Bài học cùng chủ đề
- Viết đoạn văn về văn bản thơ trữ tình
- Viết đoạn văn về văn bản truyện kí, tùy bút, tản văn
- Viết đoạn văn về văn bản tự sự (truyện thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện truyền kì)
- Viết đoạn văn về kịch bản sân khấu (kịch, chèo, tuồng)
- Viết đoạn văn về thần thoại, sử thi
- Viết đoạn văn nghị luận về phóng sự, nhật kí, hồi kí
- Viết đoạn văn nghị luận so sánh hai tác phẩm văn học
- Viết đoạn văn phân tích một đặc điểm của văn bản nghị luận văn học
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Viết đoạn văn nghị luận so sánh hai tác phẩm văn học SVIP
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) so sánh, đánh giá trên phương diện nội dung giữa hai đoạn trích sau.
Bài đọc:
* Đoạn trích 1:
15.11.1971
Thằng Mỹ, nó là cái gì mà mơ hồ như thế? Đi bộ đội, mình cảm thấy hơi mông lung trong việc nhìn nhận kẻ thù. Hố bom còn toác ra ở trên đồi. Và cảnh làng xóm tiêu điều, bị tàn phá ngày 29.2.1968, ta đâu có quên. Mặt mũi thằng Mỹ thế nào. Hẳn đó cũng là khuôn mặt người bị bóp méo xộc xệch. Hẳn đó là bộ mặt nhăn nhúm trước ánh sáng mặt trời.
Đêm ấy, thật đau lòng. Hồi chiều, bị ném 40 quả bom. Điện bị đứt lung tung. Làng xóm chìm trong tang tóc và bóng đêm. Ở ngay trước ngõ là một bát hương hiu hiu khói. Anh Phúc bị bom tiện đứt cả chân tay, nằm trong chiếc quan tài đỏ, ngọn đuốc nứa thổi phừng phừng, cái xe bò lăn lộc cộc… Sao giống “chiếc quan tài” như thế.
Không, suốt đời ta không quên, ta không quên cảnh em bé miền Nam đập tay lên vũng máu. Dưới tay em lẽ ra là chậu nước trong mát - cái biển mênh mông của tuổi thơ hồn nhiên, nhí nhảnh… Thằng Mỹ, nó thế nào? Trời ơi, sao lâu quá. Bây giờ cái khao khát nhất của ta - cái day dứt trong ta là khi nào được vào miền Nam, vào Huế, Sài Gòn - xọc lê vào thỏi tim đen đủi của quân thù.
Ta ngồi đây, thanh bình như thế. Nhưng ở cuối trời Tổ quốc, bao nhiêu người con ưu tú của dân tộc đang đổ máu, đang giập gẫy từng khúc xương, đang bị kẻ thù đày đọa và các đồng chí của ta, anh Giải phóng quân kiên cường đang nín thở đợi giờ xung trận, đang đói rét và đau nhói vết thương, trên một cánh rừng già.
Vậy mà, lại đến giờ đi ngủ. Những cơn gió liu riu trên cành tre đưa ta vào cơn mơ - Ta lại trở về với cái ngõ nhỏ của mình… Lạc lõng ư? Có lẽ nào!
Ta biết giấu mặt vào đâu, vào gấu quần hay gấu áo, khi đường Trường Sơn không có dấu chân ta? Khi cả cuộc đời ta chưa có cái niềm vui mãnh liệt của người chiến thắng, cắm cờ Tổ quốc trên cả nước thân yêu.
Phạm Tiến Duật, Triệu Bôn… Các anh đêm nay ở đâu trên Tổ quốc? Các anh có viết những bài thơ, những truyện ngắn vào giờ này? Ôi, những nhà thơ, nhà văn - chiến sĩ, ta gặp nhau trên cùng một ước mơ làm nhiều cho Tổ quốc. Chúng ta có mặt trên trận tuyến ác liệt nhất, khi đất nước đánh thù, có gì tự hào hơn nữa.
Ta bỗng nhớ câu thơ của Hồng Chính Hiền:
“Thương nhau, thương nhau nên hóa gần nhau
Nghe cả tiếng hiệp đồng qua hơi thở…”
Các anh có nghe tiếng tôi? Tiếng của đứa trẻ bước chập chững vào đời với bao thôi thúc, bao niềm tin, hy vọng?
