trong xã hội nói chung.
Để đạt được những yêu cầu "xây" và "chống" cần phải kiện toàn Ban chỉ đạo nếp sống văn minh từ Trung ương đến cơ sở, xây dựng hội đồng giám định và định hướng việc chấn hưng phong tục tập quán cổ truyền trong việc xây dựng nền văn hoá mới.
Thành lập uỷ ban chuyên trách chống những hiện tượng tiêu cực trong văn hoá đồi truỵ, lai căng, hủ tục ...bằng các hình thức thanh tra văn hoá. Uỷ ban đó phải có sự phối hợp và tham gia của ngành văn hoá, công an và các tổ chức đoàn thể khác.
Về xã hội
Thứ nhất: Xây dựng phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, gia đình văn hoá, làng văn hoá. Chúng ta đều biết, gia đình là nơi duy trì nòi giống và giáo dưỡng tình cảm của con người. Đặc biệt, gia đình là nơi duy trì gia phong cũng như nuôi dưỡng các giá trị văn hoá truyền thống khác của dân tộc.Vì vậy, việc xây dựng gia đình văn hoá là hết sức cần thiết. Nội dung của các tiêu chí xây dựng các gia đình văn hoá phải phản ánh đạo lý dân tộc. Ngoài việc dựa trên cơ sở tiêu chí mà Nghị quyết TW5 đưa ra thì cần cụ thể bằng những điểm sau:
- Gia đình hoà thuận, trên kính dưới nhường, giữ gìn gia phong, quan hệ tốt với xóm giềng, phát huy truyền thống "lá lành đùm lá rách"; "tối lửa tắt đèn có nhau".
- Nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là phổ cập giáo dục (THCS)
- Đảm bảo môi trường vệ sinh sạch sẽ; nhà cửa, nước sạch, nhà tắm, nhà vệ sinh.
- Ổn định và phát triển kinh tế gia đình bằng những việc làm lương thiện, khôi phục những ngành nghề truyền thống.
- Thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình (mỗi gia đình chỉ có 1 đến 2 con), tạo điều kiện cho các thành viên lao động, học tập rèn luyện tốt, chống lại những thói hư tật xấu, hủ tục, ...
- Chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng như quy ước của làng, địa phương...
Bên cạnh việc xây dựng gia đình văn hoá, cần xây dựng phong trào làng văn hoá để giáo dục, bồi dưỡng tính cộng đồng, tính tích cực chính trị - xã hội, tinh thần văn hoá và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, chủ nghĩa cá nhân có đất để phát triển. Vì vậy, việc xây dựng các phong trào văn hoá quần chúng, bảo tồn các di tích lịch sử văn hoá, xây dựng hương ước và làng văn hoá mới và các phong trào xã hội, đền ơn đáp nghĩa, từ thiện, xoá đói giảm nghèo,vv... có tác dụng bồi dưỡng tính cộng đồng cho con người và phát huy truyền thống đoàn kết cũng như tính nhân văn, lòng khoan dung cho họ, hướng họ đến với cái Thiện, cái Mỹ.
Cần nhân rộng kiểu thiết chế văn hoá có hiệu quả do phát huy được sức mạnh tổng hợp từ cơ sở như các hình thức câu lạc bộ "cụm văn hoá - thể thao" theo cụm dân cư. Nó sẽ là điều kiện thuận lợi cho sự chuyển biến mạnh mẽ trong lối sống cộng đồng ở một số đông các khu dân cư, cán bộ , công nhân...
Còn ở nông thôn, việc xây dựng hương ước cũng có ý nghĩa tương tự, song phải thực sự đề cao, chú trọng các phong tục tập quán địa phương để xây dựng đạo đức và lối sống mới; Cần tổ chức tốt các lễ hội mang tính truyền thống của từng địa phương
Thứ hai: Giữ gìn thuần phong mỹ tục và xây dựng nền phong hoá mới.
