Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
MÃ GIÁM SINH MUA KIỀU
(Trích Truyện Kiều)
Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh(1)
Hỏi tên, rằng: "Mã Giám Sinh(2)"
Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh cũng gần."
Quá niên trạc ngoại tứ tuần(3),
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Trước thầy sau tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
Ngại ngùng dợn gió(4) e sương,
Ngừng(5) hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai(6).
Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ(7).
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng: "Mua ngọc đến Lam Kiều(8),
Sính nghi(9) xin dạy bao nhiêu cho tường?"
Mối rằng: "Giá đáng nghìn vàng,
Dớp nhà(10) nhờ lượng người thương dám nài!"
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vâng(11) ngoài bốn trăm.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở đầu phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi gia đình Kiều bị vu oan, Kiều quyết định bán mình để lấy tiền cứu cha và gia đình khỏi tai họa. Đoạn này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều.
(Sự việc ở đây xảy ra trước việc Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích)
(1) Viễn khách: khách ở xa đến. Vấn danh: trong tục lệ hôn nhân ngày xưa, khi hai họ đã ưng thuận thì nhà trai phải tiến hành một loại nghi lễ cho đến khi làm lễ cưới. Một trong những lễ ấy là vấn danh, tức lễ ăn hỏi (vấn danh là hỏi tên). Trong lễ ăn hỏi, nhà gái phải cho biết rõ tên tuổi người con gái. Đây dùng với nghĩa rộng là hỏi xin cưới.
(2) Mã Giám Sinh: giám sinh họ Mã. Giám sinh là tên gọi học trò ở Quốc tử giám, trường lớn ở kinh đô thời xưa. Giám sinh cũng có khi chỉ chức giám sinh người ta mua của triều đình.
(3) Tứ tuần: bốn mươi tuổi. Ý câu thơ: người đã đứng tuổi, ngoài bốn mươi.
(4) Dợn gió: có cảm giác sợ gió, ngại gió.
(5) Ngừng (tiếng cổ): nhìn, ngắm.
(6) Hai hình ảnh dùng để tả người phụ nữ đẹp lúc buồn rầu.
(7) Ép cung cầm nguyệt: ép gảy đàn, thử bài quạt thơ: thử tài làm thơ của Kiều khi yêu cầu nàng đề thơ trên quạt.
(8) Mua ngọc đến Lam Kiều: Lam Kiều là tên một cái cầu huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Huyện Lam Điền là nơi sản xuất ngọc quý. Câu này ý nói: đến đây cốt để mua được người đẹp.
(9) Sính nghi: đồ dẫn cưới. Theo tục lệ cũ, nhà gái buộc nhà trai phải đưa nhiều đồ lễ đến mới cho cưới, đồ lễ ấy được gọi là đồ dẫn cưới.
(10) Dớp nhà: nhà gặp vận đen, nhà đang mắc gian truân.
(11) Chữ này, Đào Duy Anh trong Từ điển Truyện Kiều (in lần thứ hai năm 1989) ở phần mục từ và phần văn bản đều in là vâng. Phần ớn các bản Kiều Nôm và các bản quốc ngữ cũng chép là vâng. Tuy nhiên, cũng có bản chép là vàng.
Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều thuộc phần mấy của tác phẩm?
MÃ GIÁM SINH MUA KIỀU
(Trích Truyện Kiều)
Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh(1)
Hỏi tên, rằng: "Mã Giám Sinh(2)"
Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh cũng gần."
Quá niên trạc ngoại tứ tuần(3),
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Trước thầy sau tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
Ngại ngùng dợn gió(4) e sương,
Ngừng(5) hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai(6).
Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ(7).
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng: "Mua ngọc đến Lam Kiều(8),
Sính nghi(9) xin dạy bao nhiêu cho tường?"
Mối rằng: "Giá đáng nghìn vàng,
Dớp nhà(10) nhờ lượng người thương dám nài!"
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vâng(11) ngoài bốn trăm.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở đầu phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi gia đình Kiều bị vu oan, Kiều quyết định bán mình để lấy tiền cứu cha và gia đình khỏi tai họa. Đoạn này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều.
(Sự việc ở đây xảy ra trước việc Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích)
(1) Viễn khách: khách ở xa đến. Vấn danh: trong tục lệ hôn nhân ngày xưa, khi hai họ đã ưng thuận thì nhà trai phải tiến hành một loại nghi lễ cho đến khi làm lễ cưới. Một trong những lễ ấy là vấn danh, tức lễ ăn hỏi (vấn danh là hỏi tên). Trong lễ ăn hỏi, nhà gái phải cho biết rõ tên tuổi người con gái. Đây dùng với nghĩa rộng là hỏi xin cưới.
(2) Mã Giám Sinh: giám sinh họ Mã. Giám sinh là tên gọi học trò ở Quốc tử giám, trường lớn ở kinh đô thời xưa. Giám sinh cũng có khi chỉ chức giám sinh người ta mua của triều đình.
(3) Tứ tuần: bốn mươi tuổi. Ý câu thơ: người đã đứng tuổi, ngoài bốn mươi.
(4) Dợn gió: có cảm giác sợ gió, ngại gió.
(5) Ngừng (tiếng cổ): nhìn, ngắm.
(6) Hai hình ảnh dùng để tả người phụ nữ đẹp lúc buồn rầu.
(7) Ép cung cầm nguyệt: ép gảy đàn, thử bài quạt thơ: thử tài làm thơ của Kiều khi yêu cầu nàng đề thơ trên quạt.
(8) Mua ngọc đến Lam Kiều: Lam Kiều là tên một cái cầu huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Huyện Lam Điền là nơi sản xuất ngọc quý. Câu này ý nói: đến đây cốt để mua được người đẹp.
(9) Sính nghi: đồ dẫn cưới. Theo tục lệ cũ, nhà gái buộc nhà trai phải đưa nhiều đồ lễ đến mới cho cưới, đồ lễ ấy được gọi là đồ dẫn cưới.
(10) Dớp nhà: nhà gặp vận đen, nhà đang mắc gian truân.
(11) Chữ này, Đào Duy Anh trong Từ điển Truyện Kiều (in lần thứ hai năm 1989) ở phần mục từ và phần văn bản đều in là vâng. Phần ớn các bản Kiều Nôm và các bản quốc ngữ cũng chép là vâng. Tuy nhiên, cũng có bản chép là vàng.
Nhân vật nào dưới đây không được nhắc đến trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều?
MÃ GIÁM SINH MUA KIỀU
(Trích Truyện Kiều)
Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh(1)
Hỏi tên, rằng: "Mã Giám Sinh(2)"
Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh cũng gần."
Quá niên trạc ngoại tứ tuần(3),
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Trước thầy sau tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
Ngại ngùng dợn gió(4) e sương,
Ngừng(5) hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai(6).
Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ(7).
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng: "Mua ngọc đến Lam Kiều(8),
Sính nghi(9) xin dạy bao nhiêu cho tường?"
Mối rằng: "Giá đáng nghìn vàng,
Dớp nhà(10) nhờ lượng người thương dám nài!"
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vâng(11) ngoài bốn trăm.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở đầu phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi gia đình Kiều bị vu oan, Kiều quyết định bán mình để lấy tiền cứu cha và gia đình khỏi tai họa. Đoạn này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều.
(Sự việc ở đây xảy ra trước việc Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích)
(1) Viễn khách: khách ở xa đến. Vấn danh: trong tục lệ hôn nhân ngày xưa, khi hai họ đã ưng thuận thì nhà trai phải tiến hành một loại nghi lễ cho đến khi làm lễ cưới. Một trong những lễ ấy là vấn danh, tức lễ ăn hỏi (vấn danh là hỏi tên). Trong lễ ăn hỏi, nhà gái phải cho biết rõ tên tuổi người con gái. Đây dùng với nghĩa rộng là hỏi xin cưới.
(2) Mã Giám Sinh: giám sinh họ Mã. Giám sinh là tên gọi học trò ở Quốc tử giám, trường lớn ở kinh đô thời xưa. Giám sinh cũng có khi chỉ chức giám sinh người ta mua của triều đình.
(3) Tứ tuần: bốn mươi tuổi. Ý câu thơ: người đã đứng tuổi, ngoài bốn mươi.
(4) Dợn gió: có cảm giác sợ gió, ngại gió.
(5) Ngừng (tiếng cổ): nhìn, ngắm.
(6) Hai hình ảnh dùng để tả người phụ nữ đẹp lúc buồn rầu.
(7) Ép cung cầm nguyệt: ép gảy đàn, thử bài quạt thơ: thử tài làm thơ của Kiều khi yêu cầu nàng đề thơ trên quạt.
(8) Mua ngọc đến Lam Kiều: Lam Kiều là tên một cái cầu huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Huyện Lam Điền là nơi sản xuất ngọc quý. Câu này ý nói: đến đây cốt để mua được người đẹp.
(9) Sính nghi: đồ dẫn cưới. Theo tục lệ cũ, nhà gái buộc nhà trai phải đưa nhiều đồ lễ đến mới cho cưới, đồ lễ ấy được gọi là đồ dẫn cưới.
(10) Dớp nhà: nhà gặp vận đen, nhà đang mắc gian truân.
(11) Chữ này, Đào Duy Anh trong Từ điển Truyện Kiều (in lần thứ hai năm 1989) ở phần mục từ và phần văn bản đều in là vâng. Phần ớn các bản Kiều Nôm và các bản quốc ngữ cũng chép là vâng. Tuy nhiên, cũng có bản chép là vàng.
Xác định bố cục và nội dung từng phần của đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều:
MÃ GIÁM SINH MUA KIỀU
(Trích Truyện Kiều)
Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh(1)
Hỏi tên, rằng: "Mã Giám Sinh(2)"
Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh cũng gần."
Quá niên trạc ngoại tứ tuần(3),
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Trước thầy sau tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
Ngại ngùng dợn gió(4) e sương,
Ngừng(5) hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai(6).
Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ(7).
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng: "Mua ngọc đến Lam Kiều(8),
Sính nghi(9) xin dạy bao nhiêu cho tường?"
Mối rằng: "Giá đáng nghìn vàng,
Dớp nhà(10) nhờ lượng người thương dám nài!"
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vâng(11) ngoài bốn trăm.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở đầu phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi gia đình Kiều bị vu oan, Kiều quyết định bán mình để lấy tiền cứu cha và gia đình khỏi tai họa. Đoạn này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều.
(Sự việc ở đây xảy ra trước việc Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích)
(1) Viễn khách: khách ở xa đến. Vấn danh: trong tục lệ hôn nhân ngày xưa, khi hai họ đã ưng thuận thì nhà trai phải tiến hành một loại nghi lễ cho đến khi làm lễ cưới. Một trong những lễ ấy là vấn danh, tức lễ ăn hỏi (vấn danh là hỏi tên). Trong lễ ăn hỏi, nhà gái phải cho biết rõ tên tuổi người con gái. Đây dùng với nghĩa rộng là hỏi xin cưới.
(2) Mã Giám Sinh: giám sinh họ Mã. Giám sinh là tên gọi học trò ở Quốc tử giám, trường lớn ở kinh đô thời xưa. Giám sinh cũng có khi chỉ chức giám sinh người ta mua của triều đình.
(3) Tứ tuần: bốn mươi tuổi. Ý câu thơ: người đã đứng tuổi, ngoài bốn mươi.
(4) Dợn gió: có cảm giác sợ gió, ngại gió.
(5) Ngừng (tiếng cổ): nhìn, ngắm.
(6) Hai hình ảnh dùng để tả người phụ nữ đẹp lúc buồn rầu.
(7) Ép cung cầm nguyệt: ép gảy đàn, thử bài quạt thơ: thử tài làm thơ của Kiều khi yêu cầu nàng đề thơ trên quạt.
(8) Mua ngọc đến Lam Kiều: Lam Kiều là tên một cái cầu huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Huyện Lam Điền là nơi sản xuất ngọc quý. Câu này ý nói: đến đây cốt để mua được người đẹp.
(9) Sính nghi: đồ dẫn cưới. Theo tục lệ cũ, nhà gái buộc nhà trai phải đưa nhiều đồ lễ đến mới cho cưới, đồ lễ ấy được gọi là đồ dẫn cưới.
(10) Dớp nhà: nhà gặp vận đen, nhà đang mắc gian truân.
(11) Chữ này, Đào Duy Anh trong Từ điển Truyện Kiều (in lần thứ hai năm 1989) ở phần mục từ và phần văn bản đều in là vâng. Phần ớn các bản Kiều Nôm và các bản quốc ngữ cũng chép là vâng. Tuy nhiên, cũng có bản chép là vàng.
Chân dung Mã Giám Sinh hiện lên qua những khía cạnh nào?
MÃ GIÁM SINH MUA KIỀU
(Trích Truyện Kiều)
Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh(1)
Hỏi tên, rằng: "Mã Giám Sinh(2)"
Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh cũng gần."
Quá niên trạc ngoại tứ tuần(3),
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Trước thầy sau tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
Ngại ngùng dợn gió(4) e sương,
Ngừng(5) hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai(6).
Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ(7).
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng: "Mua ngọc đến Lam Kiều(8),
Sính nghi(9) xin dạy bao nhiêu cho tường?"
Mối rằng: "Giá đáng nghìn vàng,
Dớp nhà(10) nhờ lượng người thương dám nài!"
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vâng(11) ngoài bốn trăm.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở đầu phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi gia đình Kiều bị vu oan, Kiều quyết định bán mình để lấy tiền cứu cha và gia đình khỏi tai họa. Đoạn này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều.
(Sự việc ở đây xảy ra trước việc Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích)
(1) Viễn khách: khách ở xa đến. Vấn danh: trong tục lệ hôn nhân ngày xưa, khi hai họ đã ưng thuận thì nhà trai phải tiến hành một loại nghi lễ cho đến khi làm lễ cưới. Một trong những lễ ấy là vấn danh, tức lễ ăn hỏi (vấn danh là hỏi tên). Trong lễ ăn hỏi, nhà gái phải cho biết rõ tên tuổi người con gái. Đây dùng với nghĩa rộng là hỏi xin cưới.
(2) Mã Giám Sinh: giám sinh họ Mã. Giám sinh là tên gọi học trò ở Quốc tử giám, trường lớn ở kinh đô thời xưa. Giám sinh cũng có khi chỉ chức giám sinh người ta mua của triều đình.
(3) Tứ tuần: bốn mươi tuổi. Ý câu thơ: người đã đứng tuổi, ngoài bốn mươi.
(4) Dợn gió: có cảm giác sợ gió, ngại gió.
(5) Ngừng (tiếng cổ): nhìn, ngắm.
(6) Hai hình ảnh dùng để tả người phụ nữ đẹp lúc buồn rầu.
(7) Ép cung cầm nguyệt: ép gảy đàn, thử bài quạt thơ: thử tài làm thơ của Kiều khi yêu cầu nàng đề thơ trên quạt.
(8) Mua ngọc đến Lam Kiều: Lam Kiều là tên một cái cầu huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Huyện Lam Điền là nơi sản xuất ngọc quý. Câu này ý nói: đến đây cốt để mua được người đẹp.
(9) Sính nghi: đồ dẫn cưới. Theo tục lệ cũ, nhà gái buộc nhà trai phải đưa nhiều đồ lễ đến mới cho cưới, đồ lễ ấy được gọi là đồ dẫn cưới.
(10) Dớp nhà: nhà gặp vận đen, nhà đang mắc gian truân.
(11) Chữ này, Đào Duy Anh trong Từ điển Truyện Kiều (in lần thứ hai năm 1989) ở phần mục từ và phần văn bản đều in là vâng. Phần ớn các bản Kiều Nôm và các bản quốc ngữ cũng chép là vâng. Tuy nhiên, cũng có bản chép là vàng.
Nối các từ ngữ miêu tả Mã Giám Sinh với nội dung, ý nghĩa tương ứng:
MÃ GIÁM SINH MUA KIỀU
(Trích Truyện Kiều)
Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh(1)
Hỏi tên, rằng: "Mã Giám Sinh(2)"
Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh cũng gần."
Quá niên trạc ngoại tứ tuần(3),
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Trước thầy sau tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
Ngại ngùng dợn gió(4) e sương,
Ngừng(5) hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai(6).
Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ(7).
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng: "Mua ngọc đến Lam Kiều(8),
Sính nghi(9) xin dạy bao nhiêu cho tường?"
Mối rằng: "Giá đáng nghìn vàng,
Dớp nhà(10) nhờ lượng người thương dám nài!"
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vâng(11) ngoài bốn trăm.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở đầu phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi gia đình Kiều bị vu oan, Kiều quyết định bán mình để lấy tiền cứu cha và gia đình khỏi tai họa. Đoạn này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều.
(Sự việc ở đây xảy ra trước việc Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích)
(1) Viễn khách: khách ở xa đến. Vấn danh: trong tục lệ hôn nhân ngày xưa, khi hai họ đã ưng thuận thì nhà trai phải tiến hành một loại nghi lễ cho đến khi làm lễ cưới. Một trong những lễ ấy là vấn danh, tức lễ ăn hỏi (vấn danh là hỏi tên). Trong lễ ăn hỏi, nhà gái phải cho biết rõ tên tuổi người con gái. Đây dùng với nghĩa rộng là hỏi xin cưới.
(2) Mã Giám Sinh: giám sinh họ Mã. Giám sinh là tên gọi học trò ở Quốc tử giám, trường lớn ở kinh đô thời xưa. Giám sinh cũng có khi chỉ chức giám sinh người ta mua của triều đình.
(3) Tứ tuần: bốn mươi tuổi. Ý câu thơ: người đã đứng tuổi, ngoài bốn mươi.
(4) Dợn gió: có cảm giác sợ gió, ngại gió.
(5) Ngừng (tiếng cổ): nhìn, ngắm.
(6) Hai hình ảnh dùng để tả người phụ nữ đẹp lúc buồn rầu.
(7) Ép cung cầm nguyệt: ép gảy đàn, thử bài quạt thơ: thử tài làm thơ của Kiều khi yêu cầu nàng đề thơ trên quạt.
(8) Mua ngọc đến Lam Kiều: Lam Kiều là tên một cái cầu huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Huyện Lam Điền là nơi sản xuất ngọc quý. Câu này ý nói: đến đây cốt để mua được người đẹp.
(9) Sính nghi: đồ dẫn cưới. Theo tục lệ cũ, nhà gái buộc nhà trai phải đưa nhiều đồ lễ đến mới cho cưới, đồ lễ ấy được gọi là đồ dẫn cưới.
(10) Dớp nhà: nhà gặp vận đen, nhà đang mắc gian truân.
(11) Chữ này, Đào Duy Anh trong Từ điển Truyện Kiều (in lần thứ hai năm 1989) ở phần mục từ và phần văn bản đều in là vâng. Phần ớn các bản Kiều Nôm và các bản quốc ngữ cũng chép là vâng. Tuy nhiên, cũng có bản chép là vàng.
Khái quát lại những chi tiết miêu tả Mã Giám Sinh bằng cách nối:
MÃ GIÁM SINH MUA KIỀU
(Trích Truyện Kiều)
Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh(1)
Hỏi tên, rằng: "Mã Giám Sinh(2)"
Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh cũng gần."
Quá niên trạc ngoại tứ tuần(3),
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Trước thầy sau tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
Ngại ngùng dợn gió(4) e sương,
Ngừng(5) hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai(6).
Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ(7).
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng: "Mua ngọc đến Lam Kiều(8),
Sính nghi(9) xin dạy bao nhiêu cho tường?"
Mối rằng: "Giá đáng nghìn vàng,
Dớp nhà(10) nhờ lượng người thương dám nài!"
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vâng(11) ngoài bốn trăm.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở đầu phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi gia đình Kiều bị vu oan, Kiều quyết định bán mình để lấy tiền cứu cha và gia đình khỏi tai họa. Đoạn này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều.