(Nguyễn Văn Thạc, Mãi mãi tuổi hai mươi)
* Đoạn trích 2:
Thêm một tuổi đời, vậy là cái tuổi ba mươi đâu còn xa nữa. Vài năm nữa thôi mình sẽ trở thành một chị cán bộ già dặn, đứng đắn. Nghĩ đến đó mình thoáng thấy buồn. Tuổi xuân của mình đã qua đi trong lửa khói, chiến tranh đã cướp mất hạnh phúc trong tình yêu và tuổi trẻ. Ai lại không tha thiết với mùa xuân, ai lại không muốn cái sáng ngời trong đôi mắt và trên đôi môi căng mọng khi cuộc đời còn ở tuổi hai mươi? Nhưng... tuổi hai mươi của thời đại này đã phải dẹp lại những ước mơ hạnh phúc mà lẽ ra họ phải có... Ước mơ bây giờ là đánh thắng giặc Mỹ, là Độc lập, Tự do của đất nước. Từ ước mơ đó mới có được những gì gọi là của riêng mình. Mình cũng như những thanh niên khác đã lên đường ra tiền tuyến, và tuổi trẻ qua đi giữa tiếng bom rơi đạn nổ. Tuổi trẻ của mình đã thấm đượm mồ hôi, nước mắt, máu xương của những người đang sống và những người đã chết. Tuổi trẻ của mình đã cứng cáp trong thử thách gian lao của chiến trường, tuổi trẻ của mình cũng đã nóng rực vì ngọn lửa căm thù đang ngày đêm hun đốt.
(Đặng Thùy Trâm, Nhật kí Đặng Thùy Trâm)
Hướng dẫn giải:
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn: (0.25 điểm)
Xác định đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 200 chữ) của đoạn văn. Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: (0.25 điểm)
Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: So sánh, đánh giá trên phương diện nội dung giữa đoạn trích trong Mãi mãi tuổi hai mươi với Nhật kí Đặng Thùy Trâm.
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận: (0.5 điểm)
- Xác định được các ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận, sau đây là một số gợi ý:
+ Giống nhau: Người viết đều là những chàng trai, cô gái trẻ với nhiệt huyết căng tràn cùng lòng căm thù giặc sâu sắc, quyết tâm đấu tranh vì sự nghiệp của dân tộc.
+ Khác nhau:
++ Nhật kí Đặng Thùy Trâm: Đoạn nhật kí ghi lại cảm nhận của nữ bác sĩ nhân dịp sinh nhật tuổi 28 trong khói lửa chiến tranh. Là một cô gái trẻ, nữ bác sĩ cũng khát khao được yêu đương khi thời xuân sắc. Nhưng trước bối cảnh của thời đại, chị biết hi sinh những nhu cầu của bản thân, để nhường vị trí cho khát vọng cao nhất cho ước mơ đánh thắng quân thù.
++ Mãi mãi tuổi hai mươi: Đoạn nhật kí ghi lại cảm xúc, suy nghĩ của người chiến sĩ trẻ trước cảnh nhân dân ta cực khổ, tang thương dưới làn lửa đạn. Chứng kiến nhân dân ta khổ sở, người chiến sĩ càng thêm nóng lòng, sốt ruột vì không thể mau chóng xóc lê vào thỏi tim đen đủi của quân thù. Bên cạnh đó, đoạn nhật kí còn lưu lại chút cảm giác tủi hổ, day dứt của anh khi nghĩ về cảnh đồng đội phải chịu đau đớn hay hi sinh trong khi bản thân vẫn đang được sống trong sự thanh bình.
=> Nhận xét: Dù cùng thể hiện rõ tình yêu và khát vọng cống hiến cho Tổ quốc, song, âm hưởng trong đoạn trích thuộc Mãi mãi tuổi hai mươi dường như tha thiết hơn, thể hiện sâu sắc mong muốn được ra chiến trường, cùng đồng đội chiến đấu, giành lại độc lập cho dân tộc. Trong khi đó, đoạn trích thuộc Nhật kí Đặng Thùy Trâm lại cho thấy được tinh thần dâng hiến, sẵn sàng hi sinh ước mơ riêng để hòa vào ước mơ chung của cả dân tộc qua âm hưởng da diết, nhẹ nhàng, pha lẫn chút tiếc nuối mà vẫn rõ sự quyết tâm.
