Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Video 1 SVIP
Lưu ý: Ở điểm dừng, nếu không thấy nút nộp bài, bạn hãy kéo thanh trượt xuống dưới.
Bạn phải xem đến hết Video thì mới được lưu thời gian xem.
Để đảm bảo tốc độ truyền video, OLM lưu trữ video trên youtube. Do vậy phụ huynh tạm thời không chặn youtube để con có thể xem được bài giảng.
Nội dung này là Video có điểm dừng: Xem video kết hợp với trả lời câu hỏi.
Nếu câu hỏi nào bị trả lời sai, bạn sẽ phải trả lời lại dạng bài đó đến khi nào đúng mới qua được điểm dừng.
Bạn không được phép tua video qua một điểm dừng chưa hoàn thành.
Dữ liệu luyện tập chỉ được lưu khi bạn qua mỗi điểm dừng.
ÔNG ĐỒ
(Vũ Đình Liên)
I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả
- Vũ Đình Liên (1913 – 1996)
- Quê gốc ở Hải Dương nhưng chủ yếu sống ở Hà Nội.
- Là một nhà thơ, nhà dịch thuật, nhà giáo.
- Thơ ông thường mang nặng lòng thương người và niềm hoài cổ.
- Ngoài sáng tác thơ, ông còn nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy văn học.
2. Tác phẩm
- “Ông đồ” là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của Vũ Đình Liên.
- Thể thơ và bố cục bài thơ: thể thơ năm chữ.
- Bố cục: Có thể tạm chia bài thơ thành ba đoạn để dễ phân tích: hai khổ thơ đầu, hai khổ thơ giữa và khổ thơ cuối.
+ 2 khổ đầu: Hình ảnh ông đồ thời kì đắc ý.
+ 2 khổ tiếp: Ông đồ thời kì bị quên lãng.
+ Khổ thơ cuối: Ông đồ - người “muôn năm cũ”.
ÔNG ĐỒ
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ(1) già
Bày mực tàu(2) giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc(3) ngợi khen tài
"Hoa tay(4) thảo(5) những nét
Như phượng múa rồng bay".
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên(6) sầu...
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy,
Ngoài giời mưa bụi bay.
Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
(Vũ Đình Liên(*), trong Thi nhân Việt Nam, Sđd)
Chú thích
(*) Vũ Đình Liên (1913 - 1996) quê gốc ở Hải Dương nhưng chủ yếu sống ở Hà Nội, là một trong những nhà thơ lớp đầu tiên của phong trào Thơ mới. Thơ ông thường mang nặng lòng thương người và niềm hoài cổ. Ngoài sáng tác thơ, ông còn nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy văn học.
Ông đồ là bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ giàu thương cảm của Vũ Đình Liên. Tuy sáng tác thơ không nhiều nhưng chỉ với bài thơ Ông đồ, Vũ Đình Liên đã có vị trí xứng đáng trong phong trào Thơ mới.
(1) Ông đồ: người dạy học chữ nho xưa. Nhà nho xưa nếu không đỗ đạt làm quan thì thường làm nghề dạy học, gọi là ông đồ, thầy đồ. Mỗi dịp Tết đến, ông đồ thường được nhiều người thuê viết chữ, câu đối để trang trí trong nhà. Nhưng từ khi chế độ thi cử phong kiến bị bãi bỏ, chữ nho không còn được trọng, ngày Tết không mấy ai sắm câu đối hoặc chơi chữ, ông đồ trở nên thất thế và bị gạt ra bên lề cuộc đời. Từ đó, hình ảnh ông đồ chỉ còn là "cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn" (Lời của Vũ Đình Liên).
(2) Mực tàu: thỏi mực đen mài với nước làm mực để viết chữ Hán, chữ Nôm hoặc để vẽ bằng bút lông.
(3) Tấm tắc: luôn miệng nói ra những tiếng tỏ ý khen ngợi, khâm phục.
(4) Hoa tay: đường vân xoáy tròn ở đầu ngón tay, được coi là dấu hiệu của người tài hoa.
(5) Thảo: viết tháu, viết nhanh (nghĩa trong văn bản).
(6) Nghiên: dụng cụ làm bằng chất liệu cứng và có lòng trũng để mài mực và đựng mực tàu.
Bài thơ Ông đồ được sáng tác bởi tác giả nào?
ÔNG ĐỒ
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ(1) già
Bày mực tàu(2) giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc(3) ngợi khen tài
"Hoa tay(4) thảo(5) những nét
Như phượng múa rồng bay".
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên(6) sầu...
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy,
Ngoài giời mưa bụi bay.
Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
(Vũ Đình Liên(*), trong Thi nhân Việt Nam, Sđd)
Chú thích
(*) Vũ Đình Liên (1913 - 1996) quê gốc ở Hải Dương nhưng chủ yếu sống ở Hà Nội, là một trong những nhà thơ lớp đầu tiên của phong trào Thơ mới. Thơ ông thường mang nặng lòng thương người và niềm hoài cổ. Ngoài sáng tác thơ, ông còn nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy văn học.
Ông đồ là bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ giàu thương cảm của Vũ Đình Liên. Tuy sáng tác thơ không nhiều nhưng chỉ với bài thơ Ông đồ, Vũ Đình Liên đã có vị trí xứng đáng trong phong trào Thơ mới.
(1) Ông đồ: người dạy học chữ nho xưa. Nhà nho xưa nếu không đỗ đạt làm quan thì thường làm nghề dạy học, gọi là ông đồ, thầy đồ. Mỗi dịp Tết đến, ông đồ thường được nhiều người thuê viết chữ, câu đối để trang trí trong nhà. Nhưng từ khi chế độ thi cử phong kiến bị bãi bỏ, chữ nho không còn được trọng, ngày Tết không mấy ai sắm câu đối hoặc chơi chữ, ông đồ trở nên thất thế và bị gạt ra bên lề cuộc đời. Từ đó, hình ảnh ông đồ chỉ còn là "cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn" (Lời của Vũ Đình Liên).
(2) Mực tàu: thỏi mực đen mài với nước làm mực để viết chữ Hán, chữ Nôm hoặc để vẽ bằng bút lông.
(3) Tấm tắc: luôn miệng nói ra những tiếng tỏ ý khen ngợi, khâm phục.
(4) Hoa tay: đường vân xoáy tròn ở đầu ngón tay, được coi là dấu hiệu của người tài hoa.
(5) Thảo: viết tháu, viết nhanh (nghĩa trong văn bản).
(6) Nghiên: dụng cụ làm bằng chất liệu cứng và có lòng trũng để mài mực và đựng mực tàu.
Dòng nào sau đây nhận xét đúng về nhà thơ Vũ Đình Liên?
ÔNG ĐỒ
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ(1) già
Bày mực tàu(2) giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc(3) ngợi khen tài
"Hoa tay(4) thảo(5) những nét
Như phượng múa rồng bay".
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên(6) sầu...
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy,
Ngoài giời mưa bụi bay.
Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
(Vũ Đình Liên(*), trong Thi nhân Việt Nam, Sđd)
Chú thích
(*) Vũ Đình Liên (1913 - 1996) quê gốc ở Hải Dương nhưng chủ yếu sống ở Hà Nội, là một trong những nhà thơ lớp đầu tiên của phong trào Thơ mới. Thơ ông thường mang nặng lòng thương người và niềm hoài cổ. Ngoài sáng tác thơ, ông còn nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy văn học.
Ông đồ là bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ giàu thương cảm của Vũ Đình Liên. Tuy sáng tác thơ không nhiều nhưng chỉ với bài thơ Ông đồ, Vũ Đình Liên đã có vị trí xứng đáng trong phong trào Thơ mới.
(1) Ông đồ: người dạy học chữ nho xưa. Nhà nho xưa nếu không đỗ đạt làm quan thì thường làm nghề dạy học, gọi là ông đồ, thầy đồ. Mỗi dịp Tết đến, ông đồ thường được nhiều người thuê viết chữ, câu đối để trang trí trong nhà. Nhưng từ khi chế độ thi cử phong kiến bị bãi bỏ, chữ nho không còn được trọng, ngày Tết không mấy ai sắm câu đối hoặc chơi chữ, ông đồ trở nên thất thế và bị gạt ra bên lề cuộc đời. Từ đó, hình ảnh ông đồ chỉ còn là "cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn" (Lời của Vũ Đình Liên).
(2) Mực tàu: thỏi mực đen mài với nước làm mực để viết chữ Hán, chữ Nôm hoặc để vẽ bằng bút lông.
(3) Tấm tắc: luôn miệng nói ra những tiếng tỏ ý khen ngợi, khâm phục.
(4) Hoa tay: đường vân xoáy tròn ở đầu ngón tay, được coi là dấu hiệu của người tài hoa.
(5) Thảo: viết tháu, viết nhanh (nghĩa trong văn bản).
(6) Nghiên: dụng cụ làm bằng chất liệu cứng và có lòng trũng để mài mực và đựng mực tàu.
Hai nguồn thi cảm chính trong sáng tác của Vũ Đình Liên là
ÔNG ĐỒ
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ(1) già
Bày mực tàu(2) giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc(3) ngợi khen tài
"Hoa tay(4) thảo(5) những nét
Như phượng múa rồng bay".
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên(6) sầu...
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy,
Ngoài giời mưa bụi bay.
Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
(Vũ Đình Liên(*), trong Thi nhân Việt Nam, Sđd)
Chú thích
(*) Vũ Đình Liên (1913 - 1996) quê gốc ở Hải Dương nhưng chủ yếu sống ở Hà Nội, là một trong những nhà thơ lớp đầu tiên của phong trào Thơ mới. Thơ ông thường mang nặng lòng thương người và niềm hoài cổ. Ngoài sáng tác thơ, ông còn nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy văn học.
Ông đồ là bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ giàu thương cảm của Vũ Đình Liên. Tuy sáng tác thơ không nhiều nhưng chỉ với bài thơ Ông đồ, Vũ Đình Liên đã có vị trí xứng đáng trong phong trào Thơ mới.
(1) Ông đồ: người dạy học chữ nho xưa. Nhà nho xưa nếu không đỗ đạt làm quan thì thường làm nghề dạy học, gọi là ông đồ, thầy đồ. Mỗi dịp Tết đến, ông đồ thường được nhiều người thuê viết chữ, câu đối để trang trí trong nhà. Nhưng từ khi chế độ thi cử phong kiến bị bãi bỏ, chữ nho không còn được trọng, ngày Tết không mấy ai sắm câu đối hoặc chơi chữ, ông đồ trở nên thất thế và bị gạt ra bên lề cuộc đời. Từ đó, hình ảnh ông đồ chỉ còn là "cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn" (Lời của Vũ Đình Liên).
(2) Mực tàu: thỏi mực đen mài với nước làm mực để viết chữ Hán, chữ Nôm hoặc để vẽ bằng bút lông.
(3) Tấm tắc: luôn miệng nói ra những tiếng tỏ ý khen ngợi, khâm phục.
(4) Hoa tay: đường vân xoáy tròn ở đầu ngón tay, được coi là dấu hiệu của người tài hoa.
(5) Thảo: viết tháu, viết nhanh (nghĩa trong văn bản).
(6) Nghiên: dụng cụ làm bằng chất liệu cứng và có lòng trũng để mài mực và đựng mực tàu.
Thể thơ của bài thơ Ông đồ là
ÔNG ĐỒ
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ(1) già
Bày mực tàu(2) giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc(3) ngợi khen tài
"Hoa tay(4) thảo(5) những nét
Như phượng múa rồng bay".
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên(6) sầu...
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy,
Ngoài giời mưa bụi bay.
Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
(Vũ Đình Liên(*), trong Thi nhân Việt Nam, Sđd)
Chú thích
(*) Vũ Đình Liên (1913 - 1996) quê gốc ở Hải Dương nhưng chủ yếu sống ở Hà Nội, là một trong những nhà thơ lớp đầu tiên của phong trào Thơ mới. Thơ ông thường mang nặng lòng thương người và niềm hoài cổ. Ngoài sáng tác thơ, ông còn nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy văn học.
Ông đồ là bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ giàu thương cảm của Vũ Đình Liên. Tuy sáng tác thơ không nhiều nhưng chỉ với bài thơ Ông đồ, Vũ Đình Liên đã có vị trí xứng đáng trong phong trào Thơ mới.
(1) Ông đồ: người dạy học chữ nho xưa. Nhà nho xưa nếu không đỗ đạt làm quan thì thường làm nghề dạy học, gọi là ông đồ, thầy đồ. Mỗi dịp Tết đến, ông đồ thường được nhiều người thuê viết chữ, câu đối để trang trí trong nhà. Nhưng từ khi chế độ thi cử phong kiến bị bãi bỏ, chữ nho không còn được trọng, ngày Tết không mấy ai sắm câu đối hoặc chơi chữ, ông đồ trở nên thất thế và bị gạt ra bên lề cuộc đời. Từ đó, hình ảnh ông đồ chỉ còn là "cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn" (Lời của Vũ Đình Liên).
(2) Mực tàu: thỏi mực đen mài với nước làm mực để viết chữ Hán, chữ Nôm hoặc để vẽ bằng bút lông.
(3) Tấm tắc: luôn miệng nói ra những tiếng tỏ ý khen ngợi, khâm phục.
(4) Hoa tay: đường vân xoáy tròn ở đầu ngón tay, được coi là dấu hiệu của người tài hoa.
(5) Thảo: viết tháu, viết nhanh (nghĩa trong văn bản).
(6) Nghiên: dụng cụ làm bằng chất liệu cứng và có lòng trũng để mài mực và đựng mực tàu.
Cảm xúc của Vũ Đình Liên khi viết bài thơ Ông đồ là
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây