Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
MUỐN LÀM THẰNG CUỘI
Đêm thu buồn lắm chị Hằng(1) ơi
Trần thế(2) em nay chán nửa rồi.
Cung quế(3) đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa(4) xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám.
Tựa nhau trông xuống thế gian(5) cười.
Tản Đà(*) (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Tản Đà xuất thân là nhà nho, từng hai phen lều chõng đi thi nhưng không đỗ. Sau đó ông đã chuyển sang sáng tác văn chương quốc ngữ và sớm nổi tiếng, đặc biệt là vào những năm 20 của thế kỉ XX. Thơ ông tràn đầy cảm xúc lãng mạn, lại rất đậm đà bản sắc dân tộc và có những tìm tòi, sáng tạo mới mẻ. Có thể xem Tản Đà như một gạch nối giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam. Ngoài thơ, Tản Đà còn viết văn xuôi và cũng nổi tiếng với những bài tản văn, tùy bút, tự truyện, những thiên du kí viễn tưởng đặc sắc. Tác phẩm chính: Khối tình con I, II (thơ, 1917), Giấc mộng con I (tiểu thuyết, 1917), Thề non nước (tiểu thuyết, 1920), Giấc mộng con II (du kí, 1932), Giấc mộng lớn (tự truyện, 1932).
Bài thơ Muốn làm thằng Cuội nằm trong quyển Khối tình con I, xuất bản năm 1917. (Thằng Cuội: nhân vật ở trên cung trăng, theo truyền thuyết dân gian).
(1) Chị Hằng: tức Hằng Nga, chỉ mặt trăng.
(2) Trần thế (có bản chép trần giới): cõi đời.
(3) Cung quế: theo thần thoại Trung Quốc, trên cung trăng có cây quế, do đó trăng còn được gọi là cung quế.
(4) Cành đa: theo thần thoại Trung Quốc và Việt Nam, trên mặt trăng có cây đa và thằng Cuội ngồi dưới gốc cây đa đó.
(5) Thế gian (cũng giống như trần gian): cõi đời, nơi người ở; người đời.
Tản Đà sáng tác chủ yếu vào thời kì nào?
MUỐN LÀM THẰNG CUỘI
Đêm thu buồn lắm chị Hằng(1) ơi
Trần thế(2) em nay chán nửa rồi.
Cung quế(3) đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa(4) xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám.
Tựa nhau trông xuống thế gian(5) cười.
Tản Đà(*) (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Tản Đà xuất thân là nhà nho, từng hai phen lều chõng đi thi nhưng không đỗ. Sau đó ông đã chuyển sang sáng tác văn chương quốc ngữ và sớm nổi tiếng, đặc biệt là vào những năm 20 của thế kỉ XX. Thơ ông tràn đầy cảm xúc lãng mạn, lại rất đậm đà bản sắc dân tộc và có những tìm tòi, sáng tạo mới mẻ. Có thể xem Tản Đà như một gạch nối giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam. Ngoài thơ, Tản Đà còn viết văn xuôi và cũng nổi tiếng với những bài tản văn, tùy bút, tự truyện, những thiên du kí viễn tưởng đặc sắc. Tác phẩm chính: Khối tình con I, II (thơ, 1917), Giấc mộng con I (tiểu thuyết, 1917), Thề non nước (tiểu thuyết, 1920), Giấc mộng con II (du kí, 1932), Giấc mộng lớn (tự truyện, 1932).
Bài thơ Muốn làm thằng Cuội nằm trong quyển Khối tình con I, xuất bản năm 1917. (Thằng Cuội: nhân vật ở trên cung trăng, theo truyền thuyết dân gian).
(1) Chị Hằng: tức Hằng Nga, chỉ mặt trăng.
(2) Trần thế (có bản chép trần giới): cõi đời.
(3) Cung quế: theo thần thoại Trung Quốc, trên cung trăng có cây quế, do đó trăng còn được gọi là cung quế.
(4) Cành đa: theo thần thoại Trung Quốc và Việt Nam, trên mặt trăng có cây đa và thằng Cuội ngồi dưới gốc cây đa đó.
(5) Thế gian (cũng giống như trần gian): cõi đời, nơi người ở; người đời.
Nhận xét nào sau đây đúng với những sáng tác thơ của Tản Đà?
MUỐN LÀM THẰNG CUỘI
Đêm thu buồn lắm chị Hằng(1) ơi
Trần thế(2) em nay chán nửa rồi.
Cung quế(3) đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa(4) xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám.
Tựa nhau trông xuống thế gian(5) cười.
Tản Đà(*) (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Tản Đà xuất thân là nhà nho, từng hai phen lều chõng đi thi nhưng không đỗ. Sau đó ông đã chuyển sang sáng tác văn chương quốc ngữ và sớm nổi tiếng, đặc biệt là vào những năm 20 của thế kỉ XX. Thơ ông tràn đầy cảm xúc lãng mạn, lại rất đậm đà bản sắc dân tộc và có những tìm tòi, sáng tạo mới mẻ. Có thể xem Tản Đà như một gạch nối giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam. Ngoài thơ, Tản Đà còn viết văn xuôi và cũng nổi tiếng với những bài tản văn, tùy bút, tự truyện, những thiên du kí viễn tưởng đặc sắc. Tác phẩm chính: Khối tình con I, II (thơ, 1917), Giấc mộng con I (tiểu thuyết, 1917), Thề non nước (tiểu thuyết, 1920), Giấc mộng con II (du kí, 1932), Giấc mộng lớn (tự truyện, 1932).
Bài thơ Muốn làm thằng Cuội nằm trong quyển Khối tình con I, xuất bản năm 1917. (Thằng Cuội: nhân vật ở trên cung trăng, theo truyền thuyết dân gian).
(1) Chị Hằng: tức Hằng Nga, chỉ mặt trăng.
(2) Trần thế (có bản chép trần giới): cõi đời.
(3) Cung quế: theo thần thoại Trung Quốc, trên cung trăng có cây quế, do đó trăng còn được gọi là cung quế.
(4) Cành đa: theo thần thoại Trung Quốc và Việt Nam, trên mặt trăng có cây đa và thằng Cuội ngồi dưới gốc cây đa đó.
(5) Thế gian (cũng giống như trần gian): cõi đời, nơi người ở; người đời.
Bài thơ trên được viết theo thể thơ nào?
MUỐN LÀM THẰNG CUỘI
Đêm thu buồn lắm chị Hằng(1) ơi
Trần thế(2) em nay chán nửa rồi.
Cung quế(3) đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa(4) xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám.
Tựa nhau trông xuống thế gian(5) cười.
Tản Đà(*) (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Tản Đà xuất thân là nhà nho, từng hai phen lều chõng đi thi nhưng không đỗ. Sau đó ông đã chuyển sang sáng tác văn chương quốc ngữ và sớm nổi tiếng, đặc biệt là vào những năm 20 của thế kỉ XX. Thơ ông tràn đầy cảm xúc lãng mạn, lại rất đậm đà bản sắc dân tộc và có những tìm tòi, sáng tạo mới mẻ. Có thể xem Tản Đà như một gạch nối giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam. Ngoài thơ, Tản Đà còn viết văn xuôi và cũng nổi tiếng với những bài tản văn, tùy bút, tự truyện, những thiên du kí viễn tưởng đặc sắc. Tác phẩm chính: Khối tình con I, II (thơ, 1917), Giấc mộng con I (tiểu thuyết, 1917), Thề non nước (tiểu thuyết, 1920), Giấc mộng con II (du kí, 1932), Giấc mộng lớn (tự truyện, 1932).
Bài thơ Muốn làm thằng Cuội nằm trong quyển Khối tình con I, xuất bản năm 1917. (Thằng Cuội: nhân vật ở trên cung trăng, theo truyền thuyết dân gian).
(1) Chị Hằng: tức Hằng Nga, chỉ mặt trăng.
(2) Trần thế (có bản chép trần giới): cõi đời.
(3) Cung quế: theo thần thoại Trung Quốc, trên cung trăng có cây quế, do đó trăng còn được gọi là cung quế.
(4) Cành đa: theo thần thoại Trung Quốc và Việt Nam, trên mặt trăng có cây đa và thằng Cuội ngồi dưới gốc cây đa đó.
(5) Thế gian (cũng giống như trần gian): cõi đời, nơi người ở; người đời.
Bài thơ trên có cùng thể thơ với bài thơ nào sau đây?
MUỐN LÀM THẰNG CUỘI
Đêm thu buồn lắm chị Hằng(1) ơi
Trần thế(2) em nay chán nửa rồi.
Cung quế(3) đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa(4) xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám.
Tựa nhau trông xuống thế gian(5) cười.
Tản Đà(*) (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Tản Đà xuất thân là nhà nho, từng hai phen lều chõng đi thi nhưng không đỗ. Sau đó ông đã chuyển sang sáng tác văn chương quốc ngữ và sớm nổi tiếng, đặc biệt là vào những năm 20 của thế kỉ XX. Thơ ông tràn đầy cảm xúc lãng mạn, lại rất đậm đà bản sắc dân tộc và có những tìm tòi, sáng tạo mới mẻ. Có thể xem Tản Đà như một gạch nối giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam. Ngoài thơ, Tản Đà còn viết văn xuôi và cũng nổi tiếng với những bài tản văn, tùy bút, tự truyện, những thiên du kí viễn tưởng đặc sắc. Tác phẩm chính: Khối tình con I, II (thơ, 1917), Giấc mộng con I (tiểu thuyết, 1917), Thề non nước (tiểu thuyết, 1920), Giấc mộng con II (du kí, 1932), Giấc mộng lớn (tự truyện, 1932).
Bài thơ Muốn làm thằng Cuội nằm trong quyển Khối tình con I, xuất bản năm 1917. (Thằng Cuội: nhân vật ở trên cung trăng, theo truyền thuyết dân gian).
(1) Chị Hằng: tức Hằng Nga, chỉ mặt trăng.
(2) Trần thế (có bản chép trần giới): cõi đời.
(3) Cung quế: theo thần thoại Trung Quốc, trên cung trăng có cây quế, do đó trăng còn được gọi là cung quế.
(4) Cành đa: theo thần thoại Trung Quốc và Việt Nam, trên mặt trăng có cây đa và thằng Cuội ngồi dưới gốc cây đa đó.
(5) Thế gian (cũng giống như trần gian): cõi đời, nơi người ở; người đời.
Nhan đề bài thơ cho chúng ta thấy điều gì ở con người nhà thơ?
MUỐN LÀM THẰNG CUỘI
Đêm thu buồn lắm chị Hằng(1) ơi
Trần thế(2) em nay chán nửa rồi.
Cung quế(3) đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa(4) xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám.
Tựa nhau trông xuống thế gian(5) cười.
Tản Đà(*) (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Tản Đà xuất thân là nhà nho, từng hai phen lều chõng đi thi nhưng không đỗ. Sau đó ông đã chuyển sang sáng tác văn chương quốc ngữ và sớm nổi tiếng, đặc biệt là vào những năm 20 của thế kỉ XX. Thơ ông tràn đầy cảm xúc lãng mạn, lại rất đậm đà bản sắc dân tộc và có những tìm tòi, sáng tạo mới mẻ. Có thể xem Tản Đà như một gạch nối giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam. Ngoài thơ, Tản Đà còn viết văn xuôi và cũng nổi tiếng với những bài tản văn, tùy bút, tự truyện, những thiên du kí viễn tưởng đặc sắc. Tác phẩm chính: Khối tình con I, II (thơ, 1917), Giấc mộng con I (tiểu thuyết, 1917), Thề non nước (tiểu thuyết, 1920), Giấc mộng con II (du kí, 1932), Giấc mộng lớn (tự truyện, 1932).
Bài thơ Muốn làm thằng Cuội nằm trong quyển Khối tình con I, xuất bản năm 1917. (Thằng Cuội: nhân vật ở trên cung trăng, theo truyền thuyết dân gian).
(1) Chị Hằng: tức Hằng Nga, chỉ mặt trăng.
(2) Trần thế (có bản chép trần giới): cõi đời.
(3) Cung quế: theo thần thoại Trung Quốc, trên cung trăng có cây quế, do đó trăng còn được gọi là cung quế.
(4) Cành đa: theo thần thoại Trung Quốc và Việt Nam, trên mặt trăng có cây đa và thằng Cuội ngồi dưới gốc cây đa đó.
(5) Thế gian (cũng giống như trần gian): cõi đời, nơi người ở; người đời.
Điền từ vào chỗ trống để hoàn thành nội dung chủ yếu của bài thơ?
Bài thơ là lời của một con người sâu sắc với xã hội tầm thường, xấu xa, muốn bằng mộng tưởng, lên cung trăng để với chị Hằng và vui cùng mây gió.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
MUỐN LÀM THẰNG CUỘI
Đêm thu buồn lắm chị Hằng(1) ơi
Trần thế(2) em nay chán nửa rồi.
Cung quế(3) đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa(4) xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám.
Tựa nhau trông xuống thế gian(5) cười.
Tản Đà(*) (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Tản Đà xuất thân là nhà nho, từng hai phen lều chõng đi thi nhưng không đỗ. Sau đó ông đã chuyển sang sáng tác văn chương quốc ngữ và sớm nổi tiếng, đặc biệt là vào những năm 20 của thế kỉ XX. Thơ ông tràn đầy cảm xúc lãng mạn, lại rất đậm đà bản sắc dân tộc và có những tìm tòi, sáng tạo mới mẻ. Có thể xem Tản Đà như một gạch nối giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam. Ngoài thơ, Tản Đà còn viết văn xuôi và cũng nổi tiếng với những bài tản văn, tùy bút, tự truyện, những thiên du kí viễn tưởng đặc sắc. Tác phẩm chính: Khối tình con I, II (thơ, 1917), Giấc mộng con I (tiểu thuyết, 1917), Thề non nước (tiểu thuyết, 1920), Giấc mộng con II (du kí, 1932), Giấc mộng lớn (tự truyện, 1932).
Bài thơ Muốn làm thằng Cuội nằm trong quyển Khối tình con I, xuất bản năm 1917. (Thằng Cuội: nhân vật ở trên cung trăng, theo truyền thuyết dân gian).
(1) Chị Hằng: tức Hằng Nga, chỉ mặt trăng.
(2) Trần thế (có bản chép trần giới): cõi đời.
(3) Cung quế: theo thần thoại Trung Quốc, trên cung trăng có cây quế, do đó trăng còn được gọi là cung quế.
(4) Cành đa: theo thần thoại Trung Quốc và Việt Nam, trên mặt trăng có cây đa và thằng Cuội ngồi dưới gốc cây đa đó.
(5) Thế gian (cũng giống như trần gian): cõi đời, nơi người ở; người đời.
Ý nào nói đúng nhất tâm trạng của tác giả được bộc lộ ở hai câu thơ đầu bài thơ?
MUỐN LÀM THẰNG CUỘI
Đêm thu buồn lắm chị Hằng(1) ơi
Trần thế(2) em nay chán nửa rồi.
Cung quế(3) đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa(4) xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám.
Tựa nhau trông xuống thế gian(5) cười.
Tản Đà(*) (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Tản Đà xuất thân là nhà nho, từng hai phen lều chõng đi thi nhưng không đỗ. Sau đó ông đã chuyển sang sáng tác văn chương quốc ngữ và sớm nổi tiếng, đặc biệt là vào những năm 20 của thế kỉ XX. Thơ ông tràn đầy cảm xúc lãng mạn, lại rất đậm đà bản sắc dân tộc và có những tìm tòi, sáng tạo mới mẻ. Có thể xem Tản Đà như một gạch nối giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam. Ngoài thơ, Tản Đà còn viết văn xuôi và cũng nổi tiếng với những bài tản văn, tùy bút, tự truyện, những thiên du kí viễn tưởng đặc sắc. Tác phẩm chính: Khối tình con I, II (thơ, 1917), Giấc mộng con I (tiểu thuyết, 1917), Thề non nước (tiểu thuyết, 1920), Giấc mộng con II (du kí, 1932), Giấc mộng lớn (tự truyện, 1932).
Bài thơ Muốn làm thằng Cuội nằm trong quyển Khối tình con I, xuất bản năm 1917. (Thằng Cuội: nhân vật ở trên cung trăng, theo truyền thuyết dân gian).
(1) Chị Hằng: tức Hằng Nga, chỉ mặt trăng.
(2) Trần thế (có bản chép trần giới): cõi đời.
(3) Cung quế: theo thần thoại Trung Quốc, trên cung trăng có cây quế, do đó trăng còn được gọi là cung quế.
(4) Cành đa: theo thần thoại Trung Quốc và Việt Nam, trên mặt trăng có cây đa và thằng Cuội ngồi dưới gốc cây đa đó.
(5) Thế gian (cũng giống như trần gian): cõi đời, nơi người ở; người đời.
Theo em, vì sao tác giả có tâm trạng buồn chán trần thế?
MUỐN LÀM THẰNG CUỘI
Đêm thu buồn lắm chị Hằng(1) ơi
Trần thế(2) em nay chán nửa rồi.
Cung quế(3) đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa(4) xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám.
Tựa nhau trông xuống thế gian(5) cười.
Tản Đà(*) (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Tản Đà xuất thân là nhà nho, từng hai phen lều chõng đi thi nhưng không đỗ. Sau đó ông đã chuyển sang sáng tác văn chương quốc ngữ và sớm nổi tiếng, đặc biệt là vào những năm 20 của thế kỉ XX. Thơ ông tràn đầy cảm xúc lãng mạn, lại rất đậm đà bản sắc dân tộc và có những tìm tòi, sáng tạo mới mẻ. Có thể xem Tản Đà như một gạch nối giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam. Ngoài thơ, Tản Đà còn viết văn xuôi và cũng nổi tiếng với những bài tản văn, tùy bút, tự truyện, những thiên du kí viễn tưởng đặc sắc. Tác phẩm chính: Khối tình con I, II (thơ, 1917), Giấc mộng con I (tiểu thuyết, 1917), Thề non nước (tiểu thuyết, 1920), Giấc mộng con II (du kí, 1932), Giấc mộng lớn (tự truyện, 1932).
Bài thơ Muốn làm thằng Cuội nằm trong quyển Khối tình con I, xuất bản năm 1917. (Thằng Cuội: nhân vật ở trên cung trăng, theo truyền thuyết dân gian).
(1) Chị Hằng: tức Hằng Nga, chỉ mặt trăng.
(2) Trần thế (có bản chép trần giới): cõi đời.
(3) Cung quế: theo thần thoại Trung Quốc, trên cung trăng có cây quế, do đó trăng còn được gọi là cung quế.
(4) Cành đa: theo thần thoại Trung Quốc và Việt Nam, trên mặt trăng có cây đa và thằng Cuội ngồi dưới gốc cây đa đó.
(5) Thế gian (cũng giống như trần gian): cõi đời, nơi người ở; người đời.
Qua các câu thơ 3-4 và 5-6, chúng ta thấy được nét tính cách ngông của con người nhà thơ. Đúng hay sai?
MUỐN LÀM THẰNG CUỘI
Đêm thu buồn lắm chị Hằng(1) ơi
Trần thế(2) em nay chán nửa rồi.
Cung quế(3) đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa(4) xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám.
Tựa nhau trông xuống thế gian(5) cười.
Tản Đà(*) (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Tản Đà xuất thân là nhà nho, từng hai phen lều chõng đi thi nhưng không đỗ. Sau đó ông đã chuyển sang sáng tác văn chương quốc ngữ và sớm nổi tiếng, đặc biệt là vào những năm 20 của thế kỉ XX. Thơ ông tràn đầy cảm xúc lãng mạn, lại rất đậm đà bản sắc dân tộc và có những tìm tòi, sáng tạo mới mẻ. Có thể xem Tản Đà như một gạch nối giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam. Ngoài thơ, Tản Đà còn viết văn xuôi và cũng nổi tiếng với những bài tản văn, tùy bút, tự truyện, những thiên du kí viễn tưởng đặc sắc. Tác phẩm chính: Khối tình con I, II (thơ, 1917), Giấc mộng con I (tiểu thuyết, 1917), Thề non nước (tiểu thuyết, 1920), Giấc mộng con II (du kí, 1932), Giấc mộng lớn (tự truyện, 1932).
Bài thơ Muốn làm thằng Cuội nằm trong quyển Khối tình con I, xuất bản năm 1917. (Thằng Cuội: nhân vật ở trên cung trăng, theo truyền thuyết dân gian).
(1) Chị Hằng: tức Hằng Nga, chỉ mặt trăng.
(2) Trần thế (có bản chép trần giới): cõi đời.
(3) Cung quế: theo thần thoại Trung Quốc, trên cung trăng có cây quế, do đó trăng còn được gọi là cung quế.
(4) Cành đa: theo thần thoại Trung Quốc và Việt Nam, trên mặt trăng có cây đa và thằng Cuội ngồi dưới gốc cây đa đó.
(5) Thế gian (cũng giống như trần gian): cõi đời, nơi người ở; người đời.
Theo em, chữ "ngông" biểu hiện ở bài Muốn làm thằng cuội có nghĩa là gì?
MUỐN LÀM THẰNG CUỘI
Đêm thu buồn lắm chị Hằng(1) ơi
Trần thế(2) em nay chán nửa rồi.
Cung quế(3) đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa(4) xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám.
Tựa nhau trông xuống thế gian(5) cười.
Tản Đà(*) (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Tản Đà xuất thân là nhà nho, từng hai phen lều chõng đi thi nhưng không đỗ. Sau đó ông đã chuyển sang sáng tác văn chương quốc ngữ và sớm nổi tiếng, đặc biệt là vào những năm 20 của thế kỉ XX. Thơ ông tràn đầy cảm xúc lãng mạn, lại rất đậm đà bản sắc dân tộc và có những tìm tòi, sáng tạo mới mẻ. Có thể xem Tản Đà như một gạch nối giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam. Ngoài thơ, Tản Đà còn viết văn xuôi và cũng nổi tiếng với những bài tản văn, tùy bút, tự truyện, những thiên du kí viễn tưởng đặc sắc. Tác phẩm chính: Khối tình con I, II (thơ, 1917), Giấc mộng con I (tiểu thuyết, 1917), Thề non nước (tiểu thuyết, 1920), Giấc mộng con II (du kí, 1932), Giấc mộng lớn (tự truyện, 1932).
Bài thơ Muốn làm thằng Cuội nằm trong quyển Khối tình con I, xuất bản năm 1917. (Thằng Cuội: nhân vật ở trên cung trăng, theo truyền thuyết dân gian).
(1) Chị Hằng: tức Hằng Nga, chỉ mặt trăng.
(2) Trần thế (có bản chép trần giới): cõi đời.
(3) Cung quế: theo thần thoại Trung Quốc, trên cung trăng có cây quế, do đó trăng còn được gọi là cung quế.
(4) Cành đa: theo thần thoại Trung Quốc và Việt Nam, trên mặt trăng có cây đa và thằng Cuội ngồi dưới gốc cây đa đó.
(5) Thế gian (cũng giống như trần gian): cõi đời, nơi người ở; người đời.
Nội dung của hai câu thơ 3 - 4 là gì?
MUỐN LÀM THẰNG CUỘI
Đêm thu buồn lắm chị Hằng(1) ơi
Trần thế(2) em nay chán nửa rồi.
Cung quế(3) đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa(4) xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám.
Tựa nhau trông xuống thế gian(5) cười.