- Sắp xếp được hệ thống ý phù hợp theo đặc điểm của kiểu văn bản.
d. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu sau: (0.5 điểm)
- Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.
- Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các ý.
- Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng; bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng.
đ. Diễn đạt: (0.25 điểm)
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn.
e. Sáng tạo: (0.25 điểm)
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.
Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) so sánh, đánh giá nội dung hai đoạn trích sau.
Bài đọc:
* Đoạn trích 1:
Xuân trẻ, xuân non, xuân lịch sự
Tôi đều nhận thấy trên môi em
Làn môi mong mỏng tươi như máu
Đã khiến môi tôi mấp máy thèm
***
Từ lúc tóc em bỏ trái đào
Tôi chừng cặp má đỏ au au
Tôi đều nhận thấy trong con mắt
Một vẻ ngây thơ và ước ao
***
Lớn lên, em đã biết làm duyên
Mỗi lúc gặp tôi che nón nghiêng
Nghe nói ba em chưa chịu nhận
Cau trầu của khách láng giềng bên.
(Hàn Mặc Tử, Gái quê, NXB Hội nhà văn, 1995)
* Đoạn trích 2:
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi,
Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn.
Hai người sống giữa cô đơn,
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi.
Giá đừng có giậu mùng tơi,
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng.
***
Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng…
Có con bướm trắng thường sang bên này.
Bướm ơi, bướm hãy vào đây!
Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi…
Chả bao giờ thấy nàng cười,
Nàng hong tơ ướt ra ngoài mái hiên.
Mắt nàng đăm đắm trông lên…
Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi!
(Nguyễn Bính, Người hàng xóm, 90 bài thơ tình chọn lọc, NXB Văn học)
Hướng dẫn giải:
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn: (0.25 điểm)
Xác định đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 200 chữ) của đoạn văn. Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: (0.25 điểm)
Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: So sánh, đánh giá hai đoạn trích: Đoạn trích trong Gái quê (Hàn Mặc Tử) và Người hàng xóm (Nguyễn Bính).
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận: (0.5 điểm)
- Xác định được các ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận, sau đây là một số gợi ý:
* Điểm giống nhau:
- Về nội dung:
+ Đề tài: Tình yêu đôi lứa.
+ Cảm hứng chủ đạo: Ca ngợi tình yêu và sự đồng cảm, chia sẻ.
+ Tư tưởng: Khẳng định sự cần thiết và ý nghĩa của tình yêu đôi lứa đối với mỗi người.
* Điểm khác nhau:
+ Đoạn thơ trong bài Gái quê (Hàn Mặc Tử): Nhà thơ mượn hình ảnh mùa xuân xinh tươi, tràn đầy sức sống để nói lên tình yêu giản dị, chân thành dành cho cô gái quê.
+ Đoạn thơ trong bài Người hàng xóm (Nguyễn Bính): Nhân vật trữ tình "tôi" dành tình cảm cho "nàng" và chứng nhân là "con bướm trắng" diễn tả cách nói ẩn dụ cho một mối tình vừa chớm nở.
* Lí giải sự giống và khác nhau:
- Hàn Mặc Tử và Nguyễn Bính đều là những nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, có tình yêu tha thiết với con người và cuộc sống.
- Cả hai đều là những nhà thơ lớn với phong cách nghệ thuật độc đáo. Vì thế, hai tác giả tạo được dấu ấn riêng cho mình trong cách nhìn, cách nghĩ, cách viết phải “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”.
- Sắp xếp được hệ thống ý phù hợp theo đặc điểm của kiểu văn bản.
d. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu sau: (0.5 điểm)
- Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.
- Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các ý.
- Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng; bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng.
đ. Diễn đạt: (0.25 điểm)
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn.
e. Sáng tạo: (0.25 điểm)
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.