(Sự việc ở đây xảy ra trước việc Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích)
(1) Viễn khách: khách ở xa đến. Vấn danh: trong tục lệ hôn nhân ngày xưa, khi hai họ đã ưng thuận thì nhà trai phải tiến hành một loại nghi lễ cho đến khi làm lễ cưới. Một trong những lễ ấy là vấn danh, tức lễ ăn hỏi (vấn danh là hỏi tên). Trong lễ ăn hỏi, nhà gái phải cho biết rõ tên tuổi người con gái. Đây dùng với nghĩa rộng là hỏi xin cưới.
(2) Mã Giám Sinh: giám sinh họ Mã. Giám sinh là tên gọi học trò ở Quốc tử giám, trường lớn ở kinh đô thời xưa. Giám sinh cũng có khi chỉ chức giám sinh người ta mua của triều đình.
(3) Tứ tuần: bốn mươi tuổi. Ý câu thơ: người đã đứng tuổi, ngoài bốn mươi.
(4) Dợn gió: có cảm giác sợ gió, ngại gió.
(5) Ngừng (tiếng cổ): nhìn, ngắm.
(6) Hai hình ảnh dùng để tả người phụ nữ đẹp lúc buồn rầu.
(7) Ép cung cầm nguyệt: ép gảy đàn, thử bài quạt thơ: thử tài làm thơ của Kiều khi yêu cầu nàng đề thơ trên quạt.
(8) Mua ngọc đến Lam Kiều: Lam Kiều là tên một cái cầu huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Huyện Lam Điền là nơi sản xuất ngọc quý. Câu này ý nói: đến đây cốt để mua được người đẹp.
(9) Sính nghi: đồ dẫn cưới. Theo tục lệ cũ, nhà gái buộc nhà trai phải đưa nhiều đồ lễ đến mới cho cưới, đồ lễ ấy được gọi là đồ dẫn cưới.
(10) Dớp nhà: nhà gặp vận đen, nhà đang mắc gian truân.
(11) Chữ này, Đào Duy Anh trong Từ điển Truyện Kiều (in lần thứ hai năm 1989) ở phần mục từ và phần văn bản đều in là vâng. Phần ớn các bản Kiều Nôm và các bản quốc ngữ cũng chép là vâng. Tuy nhiên, cũng có bản chép là vàng.
Những câu thơ tả cảnh Mã Giám Sinh mua Kiều bộc lộ bản chất gì của nhân vật?
MÃ GIÁM SINH MUA KIỀU
(Trích Truyện Kiều)
Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh(1)
Hỏi tên, rằng: "Mã Giám Sinh(2)"
Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh cũng gần."
Quá niên trạc ngoại tứ tuần(3),
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Trước thầy sau tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
Ngại ngùng dợn gió(4) e sương,
Ngừng(5) hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai(6).
Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ(7).
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng: "Mua ngọc đến Lam Kiều(8),
Sính nghi(9) xin dạy bao nhiêu cho tường?"
Mối rằng: "Giá đáng nghìn vàng,
Dớp nhà(10) nhờ lượng người thương dám nài!"
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vâng(11) ngoài bốn trăm.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở đầu phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi gia đình Kiều bị vu oan, Kiều quyết định bán mình để lấy tiền cứu cha và gia đình khỏi tai họa. Đoạn này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều.
(Sự việc ở đây xảy ra trước việc Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích)
(1) Viễn khách: khách ở xa đến. Vấn danh: trong tục lệ hôn nhân ngày xưa, khi hai họ đã ưng thuận thì nhà trai phải tiến hành một loại nghi lễ cho đến khi làm lễ cưới. Một trong những lễ ấy là vấn danh, tức lễ ăn hỏi (vấn danh là hỏi tên). Trong lễ ăn hỏi, nhà gái phải cho biết rõ tên tuổi người con gái. Đây dùng với nghĩa rộng là hỏi xin cưới.
(2) Mã Giám Sinh: giám sinh họ Mã. Giám sinh là tên gọi học trò ở Quốc tử giám, trường lớn ở kinh đô thời xưa. Giám sinh cũng có khi chỉ chức giám sinh người ta mua của triều đình.
(3) Tứ tuần: bốn mươi tuổi. Ý câu thơ: người đã đứng tuổi, ngoài bốn mươi.
(4) Dợn gió: có cảm giác sợ gió, ngại gió.
(5) Ngừng (tiếng cổ): nhìn, ngắm.
(6) Hai hình ảnh dùng để tả người phụ nữ đẹp lúc buồn rầu.
(7) Ép cung cầm nguyệt: ép gảy đàn, thử bài quạt thơ: thử tài làm thơ của Kiều khi yêu cầu nàng đề thơ trên quạt.
(8) Mua ngọc đến Lam Kiều: Lam Kiều là tên một cái cầu huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Huyện Lam Điền là nơi sản xuất ngọc quý. Câu này ý nói: đến đây cốt để mua được người đẹp.
(9) Sính nghi: đồ dẫn cưới. Theo tục lệ cũ, nhà gái buộc nhà trai phải đưa nhiều đồ lễ đến mới cho cưới, đồ lễ ấy được gọi là đồ dẫn cưới.
(10) Dớp nhà: nhà gặp vận đen, nhà đang mắc gian truân.
(11) Chữ này, Đào Duy Anh trong Từ điển Truyện Kiều (in lần thứ hai năm 1989) ở phần mục từ và phần văn bản đều in là vâng. Phần ớn các bản Kiều Nôm và các bản quốc ngữ cũng chép là vâng. Tuy nhiên, cũng có bản chép là vàng.
"Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
Ngại ngùng dợn gió e sương,
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày."
Những câu thơ sau miêu tả tâm trạng gì của Kiều?
MÃ GIÁM SINH MUA KIỀU
(Trích Truyện Kiều)
Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh(1)
Hỏi tên, rằng: "Mã Giám Sinh(2)"
Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh cũng gần."
Quá niên trạc ngoại tứ tuần(3),
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Trước thầy sau tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
Ngại ngùng dợn gió(4) e sương,
Ngừng(5) hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai(6).
Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ(7).
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng: "Mua ngọc đến Lam Kiều(8),
Sính nghi(9) xin dạy bao nhiêu cho tường?"
Mối rằng: "Giá đáng nghìn vàng,
Dớp nhà(10) nhờ lượng người thương dám nài!"
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vâng(11) ngoài bốn trăm.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở đầu phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi gia đình Kiều bị vu oan, Kiều quyết định bán mình để lấy tiền cứu cha và gia đình khỏi tai họa. Đoạn này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều.
(Sự việc ở đây xảy ra trước việc Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích)
(1) Viễn khách: khách ở xa đến. Vấn danh: trong tục lệ hôn nhân ngày xưa, khi hai họ đã ưng thuận thì nhà trai phải tiến hành một loại nghi lễ cho đến khi làm lễ cưới. Một trong những lễ ấy là vấn danh, tức lễ ăn hỏi (vấn danh là hỏi tên). Trong lễ ăn hỏi, nhà gái phải cho biết rõ tên tuổi người con gái. Đây dùng với nghĩa rộng là hỏi xin cưới.
(2) Mã Giám Sinh: giám sinh họ Mã. Giám sinh là tên gọi học trò ở Quốc tử giám, trường lớn ở kinh đô thời xưa. Giám sinh cũng có khi chỉ chức giám sinh người ta mua của triều đình.
(3) Tứ tuần: bốn mươi tuổi. Ý câu thơ: người đã đứng tuổi, ngoài bốn mươi.
(4) Dợn gió: có cảm giác sợ gió, ngại gió.
(5) Ngừng (tiếng cổ): nhìn, ngắm.
(6) Hai hình ảnh dùng để tả người phụ nữ đẹp lúc buồn rầu.
(7) Ép cung cầm nguyệt: ép gảy đàn, thử bài quạt thơ: thử tài làm thơ của Kiều khi yêu cầu nàng đề thơ trên quạt.