Thuần phong mỹ tục một khi được xây dựng tốt sẽ nuôi dưỡng tính thiện với tính chất là cái gốc của con người trong thời kinh tế thị trường và đồng thời nuôi dưỡng bản sắc văn hoá dân tộc với tính chất là cái gốc của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh nghiệm của Hàn Quốc và Nhật Bản là những nuớc có nhiều nét tương đồng với văn hoá nước ta có thể giúp giữ gìn được gia phong và những nét đẹp của văn hoá truyền thống như cách cư xử, xưng hô của các thành viên trong gia đình hoặc với người trên, người cao tuổi.
Cũng cần phải nghiên cứu, phân tích so sánh những phong tục cổ truyền trong giao tiếp xã hội, trong hội hè, trong kiến trúc với quan điểm thẩm mỹ hiện nay để kế thừa và phát huy nhằm duy trì và phát huy những gì là tốt đẹp.
Đồng thời, cần thẩm định lại những nét văn hoá từ bên ngoài thâm nhập nhằm tiếp thu những gì phù hợp với văn hoá, với quan điểm thẩm mỹ của người Việt nam. Ví dụ, hiện nay trong lễ phục của người Việt Nam chỉ phổ biến áo dài đối với nữ còn đối với nam thì hầu như chưa có. Có lẽ đây cũng là một điểm mà các nhà văn hoá cần nghiên cứu để thay đổi.
Bên cạnh, việc giữ gìn thuần phong mỹ tục cũng cần phải đánh giá đúng những nét mới phát sinh trong các tập tục để khẳng định cái đẹp chân chính, phù hợp và loại trừ những gì không phù hợp với văn hoá truyền thống, qua đó bổ sung thêm những giá trị mới cho văn hoá truyền thống.
Cần phải đưa ra những giải pháp cụ thể có tính chất khả thi như hình thành các văn bản quy ước có tính pháp lý về từng mặt, từng lĩnh vực của sinh hoạt văn hoá (hôn, tang, tế, hội). Có thể bằng biện pháp hành chính, pháp luật khắc phục, loại bỏ những yếu tố tiêu cực; điều chỉnh, sửa chữa những bất cập; khuyến khích phát huy những cái tốt, cái tích cực mới mẻ có tính sáng tạo.
Về giáo dục
- Giáo dục lẽ sống và lối sống: Đặt trọng tâm vào việc phát huy tinh thần yêu nước, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, hoài bão lập thân, lập nghiệp nhằm đưa đất nước sớm tình trạng kém phát triển như Đại hội X của Đảng yêu cầu. Cụ thể, nên thành lập các câu lạc bộ theo địa phương, theo đoàn thể quần chúng, theo địa vị nghiệp vụ, vv...
Tổ chức các buổi thảo luận, học tập gương điển hình về lẽ sống tiến bộ, nhất là của các anh hùng liệt sĩ, của những nhân vật tiêu biểu. Tổ chức thành lập thư viện, tủ sách, hoạt động báo chí, biểu diễn để giáo dục lẽ sống và lối sống.
Cải tiến nội dung và lề lối sinh hoạt các đoàn thể các tổ chức trong khối mặt trận Tổ quốc nhằm dùng nhân tố tiến bộ tích cực chế ngự nhân tố lạc hậu, tiêu cực.Điều đặc biệt quan trọng là các cá nhân là cán bộ các cấp, các đảng viên, các nhân sĩ phải tự giác thực hành biểu hiện lẽ sống theo tiêu chí, tiêu chuẩn cán bộ, đảng viên. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm khắc với tất cả các đối tượng (bất kể cấp nào, chức nào) làm trái với lẽ sống tiến bộ, chà đạp lên đạo đức truyền thống.
Tất cả đều phải quán triệt 3 khâu: Tư tưởng, tổ chức và hành động trong mọi mặt của các tổ chức, các ngành nghề, đoàn thể...
- Giáo dục lòng nhân ái, tính cộng đồng:
Việc giáo dục lòng nhân ái, tính cộng đồng sẽ thu được kết quả tốt nếu như tiến hành những biện pháp như:
Khẳng định, nêu cao gương tốt về lòng nhân ái, tính cộng đồng qua các hình thức sinh hoạt câu lạc bộ, phương tiện truyền thông đại chúng, qua họ tộc…Có hình thức động viên, khen thưởng kịp thời những người vật, những hành động tiêu biểu một cách thoả đáng. Hành pháp thật nghiêm minh và phải cương quyết không khoan nhượng, không hữu khuynh, mù quáng đối với những ai xúc phạm đến quyền của công dân, của cộng đồng; Lồng ghép nội dung này vào chương trình các môn học phổ thông (các môn khoa học xã hội), các hoạt động ngoại khoá trong nhà trường, đặc biệt, cần quan tâm hơn đến các môn lịch sử và giáo dục công dân trong nhà trường phổ thông
- Giáo dục truyền thống:
Chúng ta biết rằng, truyền thống bao giờ cũng tồn tại với hai mặt của nó cho nên phải tạo dư luận, dùng dư luận để phân tích, khẳng định, vận dụng, kế thừa, phát huy cái tốt, cái phù hợp và ngược lại để loại trừ cái xấu, cái ác.
Ngoài dư luận còn phải dùng đến các phương tiện thông tin đại chúng: Báo chí, phim ảnh, biểu diễn, truyền hình ... Ví dụ, tăng cường nghiên cứu viết sách lịch sử, sáng tác những kịch bản hay về lịch sử để dựng phim, bởi vì, đó là con đường trực tiếp nhất về giáo dục truyền thống. Đồng thời, tại các công sở, đường phố, hàng quán, nơi cộng cộng cần quy định cụ thể việc sử dụng ngôn ngữ, một nét quan trọng thể hiện sự tự tôn dân tộc (vì điều đầu tiên làm nên bản sắc của một dân tộc chính là ngôn ngữ). Vì vậy, cần phải dùng chữ Việt, sau đó mới dùng thêm ngôn ngữ khác vì hiện nay chúng ta thấy hàng trăm bảng, biển mà nếu người Việt Nam không biết tiếng Anh, tiếng Pháp thì không biết được đó là gì. Ở Trung Quốc, người ta sẵn sàng phiên âm ra tiếng Trung Quốc cả những mặt hàng nhập ngoại để mọi người dân dễ hiểu, đồng thời là thể hiện sự tự tôn cũng như tính giáo dục cao. Ví dụ: Cocacola được viết là “Khả khẩu khả lạc” (Vừa ngon vừa thích thú) chữ Cocacola viết nhỏ hơn ở phía dưới. Hoặc Pepsicola được viết là "Bách khẩu khả lạc" ....Đây cũng là một điều chúng ta cần học hỏi và tham khảo, dù là chuyện nhỏ nhưng nó lại mang ý nghĩa lớn.
Bên cạnh đó, để giáo dục truyền thống một cách có hiệu quả cần cải tiến một cách có định hướng các hương ước, tộc ước ... cần giữ cái gì, loại bỏ cái gì, cải thiện, bổ sung cái gì ? ...(bởi vì văn hoá Việt Nam là văn hoá cộng đồng làng xã, cộng đồng huyết thống, họ tộc).
Cần đưa việc giáo dục truyền thống vào nội dung giảng dạy của nhà trường. Việc giáo dục truyền thống phải được tiến hành thường xuyên nhằm giúp con người có sức đề kháng với những "căn bệnh" về vật chất và tinh thần mà mặt trái của cơ chế thị trường và toàn cầu hoá tạo ra. Đồng thời, cần khắc phục những mặt tiêu cực của di sản như thái độ độc đoán, gia trưởng ....
Về đầu tư
Việc xã hội hoá về đầu tư là phương châm cơ bản, lâu dài song trước mắt Nhà nước cần đầu tư hỗ trợ tập trung vào việc đầu tư xây dựng những giá trị vật thể và phi vật thể đóng vai trò định hướng được lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã hội như phim ảnh, công trình văn hoá - lịch sử quan trọng của Quốc gia, phong trào xây dựng "nếp sống văn minh, gia đình văn hoá" ...
Ví dụ như việc trùng tu, bảo tồn các di tích lịch sử; làm phim về lịch sử, in sách hoặc thi viết, thi tìm hiểu về lịch sử hay tìm hiểu văn hoá truyền thống trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, truyền hình ..)
Như vậy, phải qua giáo dục về văn hoá truyền thống để làm cho lớp trẻ "hiểu" và từ "hiểu" đến chỗ "cần" rồi phải "tự thân vận động". Nói cách khác, trang bị cho thế hệ trẻ những kiến thức về văn hoá truyền thống, giúp họ có ý thức để rồi họ tự ý thức về những điều cần làm với những giá trị quý báu của văn hoá truyền thống dân tộc../.
Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh hồ Hoàn KIếm và đền Ngọc Sơn
1. Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý
Trải qua 1.000 năm hình thành và phát triển, kể từ khi vua Lý Thái Tổ chọn khu đất Đại La bên cửa sông Tô Lịch làm nơi định đô cho muôn đời. Hà Nội đã chứng kiến sự thăng trầm của hầu hết các triều đại phong kiến Việt Nam từ Lý- Trần - Lê - Mạc - Nguyễn… kinh thành Thăng Long là nơi buôn bán, trung tâm văn hóa, giáo dục của cả miền Bắc.
Hà Nội hiện nay có tọa độ địa lý từ 20°53' đến 21°23' vĩ độ Bắc và 105°44' đến 106°02' kinh độ Đông, tiếp giáp với các tỉnh Thái Nguyên - Vĩnh Phúc ở phía Bắc; Hà Nam - Hòa Bình ở phía Nam; Bắc Giang - Bắc Ninh - Hưng Yên ở phía Đông và Hòa Bình- Phú Thọ ở phía Tây.
Thực hiện kết luận Hội nghị Trung ương 6 (khóa X) và Nghị quyết của Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3, số 15/2008/NQ-QH12, ngày 29 tháng 05 năm 2008 và Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 8 năm 2008, toàn bộ hệ thống chính trị của thành phố Hà Nội sau hợp nhất, mở rộng địa giới hành chính Thủ đô bao gồm: Thành phố Hà Nội, tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh - tỉnh Vĩnh Phúc và bốn xã thuộc huyện Lương Sơn - tỉnh Hòa Bình. Thủ đô Hà Nội sau khi được mở rộng có diện tích tự nhiên 334.470,02 ha, lớn gấp hơn 3 lần trước đây và đứng vào tốp 17 Thủ đô trên thế giới có diện tích rộng nhất; dân số tăng hơn gấp rưỡi, hơn 6,2 triệu người, hiện nay là hơn 7 triệu người; gồm 30 đơn vị hành chính cấp quận, huyện, thị xã, 577 xã, phường, thị trấn.
Địa hình
Hà Nội hiện nay vừa có núi, có đồi và địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông, trong đó đồng bằng chiếm tới ¾ diện tích tự nhiên của thành phố. Độ cao trung bình của Hà Nội từ 5 đến 20 mét so với mặt nước biển, các đồi núi cao đều tập trung ở phía Bắc và Tây. Các đỉnh cao nhất là Ba Vì 1.281 mét; Gia Dê 707 mét; Chân Chim 462 mét; Thanh Lanh 427 mét và Thiên Trù 378 mét…Khu vực nội đô có một số gò đồi thấp, như gò Đống Đa, núi Nùng.
Khu vực nội Thành và phụ cận là vùng trũng thấp trên nền đất yếu, mực nước sông Hồng về mùa lũ cao hơn mặt bằng Thành phố trung bình 4 - 5m. Hà Nội có nhiều hồ, đầm thuận lợi cho phát triển Thủy sản và du lịch, nhưng do thấp trũng nên khó khăn trong việc tiêu thoát nước nhanh, gây úng ngập cục bộ thường xuyên vào mùa mưa. Vùng đồi núi thấp và trung bình ở phía Bắc Hà Nội thuận lợi cho xây dựng, phát triển công nghiệp, lâm nghiệp và tổ chức nhiều loại hình du lịch.
Thủy văn
Hà Nội được hình thành từ châu thổ sông Hồng, nét đặc trưng của vùng địa lí thành phố Hà Nội là “Thành phố sông hồ” hay “Thành phố trong sông”. Nhờ các con sông lớn nhỏ đã chảy miệt mài hàng vạn năm đem phù sa về bồi đắp nên vùng châu thổ phì nhiêu này. Hiện nay, có 7 sông chảy qua Hà Nội: sông Hồng, sông Đuống, sông Đà, sông Nhuệ, sông Cầu, sông Đáy, sông Cà Lồ. Trong đó, đoạn sông Hồng chảy qua Hà Nội dài tới 163km (chiếm 1/3 chiều dài của con sông này chảy qua lãnh thổ Việt nam). Trong nội đô ngoài 2 con sông Tô Lịch và sông Kim ngưu còn có hệ thống hồ đầm là những đường tiêu thoát nước thải của Hà Nội.
Ở thế kỉ trước có trên 100 hồ lớn nhỏ, phần nhiều là hồ đầm tự nhiên, là vết tích của những khúc sông chết để lại một số hồ nhân tạo, cải tạo các cánh đồng lầy thụt thành hồ. Hiện nay, dù phần lớn đã bị san lấp lấy mặt bằng xây dựng, đến nay vẫn còn tới hàng trăm hồ đầm lớn nhỏ được phân bổ ở khắp các phường, xã của thủ đô Hà Nội. Nổi tiếng nhất là các hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây, Quảng Bá,Trúc Bạch, Thiền Quang, Bảy Mẫu, Thanh Nhàn, Linh Đàm, Yên Sở, Giảng Võ, Đồng Mô, Suối Hai…
Những hồ đầm này của Hà Nội không những là một kho nước lớn mà còn là hệ thống điều hòa nhiệt độ tự nhiên làm cho vùng đô thị nội thành giảm bớt sức hút nhiệt tỏa nóng của khối bê tông, sắt thép, nhựa đường và các hoạt động của các nhà máy… Hồ đầm của Hà Nội không những tạo ra cho thành phố khí hậu mát lành - tiểu khí hậu đô thị mà còn là những danh lam thắng cảnh, những vùng văn hóa đặc sắc của Thăng Long - Hà Nội.
Khí hậu
Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, khí hậu Hà Nội có đặc trưng nổi bật là gió mùa ẩm, nóng và mưa nhiều về mùa hè, lạnh và ít mưa về mùa đông; được chia thành bốn mùa rõ rệt trong năm: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mùa xuân bắt đầu vào tháng 2 (hay tháng giêng âm lịch) kéo dài đến tháng 4. Mùa hạ bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 8, nóng bức nhưng lại mưa nhiều. Mùa thu bắt đầu từ tháng 8 đến tháng 10, trời dịu mát, lá vàng rơi. Mùa đông bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 1 năm sau, thời tiết giá lạnh, khô hanh. Ranh giới phân chia bốn mùa chỉ có tính chất tương đối, vì Hà Nội có năm rét sớm, có năm rét muộn, có năm nóng kéo dài, nhiệt độ lên tới 40°C, có năm nhiệt độ xuống thấp dưới 5°C.
Hà Nội quanh năm tiếp nhận được lượng bức xạ mặt trời khá dồi dào. Tổng lượng bức xạ trung bình hàng năm khoảng 120 kcal/cm², nhiệt độ trung bình năm 24,9°C, độ ẩm trung bình 80 - 82%. Lượng mưa trung bình trên 1700mm/năm (khoảng 114 ngày mưa/năm).
Trong lịch sử phát triển, Hà Nội cũng đã nhiều lần trải qua các biến đổi bất thường của khí hậu - thời tiết. Tháng 5 năm 1926, Hà Nội chứng kiến một đợt nắng khủng khiếp có ngày nhiệt độ lên tới 42,8oC. Tháng 1 năm 1955, mùa đông giá buốt nhất trong lịch sử, Hà Nội sống trong cái giá lạnh xuống đến 2,7oC. Và gần đây nhất tháng 11 năm 2008, sau khi vừa mở rộng địa giới hành chính, Hà Nội hứng chịu một cơn mưa dữ dội chưa từng thấy. Hầu như tất cả các tuyến phố đều ngập chìm trong nước, lượng mưa lớn vượt quá mọi dự báo đã gây ra một trận lụt lịch sử ở Hà Nội, làm nhiều người chết, gây thiệt hại vật chất đáng kể.
Tài nguyên nước
Hệ thống sông, hồ Hà Nội thuộc hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, phân bố không đều giữa các vùng, có mật độ thay đổi trong phạm vi khá lớn 0,1 - 1,5 km/km2 (chỉ kể những sông tự nhiên có dòng chảy thường xuyên) và 0,67 - 1,6 km/km2 (kể cả kênh mương). Một trong những nét đặc trưng của địa hình Hà Nội là có nhiều hồ, đầm tự nhiên. Tuy nhiên, do yêu cầu đô thị hóa và cũng do thiếu quy hoạch, quản lý kém nên nhiều ao hồ đã bị san lấp để lấy đất xây dựng. Diện tích ao, hồ, đầm của Hà Nội hiện còn lại vào khoảng 3.600 ha. Có thể nói, hiếm có một Thành phố nào trên thế giới có nhiều hồ, đầm như ở Hà Nội. Hồ, đầm của Hà Nội đã tạo nên nhiều cảnh quan sinh thái đẹp cho Thành phố, điều hòa tiểu khí hậu khu vực, rất có giá trị đối với du lịch, giải trí và nghỉ dưỡng
Hà Nội không phải là vùng dồi dào nước mặt, nhưng có lượng nước khổng lồ chảy qua sông Hồng, sông Cầu, sông Cà Lồ có thể khai thác sử dụng.
Tài nguyên đất
Hà Nội có tổng diện tích đất tự nhiên 92.097 ha, trong đó, diện tích đất nông nghiệp chiếm 47,4%, diện tích đất lâm nghiệp chiếm 8,6%, đất ở chiếm 19,26%.
Xuất phát từ yêu cầu sử dụng đất của Thủ đô Hà Nội, có 2 nhóm đất có ý nghĩa lớn nhất đối với phát triển kinh tế - xã hội, đó là đất nông lâm nghiệp và đất xây dựng. Phần lớn diện tích đất đai ở nội Thành Hà Nội được đánh giá là không thuận lợi cho xây dựng do có hiện tượng tích nước ngầm, nước mặt, sụt lún, nứt đất, sạt lở, trôi trượt dọc sông, cấu tạo nền đất yếu.
Tài nguyên sinh vật
Hà Nội có một số kiểu hệ sinh thái đặc trưng như hệ sinh thái vùng gò đồi ở Sóc Sơn và hệ sinh thái hồ, điển hình là hồ Tây, hệ sinh thái nông nghiệp, hệ sinh thái đô thị... Trong đó, các kiểu hệ sinh thái rừng vùng gò đồi và hồ có tính đa dạng sinh học cao hơn cả.
Khu hệ thực vật, động vật trong các hệ sinh thái đặc trưng của Hà Nội khá phong phú và đa dạng. Cho đến nay, đã thống kê và xác định có 655 loài thực vật bậc cao, 569 loài nấm lớn (thực vật bậc thấp), 595 loài côn trùng, 61 loài động vật đất, 33 loài bò sát-ếch nhái, 103 loài chim, 40 loài thú, 476 loài thực vật nổi, 125 loài động vật KXS Thủy sinh, 118 loài cá, 48 loài cá cảnh nhập nội. Trong số các loài sinh vật, nhiều loài có giá trị kinh tế, một số loài quý hiếm có tên trong Sách Đỏ Việt Nam.
Hà Nội hiện có 48 công viên, vườn hoa, vườn dạo ở 7 quận nội Thành với tổng diện tích là 138 ha và 377 ha thảm cỏ. Ngoài vườn hoa, công viên, Hà Nội còn có hàng vạn cây bóng mát thuộc 67 loại thực vật trồng trên các đường phố, trong đó có 25 loài được trồng tương đối phổ biến như bằng lăng, sữa, phượng vĩ, săng đào, lim xẹt, xà cừ, sấu, muồng đen, sao đen, long nhãn, me...
Các làng hoa và cây cảnh ở Hà Nội như Nghi Tàm, Ngọc Hà, Quảng Bá, Láng, Nhật Tân,v.v... đã có truyền thống từ lâu đời và khá nổi tiếng gần đây, nhiều làng hoa và cây cảnh được hình Thành thêm ở các vùng ven đô như Vĩnh Tuy, Tây Tựu, và một số xã ở Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn cùng với các loài được chuyển từ các tỉnh phía Nam hoặc hội nhập từ nước ngoài làm cho tài nguyên sinh vật của Hà Nội ngày càng đa dạng và phong phú.
câu D.
Biểu hiện đúng của việc tự hào về truyền thống gia đình dòng họ:
Tích cực tìm hiểu lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
Thích xem phim, kịch, nghe nhạc của Việt Nam.
Sưu tầm những món ăn, trang phục dân tộc độc đáo.
Tìm hiểu, giới thiệu với mọi người về các lễ hội truyền thống của dân tộc.
Trong những hành vi dưới đây, hành vi nào góp phần giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ.
refer
Bình Phước là một tỉnh miền núi ở phía Tây của vùng Đông Nam Bộ, phía Đông giáp tỉnh Lâm Đồng và Đồng Nai, phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và Campuchia, phía Nam giáp tỉnh Bình Dương và phía Bắc tỉnh Đắk Lắk và Campuchia. 2. ... Nằm trong vùng dồi dào nắng. Tổng số giờ nắng trong năm từ 2400 - 2500 giờ.
Tham khảo
Vị trí địa lý: Tỉnh Bình Phước là tỉnh miền núi, nằm ở toạ độ địa lý 11,32 vĩ độ Bắc, 106,54 kinh độ Ðông, cách thủ đô Hà Nội 1.840 km; bao gồm 1 thị xã, 5 huyện và 75 xã (phường, thị trấn). Phía Ðông giáp tỉnh Lâm Ðồng và Ðồng Nai, phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và Campuchia, phía Nam giáp tỉnh Bình Dương và phía Bắc giáp tỉnh Ðắc Lắc và Campuchia. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 6.856 km2, chiếm 2,07% tổng diện tích tự nhiên cả nước. Các đường giao thông quan trọng đi qua địa bàn như đường quốc lộ 13 và quốc lộ 14. Hệ thống sông suối của tỉnh Bình Phước tương đối nhiều với mật độ 0,7 - 0,8km/km2 bao gồm: Sông Lanh, sông Dam, sông Ðak Huyt, sông Sa Cát, sông Bà Vá, sông Nước Trong, sông Cam, sông Bé, sông Ðồng Nai và sông Mã Ðà.
Tham Khảo:
- Vị trí địa lí: Châu Mĩ nằm hoàn toàn ở nửa cầu tây, tiếp giáp với ba đại dương lớn.
- Giới hạn: Châu Mĩ rộng khoảng 42 triệu km2 , nằm trải dài trên nhiều vĩ độ, từ vùng cực Bắc đến tận vùng cực Nam.
đại phương em có Vịnh Hạ Long là một vịnh bao gồm các hòn đảo nhỏ. Đó là ở tỉnh Quảng Ninh. Nó có nhiều hòn đảo và hang động. Các hòn đảo được đặt tên theo những thứ xung quanh chúng ta! Trong vịnh bạn có thể tìm thấy rất nhiều thứ tuyệt vời. Tôi nghĩ rằng bạn phải đi thuyền để bay và bạn phải đi với gia đình của bạn. Tuần Châu là hòn đảo lớn nhất ở vịnh Hạ Long. Ở đó bạn có thể thưởng thức các món ăn tuyệt vời ở vịnh Hạ Long. Vịnh Hạ Long ở Việt Nam là kỳ quan tự nhiên đẹp nhất.
-Vị trí địa lý: Tháp Bánh Ít nằm ở xã Phước Hòa, huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, cách thành phố Quảng Ngãi khoảng 50 km về phía đông nam.
-Mô tả di tích: Xây dựng vào thế kỷ 11, di tích gồm ba tháp chính với kiến trúc Chăm Pa và các họa tiết chạm khắc tinh xảo.
-Giá trị lịch sử: Là di sản văn hóa quốc gia, Tháp Bánh Ít thể hiện nền văn minh Chăm Pa và tôn thờ các vị thần Hindu.
Việc làm của em để giữ gìn di tích1.Tuyên truyền về giá trị di tích cho mọi người.
2.Tham gia bảo tồn trong các hoạt động địa phương.
3.Khuyến khích du lịch đến thăm Tháp Bánh Ít.
4.Tìm hiểu về lịch sử văn hóa Chăm Pa.