
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


Qua lời giải thích của Tô Hiến Thành, em có suy nghĩ ông là người rất chính trực, ngay thẳng, không đặt lợi ích cá nhân lên lợi ích quốc gia.

Khi Tô Hiến Thành lâm bệnh nặng, Đỗ thái hậu và vua hỏi ông nếu ông mất thì ai sẽ là người thay ông. Ông đã đề nghị gián nghị đại phu Trần Trung Tá.

Tiểu sử Theo Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam, Tô Hiến Thành sinh ngày 22 tháng 1 năm Nhâm Ngọ (11 tháng 2 năm 1102) và mất ngày 12 tháng 6 năm Kỷ Hợi (17 tháng 7 năm 1179). Ông sinh ra ở xóm Lẻ, hương Ô Diên, huyện Vĩnh Khang, thành Thăng Long, nay là xóm Lẻ, thôn Hạ Mỗ, xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng, Hà Nội).
Tham khảo

1.Tô Hiến Thành là 1 người chính trực
2.Tô Hiến Thành sinh năm 1102
3.Tô Hiến Thành sinh ra ở Đan Phượng(Hà Nội)
1.Tô Hiến Thành là 1 người chính trực và ngay thẳng
2.Tô Hiến Thành sinh vào năm 1102
3.Tô Hiến Thành sinh ra ở Đan Phượng thuộc Hà Nội

Tô Hiến Thành giải thích nếu cần người hầu hạ giỏi thì cử Vũ Tán Đường còn người tài ba giúp nước thì cử Trần Trung Tá.

các bạn trả lời nhanh hộ mình với nhé. sáng mai mình đi học rồi

Trong những câu chuyện đã học, em thích nhất là câu chuyện Cây khế.
Cây khế là một câu chuyện cổ tích của nước ta mang trong mình bài học ý nghĩa. Chuyện kể về hai anh em ruột nhưng có tính cách trái ngược nhau. Người anh tham lam, lười biếng bao nhiêu thì người em hiền lành, chăm chỉ bấy nhiêu.
Sau khi cha mất, người anh chia cho em mình một cây khế già và một túp lều tranh rồi lấy hết gia sản. Người em ở lều tranh chăm chỉ làm lụng mỗi ngày và chăm sóc cây khế. Năm đó khế ra trái rất sai và ngọt nên có chim lạ đến ăn. Thấy người em than thở vất vả, chim hứa ăn khế sẽ trả vàng. Và chở người em ra đảo lấy vàng về. Nhờ đó, người em trở nên giàu sang. Biết chuyện, người anh xin đổi gia tài lấy cây khế của em, rồi bắt chước em than thở với chim. Tuy nhiên do tham lam, hắn may cái túi lớn gấp bốn lần chim dặn và lấy quá nhiều vàng khiến chim không chở nổi. Trên đường về lại gặp bão lớn, thế là hắn cùng số vàng đó rơi xuống biển sâu.
Câu chuyện đã dạy cho em bài học về lòng trung thực và sự chăm chỉ trong cuộc sống. Nếu có tính tham lam, gian dối thì sẽ có kết thúc bi kịch như người anh mà thôi.

Sự sáng tạo khoa học của Lương Thế Vinh được truyền khẩu qua câu chuyện ông tiếp đón sứ nhà Minh là Chu Hy. Hy đã nghe nói về Lương Thế Vinh, không những nổi tiếng về văn chương âm nhạc, mà còn tinh thông toán học, nên thách đố Vinh cân một con voi. Lương Thế Vinh đưa voi lên một chiếc thuyền rồi đánh dấu mép nước bên thuyền, sau đó dắt voi lên. Tiếp theo, ông ra lệnh đổ đá hộc xuống thuyền, cho đến lúc thuyền chìm xuống đến đúng dấu cũ. Việc còn lại là đưa từng viên đá lên cân và cộng kết quả. Chu Hy thán phục ông nhưng tiếp tục đố ông đo bề dày của một tờ giấy xé ra từ một quyển sách. Khi nghe ông nói chỉ cần đo bề dày cả cuốn sách rồi chia đều cho số tờ là ra ngay kết quả, Chu Hy ngửa mặt lên trời than: "Nước Nam quả có lắm người tài!".
Nhớ tặng cho chị nha em!

Em rất thích đọc và nghe kể những câu chuyện cổ tích. Điều thú vị nhất là từ những chi tiết hoang đường, kì ảo tạo nên sự hấp dẫn lạ lùng của câu chuyện.Trong kho tang truyện cổ tích dân gian Việt Nam, có rất nhiều nhân vật quen thuộc, mỗi nhân vật cho ta một bài học cuộc sống thật sâu sắc. Nhưng nhân vật em thích, ấn tượng nhất chính là ông Tiên (Bụt), đại diện cho sự công bằng trong xã hội. Ông Tiên thường là những vị thần đem lại hạnh phúc cho người nghèo khó, tốt bụng và trừng phạt những kẻ độc ác, xấu xa.
Theo trí tưởng tượng của em, Tiên ông là một ông lão quắc thước, râu tóc bạc phơ, trán cao, da dẻ hồng hào, mắt sáng, miệng tươi, dáng điệu khoan thai.Trang phục ông mặc thường mang màu trắng. Ông thường cầm trên tay một chiếc gậy đầu rồng hoặc đơn giản chỉ là thanh trúc vàng óng ả. Bao quanh người ông là một làn khói mỏng mờ ảo và những làn ánh sáng lấp lánh. Ông còn sở hữu một giọng nói trầm ấm khác thường, giọng nói đó đã an ủi biết bao con người khôn khổ trong bước đường cùng.
Mỗi khi ông Tiên hiện ra là một người tốt được giúp đỡ. Khi thì ông giúp cô Tấm có được quần áo đẹp để đi dự dạ hội, khi lại giúp anh Khoai kiếm được cây tre trăm đốt theo lời phú ông. Tiên ông chính là nơi bám víu cuối cùng của những con người chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội xưa. Đau đớn trước số phận của mình, họ thường viện vào thần tiên để thể hiện ước mơ và khát khao hạnh phúc.Tiên ông không chỉ là nhân vật cứa giúp người nghèo mà còn là nhân vật đại diện cho lẽ công bằng, cho quan niệm: “Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo” của nhân dân ta. Trước những kẻ xấu xa, mưu mô và thủ đoạn ông thường thẳng tay trừng trị.
Còn đối với những người hiên lành, tốt bụng thì lại được đền đáp xứng đáng. Có lần, vào buổi trưa em nằm trên chiếc võng dưới bụi tre, sau hè nhà ngoại đọc truyện. Những cơn gió mát đưa em chìm vào giấc ngủ. Một vầng hào quang chói lọi làm em hoa cả mắt. Trước mặt em là một cụ già khoảng tuổi ông ngoại em. Râu tóc bạc phơ, cưỡi làn mây trắng. Tay cầm cây gậy phép. Trang phục của ông toàn màu trắng.
Đưa đôi mắt hiền từ nhìn em và nói với giọng trầm ấm, vang xa :“Ta là ông Bụt trong các truyện cổ tích đây”. Em tự hỏi …Sao con được gặp Bụt nhỉ? Trong truyện cổ tích khi nào con người gặp khó khăn Bụt mới hiện ra giúp đỡ. Mà con có chuyện gì khó khăn đâu? Thật là kì lạ!? Em đang suy nghĩ miên man… thì bỗng Bụt cười to, xoa đầu em và nói: ”Con được gặp ta là do con bấy lâu nay ngoan ngoãn, học giỏi, làm vừa lòng cha mẹ, ai cũng khen nên ta đến để thưởng cho con một món quà.
Ông bụt liền chĩa chiếc gậy phép vào người em. Từ chiếc gậy tuôn ra bao nhiêu là những ngôi sao nhỏ. Những ngôi sao ấy bay quanh người em. Những ngôi sao ấy bay tới đâu, em lại có cảm giác lâng lâng đến đấy.Bỗng chú cún con tinh nghịch liếm vào chân em giật mình tỉnh giấc, Ông bụt bất ngờ biến mất. Thì ra đó chỉ là một giấc mơ.Tỉnh dậy rồi mà em vẫn còn luyến tiếc giấc mơ đó…” không biết quà ông Bụt cho mình là gì nhỉ?”.
Ông Tiên trong truyện cổ tích Việt Nam luôn luôn đại diện cho lẽ phải, cho những con người yếu đuối trong xã hội. Chính bởi vậy mà hàng ngàn năm nay trẻ em vẫn mong ước một lần được gặp ông Tiên ban cho phép màu. Và em cũng rất mong như thế.

- Vị ngữ là các tính từ, cụm tính từ :
+ thật im lìm
+ trầm ngâm
+ sôi nổi
- Vị ngữ là động từ, cụm động từ :
+ không vỗ sóng dồn dập vào bờ như hồi chiều.
+ vẫn trò chuyện
+ mới đưa ra một nhận xét dè dặt.
Vị ngữ là các tính từ,cụm tính từ Vị ngữ là động từ,cụm tính từ thật im lìm,trầm ngâm, sôi nổi, Thôi không vỗ sóng dồn dập vào bờ như hồi chiều,vẫn trò chuyện,mới đưa ra một nhận xét dè dặt
Có gì sai mong bạn thông cảm!Mk k chắc lắm!
**Tô Hiến Thành – Vị quan trung nghĩa của triều Lý**
Tô Hiến Thành (1102–1179) là một trong những danh thần xuất sắc của triều đại nhà Lý, nổi tiếng với tài năng và lòng trung nghĩa. Ông sinh ra tại làng Hạ Mỗ, nay thuộc huyện Đan Phượng, Hà Nội, trong một gia đình có truyền thống học vấn. Từ nhỏ, ông đã thể hiện trí thông minh và khả năng xuất chúng cả về văn lẫn võ. Trong suốt sự nghiệp, Tô Hiến Thành đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước, đặc biệt trong thời kỳ vua Lý Anh Tông trị vì.
Với tư cách là Thái úy – chức quan võ cao nhất triều đình, ông đã chỉ huy quân đội dẹp loạn, bảo vệ bờ cõi, góp phần giữ vững an ninh cho đất nước. Không chỉ giỏi trong việc quân sự, Tô Hiến Thành còn nổi tiếng với sự liêm khiết và công bằng trong chính trị. Ông luôn đặt lợi ích của triều đình và quốc gia lên hàng đầu, không để tình riêng hay tiền tài làm lung lay ý chí của mình. Điều này giúp ông nhận được sự tin tưởng tuyệt đối từ vua Lý Anh Tông và triều đình.
Câu chuyện nổi tiếng nhất về lòng trung nghĩa của Tô Hiến Thành xảy ra sau khi vua Lý Anh Tông qua đời. Trước khi băng hà, vua đã truyền ngôi cho thái tử Long Cán, còn nhỏ tuổi. Tuy nhiên, một số quan lại muốn tranh quyền và tìm cách lôi kéo Tô Hiến Thành ủng hộ một hoàng tử khác. Dù chịu nhiều sức ép và được hối lộ bằng tiền bạc, ông vẫn kiên quyết tuân theo di chúc của vua, bảo vệ ngôi vị cho thái tử Long Cán – người sau này lên ngôi với danh hiệu vua Lý Cao Tông. Hành động này đã thể hiện rõ sự trung thành và tinh thần trách nhiệm của ông với vua và đất nước.
Tô Hiến Thành không chỉ là một vị quan tài năng, mà còn là tấm gương về đạo đức và lòng trung nghĩa. Ông cống hiến cả đời cho sự hưng thịnh của triều Lý, để lại nhiều bài học quý báu cho hậu thế về lòng trung kiên và sự liêm chính. Sau khi ông qua đời, nhân dân đã lập đền thờ để tôn vinh công lao to lớn của ông, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc. Ngày nay, tên tuổi của Tô Hiến Thành vẫn sống mãi trong lịch sử, là biểu tượng của sự tận tụy, trách nhiệm và tình yêu nước.