(8) Mua ngọc đến Lam Kiều: Lam Kiều là tên một cái cầu huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Huyện Lam Điền là nơi sản xuất ngọc quý. Câu này ý nói: đến đây cốt để mua được người đẹp.
(9) Sính nghi: đồ dẫn cưới. Theo tục lệ cũ, nhà gái buộc nhà trai phải đưa nhiều đồ lễ đến mới cho cưới, đồ lễ ấy được gọi là đồ dẫn cưới.
(10) Dớp nhà: nhà gặp vận đen, nhà đang mắc gian truân.
(11) Chữ này, Đào Duy Anh trong Từ điển Truyện Kiều (in lần thứ hai năm 1989) ở phần mục từ và phần văn bản đều in là vâng. Phần ớn các bản Kiều Nôm và các bản quốc ngữ cũng chép là vâng. Tuy nhiên, cũng có bản chép là vàng.
Nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích được miêu tả như thế nào?
MÃ GIÁM SINH MUA KIỀU
(Trích Truyện Kiều)
Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh(1)
Hỏi tên, rằng: "Mã Giám Sinh(2)"
Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh cũng gần."
Quá niên trạc ngoại tứ tuần(3),
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Trước thầy sau tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
Ngại ngùng dợn gió(4) e sương,
Ngừng(5) hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai(6).
Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ(7).
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng: "Mua ngọc đến Lam Kiều(8),
Sính nghi(9) xin dạy bao nhiêu cho tường?"
Mối rằng: "Giá đáng nghìn vàng,
Dớp nhà(10) nhờ lượng người thương dám nài!"
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vâng(11) ngoài bốn trăm.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở đầu phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi gia đình Kiều bị vu oan, Kiều quyết định bán mình để lấy tiền cứu cha và gia đình khỏi tai họa. Đoạn này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều.
(Sự việc ở đây xảy ra trước việc Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích)
(1) Viễn khách: khách ở xa đến. Vấn danh: trong tục lệ hôn nhân ngày xưa, khi hai họ đã ưng thuận thì nhà trai phải tiến hành một loại nghi lễ cho đến khi làm lễ cưới. Một trong những lễ ấy là vấn danh, tức lễ ăn hỏi (vấn danh là hỏi tên). Trong lễ ăn hỏi, nhà gái phải cho biết rõ tên tuổi người con gái. Đây dùng với nghĩa rộng là hỏi xin cưới.
(2) Mã Giám Sinh: giám sinh họ Mã. Giám sinh là tên gọi học trò ở Quốc tử giám, trường lớn ở kinh đô thời xưa. Giám sinh cũng có khi chỉ chức giám sinh người ta mua của triều đình.
(3) Tứ tuần: bốn mươi tuổi. Ý câu thơ: người đã đứng tuổi, ngoài bốn mươi.
(4) Dợn gió: có cảm giác sợ gió, ngại gió.
(5) Ngừng (tiếng cổ): nhìn, ngắm.
(6) Hai hình ảnh dùng để tả người phụ nữ đẹp lúc buồn rầu.
(7) Ép cung cầm nguyệt: ép gảy đàn, thử bài quạt thơ: thử tài làm thơ của Kiều khi yêu cầu nàng đề thơ trên quạt.
(8) Mua ngọc đến Lam Kiều: Lam Kiều là tên một cái cầu huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Huyện Lam Điền là nơi sản xuất ngọc quý. Câu này ý nói: đến đây cốt để mua được người đẹp.
(9) Sính nghi: đồ dẫn cưới. Theo tục lệ cũ, nhà gái buộc nhà trai phải đưa nhiều đồ lễ đến mới cho cưới, đồ lễ ấy được gọi là đồ dẫn cưới.
(10) Dớp nhà: nhà gặp vận đen, nhà đang mắc gian truân.
(11) Chữ này, Đào Duy Anh trong Từ điển Truyện Kiều (in lần thứ hai năm 1989) ở phần mục từ và phần văn bản đều in là vâng. Phần ớn các bản Kiều Nôm và các bản quốc ngữ cũng chép là vâng. Tuy nhiên, cũng có bản chép là vàng.
Đoạn trích đã thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du như thế nào?
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây