K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

27 tháng 4 2023

1. 

- Đoạn thơ được trích từ văn bản: ' Ông đồ'

- Tác giả: Vũ Đình Liên

2.

- Thể thơ: Ngũ ngôn

3. 

-Phép tu từ: so sánh

- Tác dụng: Cho ta thấy được nét chữ vô cùng của ông đồ, bay bổng. Ca ngợi ông đồ có hoa tay vô cùng đẹp khi ông viết chữ.

4.

- Nội dụng: Nói lên hình ảnh của ông đồ vào những ngày Tết.

25 tháng 10 2016

Nghệ thuật

- Từ "nhưng" bắt đầu khổ thơ như 1 cánh cửa khép lại thời kì hoàng kim, mở ra 1 thời kì khác với bao thay đổi

- Từ "mỗi" lặp lại 2 lần trong dòng thơ đầu, nhịp thơ chậm gợi bước đi của thời gian tring sự mòn mỏi, suy thoái "mỗi năm mỗi vắng", từ "vắng" khép lại câu thơ như 1 sự hụt hẫng, chơi vơi

- Câu hỏi tu từ: "Người thuê viết nay đâu?" -> 1 câu hỏi không có lòi đáp vừa khắc họa cảnh buồn vắng thê lương của ông đồ khi khách thuê chữ chẳng còn, vừa thể hiện sự ngậm ngùi, tiếc nuối của tác giả

- 2 câu thơ thứ 3 và 4 là 2 câu thơ tả cảnh ngụ tình vô cùng đặc sắc, tác giả đã mượn đồ vật để gửi gắm tâm sự của con người

 

Chúc bạn học tốt ^^

25 tháng 10 2016

Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Hai từ “mỗi” điệp lại trong một câu thơ diễn tả bước đi cảu thời gian.Nếu như trước đây : “Mỗi năm hoa đào nở” lại đưa đến cho ông đồ già “bao nhiêu người thuê viết” thì giờ đây “mỗi năm” lại “mỗi vắng”. Nhịp đi của thời gian bao hàm cả sự mài mòn, suy thoái.Thanh “sắc” kết hợp với âm “ắng” khép lại câu thứ nhất như một sự hẫng hụt, chênh chao, như đôi mắt nhìn lên đầy băn khoăn. Để rồi một cách tự nhiên, câu thứ hai phải bật ra thành câu hỏi: Những người thuê ông đồ viết chữ khi xưa nay đâu cả rồi? Câu hỏi buông ra không bao giờ có lời đáp nên cứ chạp chớn, cứ ám ảnh mãi. Người thuê viết không còn, giấy đỏ, mực thơm không được dùng đến nên:
Giáy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Nỗi buồn của con người khiến các vật vô tri vô giác cũng như buồn lây. Mực ssầu tủi đọng lại trong nghiên, giấy điều phôi pha buồn không muốn thắm.Biện pháp nhân hoá góp phần nhấn mạnh tâm trạng của con người. Bởi chẳng phải mực và giấy là những đồ vật gắn bó thân thiết nhất với ông đồ hay sao?

11 tháng 2 2023

3. Nghĩa:

- Viết lên một cách đẹp đẽ, thành thục.

4. BPTT so sánh: "....như..."

Tác dụng:

- Giúp hành động của ông đồ già trở được miêu tả rõ ràng, chi tiết.

- Câu thơ thêm phần hấp dẫn, mang tính gợi cảm.

5.

Ý nghĩa: thể hiện cái đẹp của văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam.

25 tháng 10 2016

Theo như mình nghĩ: Nét buồn thầm kín mà tác giả thể hiện qua khổ 2 đó là hình ảnh "Bao nhiêu người thuê viết"
Phân tích: Các ông đồ học chữ thánh hiền để dạy học, để vào dịp Tết người ta sẽ xin chữ của ông vì xưa kia có truyền thống chơi câu đối vào ngày Tết, để hưởng 1 cuộc sống không giàu về vật chất nhưng cao sang về tinh thần. Nhưng cũng vì nghèo, họ phải ra hè phố để bán chữ, để đổi lấy miếng cơm manh áo. Đây là dấu hiệu của sự suy sụp, sụp đổ của nền Hán học, chữ Nho

Chúc bạn học tốt ^^
 

 

 

25 tháng 10 2016

tks bn rất nhìu yeu

Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:Mỗi năm hoa đào nởLại thấy ông đồ giàBày mực tàu giấy đỏBên phố đông người qua Bao nhiêu người thuê viếtTấm tắc ngợi khen tàiHoa tay thảo những nétNhư phượng múa rồng bay          (Ngữ văn 8, tập 2) Câu 1: Đoạn thơ trên được trích trong bài thơ nào? Tác giả là ai?Câu2:  Câu thơ “Hoa tay thảo những nét/Như phượng múa...
Đọc tiếp

Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

Mỗi năm hoa đào nở

Lại thấy ông đồ già

Bày mực tàu giấy đỏ

Bên phố đông người qua

 

Bao nhiêu người thuê viết

Tấm tắc ngợi khen tài

Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay

          (Ngữ văn 8, tập 2)

 

Câu 1: Đoạn thơ trên được trích trong bài thơ nào? Tác giả là ai?

Câu2:  Câu thơ “Hoa tay thảo những nét/Như phượng múa rồng bay”sử dụng biện pháp tu từ nào ? Tác dụng?

Câu 3: Đoạn thơ cho ta hiểu gì về một nét đẹp trong phong tục của dân tộc?

Câu 4: Ngày nay phong tục chơi chữ còn được duy trì trong cuộc sống hiện đại không? Chúng ta có nên duy trì phong tục đó không? Vì sao

Câu 5: Trong  hai khổ thơ trên, tuy ta thấy đó là một khung cảnh vui vẻ, nhộn nhịp nhưng cũng nhận thấy một nỗi buồn thầm kín. Hãy chỉ ra và phân tích.

 

2
20 tháng 2 2021

Câu 1: Trích trong bài thơ" Ông Đồ " , Tác giả :  Vũ Đình Liên

Câu 2:  Câu thơ “Hoa tay thảo những nét/Như phượng múa rồng bay”sử dụng biện pháp tu từ so sánh

Tác dụng : gợi hình giúp cho việc miêu tả sự vật, sự việc được cụ thể, sinh động hơn

Câu 3:  Đoạn thơ cho ta hiểu gì về một nét đẹp mỗi dịp Tết đến, ông đồ thường được nhiều người thuê viết chữ, câu đối để trang trí trong nhà. 

Câu 4: Có chứ , và nên duy trì phong tục vì chúng ta cần nâng niu và trân trọng chữ khi từ bao đời nay, những tấm hoành phi, câu đối trong những khu vực đình chùa, miếu mạo hay trong mỗi gia đình vẫn được sử dụng và luôn được đặt ở những nơi trang trọng và linh thiêng nhất. Vai trò của ông đồ hết sức to lớn khi vừa dạy chữ, vừa truyền trao nghệ thuật thư pháp - một hình thức văn hoá xem trọng chữ nghĩa của thánh hiền.

Câu 5: Trong  hai khổ thơ trên, tuy ta thấy đó là một khung cảnh vui vẻ, nhộn nhịp nhưng cũng nhận thấy một nỗi buồn thầm kín. Hãy chỉ ra và phân tích.(hơi sai bởi vì từ câu 3,4 mới có đoạn buồn )

21 tháng 2 2021

C1

-Bài thơ Ông đồ

-Tác giả:Vũ Đình Liên

C2:biện pháp so sánh

ss ''hoa tay'' với ''phương múa rồng bay''

=>cho thấy nét chữ rất đẹp,làm cho sự vật được sinh động và gợi hình,gợi cảm hơn

3 tháng 2 2021

Nội dung : Hình ảnh ông đồ thời xưa-thời hoàng kim của ông đồ

Nội dung : Hình ảnh ông đồ với cây đào thời hoàng kim, thịnh vượng.

13 tháng 5 2019

Câu 1: ông đồ có nét chữ đẹp, mềm mại như rồng múa phượng bay

Câu 2:

Tham khảo:

Bao nhiêu người thuê viết

Tấm tắc ngợi khen tài

“Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay”.

Ông đồ xuất hiện khi hoa đào nở, báo hiệu một năm mới đã về. “Mỗi năm… lại thấy”, cấu trúc câu như vậy cho ta thấy điều đó như môt quy luật, đã thành nếp. Tết đến, xuân về, ông đồ xuất hiện với mực tàu, giấy đỏ – những công cụ nghề nghiệp không thể thiếu được cho nghệ thuật viết thư pháp, cho chữ của ông vào những ngày Tết. Dường như, giữa phố đông người, ồn ào tấp nập vào những ngày đó, thiếu vắng bóng dáng ông đồ là thiếu đi cả không khí đặc biệt, trang trọng của ngày lễ linh thiêng này. Màu mực tàu, giấy đỏ của ông bên hè phố đông người như dấy lên cái không khí ấm cúng của những ngày Tết, mang lại nét hương vị cổ truyền độc đáo của dân tộc.

Ông đồ xuất hiện là tâm điểm của mọi sự chú ý. Mọi người thuê ông viết chữ, họ ngợi khen tài năng của ông : “Hoa tay thảo những nét – Như phượng múa rồng bay”. Chỉ với hai câu thơ thôi, nhà thơ đã bộc lộ rõ tài năng viết chữ của ông. Những nét chữ tinh tế, tài hoa, điêu luyện trong nghệ thuật viết thư pháp. Bốn câu thơ của khổ thơ thứ hai, ta thấy ông đồ được mọi người quý trọng bởi tài nãng tuyệt vời. Hai khổ thơ đầu nhà thơ tạc lên hình ảnh ông đồ trong những năm nho học còn thịnh hành. Chơi chữ ngày Tết còn là thú chơi tao nhã và phổ biến của nhân dân ta. Đấy là dấu hiệu của vẻ đẹp văn hoá một thời, là sự tôn vinh giá trị văn hoá cổ truyền.

Nhung dường như, tất cả chỉ là sự kể lại, miêu tả những điều đã xảy ra trong quá khứ của dân tộc. Bởi ngay khổ thơ kế tiếp, đã là sự thay đổi đến chóng mặt. Thời gian lặp lại mà cuộc đời không hề lặp lại:

Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu ?

Giấy đỏ buồn không thắm ;

Mực đọng trong nghiên sầu….

Câu thơ đầu tiên của khổ thơ thứ ba này như một chiếc bản lề xoay đổi thời thế. “Nhưng mỗi năm mỗi vắng” chỉ một câu thơ đơn giản thôi vậy mà trong nó có biết bao biến cố, sự kiện đã xảy ra và có những cái đã ra đi không bao giờ trở lại nữa. Từ “nhưng” đứng đầu, xác định một cách chắc nịch cuộc đời và thời thế đã thay đổi. Tất cả không còn như hai khổ thơ đầu tiên. Hai từ “mỗi” lặp lại trong một câu thơ năm chữ như không chỉ gõ nhịp cho bước suy tàn của thời gian mà còn gợi được cả cái không gian như vắng lặng, cô tịch. Câu hỏi vô định “Người thuê viết nay đâu ?” như một sự bất ngờ đến đau lòng của tác giả. Còn người thuê viết không đơn giản chỉ là còn trên đời một nghệ thuật viết chữ, được coi là nét đẹp truyền thống của dân tộc mà nó còn là câu chuyện tri âm, lòng ngưỡng mộ nhân tài. Hai câu thơ tiếp theo là biểu hiện sâu sắc nhất cho một câu chuyện đang bị người ta đẩy vào quên lãng, ghẻ lạnh :

Giấy đỏ buồn không thắm ;

Mực đọng trong nghiên sầu…

Hai câu thơ khiến người đọc lặng người. Động từ cảm giác “buồn” và “đọng” trong hai câu thơ này là những động từ chỉ trạng thái tĩnh lặng, không còn sức sống. “Giấy đỏ” và “nghiên mực” là những công cụ để ông đồ thể hiện nghệ thuật thư pháp của mình vào những ngày Tết. Nhưng khi còn duyên thì giấy thắm, mực đượm, hết duyên giấy mực đều tàn phai. Tâm trạng của con người đã lây lan sang mọi vật. Một chữ “buồn” đứng giữa câu thơ nó như kéo cả bài thơ xuống một tâm trạng không thể cất lên được. Các từ ngữ : vắng, buồn, đọng, không thắm, sầu khắc hoạ rất rõ sự tàn lụi, buồn bã của sự sống. Dấu ba chấm cuối khổ thơ như một nốt nhạc trầm lắng. Ông đồ bị rơi vào quên lãng, vô tình bởi một thị hiếu đã chết, một phong tục bị bỏ quên, bởi sự vô cảm của người đời

16 tháng 5 2019

Câu 1: ông đồ có nét chữ đẹp, mềm mại như rồng múa phượng bay

Câu 2:

Tham khảo:

Bao nhiêu người thuê viết

Tấm tắc ngợi khen tài

“Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay”.

Ông đồ xuất hiện khi hoa đào nở, báo hiệu một năm mới đã về. “Mỗi năm… lại thấy”, cấu trúc câu như vậy cho ta thấy điều đó như môt quy luật, đã thành nếp. Tết đến, xuân về, ông đồ xuất hiện với mực tàu, giấy đỏ – những công cụ nghề nghiệp không thể thiếu được cho nghệ thuật viết thư pháp, cho chữ của ông vào những ngày Tết. Dường như, giữa phố đông người, ồn ào tấp nập vào những ngày đó, thiếu vắng bóng dáng ông đồ là thiếu đi cả không khí đặc biệt, trang trọng của ngày lễ linh thiêng này. Màu mực tàu, giấy đỏ của ông bên hè phố đông người như dấy lên cái không khí ấm cúng của những ngày Tết, mang lại nét hương vị cổ truyền độc đáo của dân tộc.

Ông đồ xuất hiện là tâm điểm của mọi sự chú ý. Mọi người thuê ông viết chữ, họ ngợi khen tài năng của ông : “Hoa tay thảo những nét – Như phượng múa rồng bay”. Chỉ với hai câu thơ thôi, nhà thơ đã bộc lộ rõ tài năng viết chữ của ông. Những nét chữ tinh tế, tài hoa, điêu luyện trong nghệ thuật viết thư pháp. Bốn câu thơ của khổ thơ thứ hai, ta thấy ông đồ được mọi người quý trọng bởi tài nãng tuyệt vời. Hai khổ thơ đầu nhà thơ tạc lên hình ảnh ông đồ trong những năm nho học còn thịnh hành. Chơi chữ ngày Tết còn là thú chơi tao nhã và phổ biến của nhân dân ta. Đấy là dấu hiệu của vẻ đẹp văn hoá một thời, là sự tôn vinh giá trị văn hoá cổ truyền.

Nhung dường như, tất cả chỉ là sự kể lại, miêu tả những điều đã xảy ra trong quá khứ của dân tộc. Bởi ngay khổ thơ kế tiếp, đã là sự thay đổi đến chóng mặt. Thời gian lặp lại mà cuộc đời không hề lặp lại:

Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu ?

Giấy đỏ buồn không thắm ;

Mực đọng trong nghiên sầu….

Câu thơ đầu tiên của khổ thơ thứ ba này như một chiếc bản lề xoay đổi thời thế. “Nhưng mỗi năm mỗi vắng” chỉ một câu thơ đơn giản thôi vậy mà trong nó có biết bao biến cố, sự kiện đã xảy ra và có những cái đã ra đi không bao giờ trở lại nữa. Từ “nhưng” đứng đầu, xác định một cách chắc nịch cuộc đời và thời thế đã thay đổi. Tất cả không còn như hai khổ thơ đầu tiên. Hai từ “mỗi” lặp lại trong một câu thơ năm chữ như không chỉ gõ nhịp cho bước suy tàn của thời gian mà còn gợi được cả cái không gian như vắng lặng, cô tịch. Câu hỏi vô định “Người thuê viết nay đâu ?” như một sự bất ngờ đến đau lòng của tác giả. Còn người thuê viết không đơn giản chỉ là còn trên đời một nghệ thuật viết chữ, được coi là nét đẹp truyền thống của dân tộc mà nó còn là câu chuyện tri âm, lòng ngưỡng mộ nhân tài. Hai câu thơ tiếp theo là biểu hiện sâu sắc nhất cho một câu chuyện đang bị người ta đẩy vào quên lãng, ghẻ lạnh :

Giấy đỏ buồn không thắm ;

Mực đọng trong nghiên sầu…

Hai câu thơ khiến người đọc lặng người. Động từ cảm giác “buồn” và “đọng” trong hai câu thơ này là những động từ chỉ trạng thái tĩnh lặng, không còn sức sống. “Giấy đỏ” và “nghiên mực” là những công cụ để ông đồ thể hiện nghệ thuật thư pháp của mình vào những ngày Tết. Nhưng khi còn duyên thì giấy thắm, mực đượm, hết duyên giấy mực đều tàn phai. Tâm trạng của con người đã lây lan sang mọi vật. Một chữ “buồn” đứng giữa câu thơ nó như kéo cả bài thơ xuống một tâm trạng không thể cất lên được. Các từ ngữ : vắng, buồn, đọng, không thắm, sầu khắc hoạ rất rõ sự tàn lụi, buồn bã của sự sống. Dấu ba chấm cuối khổ thơ như một nốt nhạc trầm lắng. Ông đồ bị rơi vào quên lãng, vô tình bởi một thị hiếu đã chết, một phong tục bị bỏ quên, bởi sự vô cảm của người đời