Tản Đà(*) (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Tản Đà xuất thân là nhà nho, từng hai phen lều chõng đi thi nhưng không đỗ. Sau đó ông đã chuyển sang sáng tác văn chương quốc ngữ và sớm nổi tiếng, đặc biệt là vào những năm 20 của thế kỉ XX. Thơ ông tràn đầy cảm xúc lãng mạn, lại rất đậm đà bản sắc dân tộc và có những tìm tòi, sáng tạo mới mẻ. Có thể xem Tản Đà như một gạch nối giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam. Ngoài thơ, Tản Đà còn viết văn xuôi và cũng nổi tiếng với những bài tản văn, tùy bút, tự truyện, những thiên du kí viễn tưởng đặc sắc. Tác phẩm chính: Khối tình con I, II (thơ, 1917), Giấc mộng con I (tiểu thuyết, 1917), Thề non nước (tiểu thuyết, 1920), Giấc mộng con II (du kí, 1932), Giấc mộng lớn (tự truyện, 1932).
Bài thơ Muốn làm thằng Cuội nằm trong quyển Khối tình con I, xuất bản năm 1917. (Thằng Cuội: nhân vật ở trên cung trăng, theo truyền thuyết dân gian).
(1) Chị Hằng: tức Hằng Nga, chỉ mặt trăng.
(2) Trần thế (có bản chép trần giới): cõi đời.
(3) Cung quế: theo thần thoại Trung Quốc, trên cung trăng có cây quế, do đó trăng còn được gọi là cung quế.
(4) Cành đa: theo thần thoại Trung Quốc và Việt Nam, trên mặt trăng có cây đa và thằng Cuội ngồi dưới gốc cây đa đó.
(5) Thế gian (cũng giống như trần gian): cõi đời, nơi người ở; người đời.
Ngoài việc bộc lộ cái ngông, hai câu thơ 5 - 6 còn bộc lộ nét tính cách nào nữa của nhà thơ?
MUỐN LÀM THẰNG CUỘI
Đêm thu buồn lắm chị Hằng(1) ơi
Trần thế(2) em nay chán nửa rồi.
Cung quế(3) đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa(4) xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám.
Tựa nhau trông xuống thế gian(5) cười.
Tản Đà(*) (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Tản Đà xuất thân là nhà nho, từng hai phen lều chõng đi thi nhưng không đỗ. Sau đó ông đã chuyển sang sáng tác văn chương quốc ngữ và sớm nổi tiếng, đặc biệt là vào những năm 20 của thế kỉ XX. Thơ ông tràn đầy cảm xúc lãng mạn, lại rất đậm đà bản sắc dân tộc và có những tìm tòi, sáng tạo mới mẻ. Có thể xem Tản Đà như một gạch nối giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam. Ngoài thơ, Tản Đà còn viết văn xuôi và cũng nổi tiếng với những bài tản văn, tùy bút, tự truyện, những thiên du kí viễn tưởng đặc sắc. Tác phẩm chính: Khối tình con I, II (thơ, 1917), Giấc mộng con I (tiểu thuyết, 1917), Thề non nước (tiểu thuyết, 1920), Giấc mộng con II (du kí, 1932), Giấc mộng lớn (tự truyện, 1932).
Bài thơ Muốn làm thằng Cuội nằm trong quyển Khối tình con I, xuất bản năm 1917. (Thằng Cuội: nhân vật ở trên cung trăng, theo truyền thuyết dân gian).
(1) Chị Hằng: tức Hằng Nga, chỉ mặt trăng.
(2) Trần thế (có bản chép trần giới): cõi đời.
(3) Cung quế: theo thần thoại Trung Quốc, trên cung trăng có cây quế, do đó trăng còn được gọi là cung quế.
(4) Cành đa: theo thần thoại Trung Quốc và Việt Nam, trên mặt trăng có cây đa và thằng Cuội ngồi dưới gốc cây đa đó.
(5) Thế gian (cũng giống như trần gian): cõi đời, nơi người ở; người đời.
Dòng nào nói đúng nhất nội dung của hai câu thơ cuối bài?
MUỐN LÀM THẰNG CUỘI
Đêm thu buồn lắm chị Hằng(1) ơi
Trần thế(2) em nay chán nửa rồi.
Cung quế(3) đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa(4) xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám.
Tựa nhau trông xuống thế gian(5) cười.
Tản Đà(*) (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Tản Đà xuất thân là nhà nho, từng hai phen lều chõng đi thi nhưng không đỗ. Sau đó ông đã chuyển sang sáng tác văn chương quốc ngữ và sớm nổi tiếng, đặc biệt là vào những năm 20 của thế kỉ XX. Thơ ông tràn đầy cảm xúc lãng mạn, lại rất đậm đà bản sắc dân tộc và có những tìm tòi, sáng tạo mới mẻ. Có thể xem Tản Đà như một gạch nối giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam. Ngoài thơ, Tản Đà còn viết văn xuôi và cũng nổi tiếng với những bài tản văn, tùy bút, tự truyện, những thiên du kí viễn tưởng đặc sắc. Tác phẩm chính: Khối tình con I, II (thơ, 1917), Giấc mộng con I (tiểu thuyết, 1917), Thề non nước (tiểu thuyết, 1920), Giấc mộng con II (du kí, 1932), Giấc mộng lớn (tự truyện, 1932).
Bài thơ Muốn làm thằng Cuội nằm trong quyển Khối tình con I, xuất bản năm 1917. (Thằng Cuội: nhân vật ở trên cung trăng, theo truyền thuyết dân gian).
(1) Chị Hằng: tức Hằng Nga, chỉ mặt trăng.
(2) Trần thế (có bản chép trần giới): cõi đời.
(3) Cung quế: theo thần thoại Trung Quốc, trên cung trăng có cây quế, do đó trăng còn được gọi là cung quế.
(4) Cành đa: theo thần thoại Trung Quốc và Việt Nam, trên mặt trăng có cây đa và thằng Cuội ngồi dưới gốc cây đa đó.
(5) Thế gian (cũng giống như trần gian): cõi đời, nơi người ở; người đời.
Tiếng cười ở cuối bài thơ có ý nghĩa gì?
MUỐN LÀM THẰNG CUỘI
Đêm thu buồn lắm chị Hằng(1) ơi
Trần thế(2) em nay chán nửa rồi.
Cung quế(3) đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa(4) xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám.
Tựa nhau trông xuống thế gian(5) cười.
Tản Đà(*) (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Tản Đà xuất thân là nhà nho, từng hai phen lều chõng đi thi nhưng không đỗ. Sau đó ông đã chuyển sang sáng tác văn chương quốc ngữ và sớm nổi tiếng, đặc biệt là vào những năm 20 của thế kỉ XX. Thơ ông tràn đầy cảm xúc lãng mạn, lại rất đậm đà bản sắc dân tộc và có những tìm tòi, sáng tạo mới mẻ. Có thể xem Tản Đà như một gạch nối giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam. Ngoài thơ, Tản Đà còn viết văn xuôi và cũng nổi tiếng với những bài tản văn, tùy bút, tự truyện, những thiên du kí viễn tưởng đặc sắc. Tác phẩm chính: Khối tình con I, II (thơ, 1917), Giấc mộng con I (tiểu thuyết, 1917), Thề non nước (tiểu thuyết, 1920), Giấc mộng con II (du kí, 1932), Giấc mộng lớn (tự truyện, 1932).
Bài thơ Muốn làm thằng Cuội nằm trong quyển Khối tình con I, xuất bản năm 1917. (Thằng Cuội: nhân vật ở trên cung trăng, theo truyền thuyết dân gian).
(1) Chị Hằng: tức Hằng Nga, chỉ mặt trăng.
(2) Trần thế (có bản chép trần giới): cõi đời.
(3) Cung quế: theo thần thoại Trung Quốc, trên cung trăng có cây quế, do đó trăng còn được gọi là cung quế.
(4) Cành đa: theo thần thoại Trung Quốc và Việt Nam, trên mặt trăng có cây đa và thằng Cuội ngồi dưới gốc cây đa đó.
(5) Thế gian (cũng giống như trần gian): cõi đời, nơi người ở; người đời.
Nhận định nào không nói lên đặc sắc về mặt nghệ thuật của bài thơ?
Gạch dưới những cụm từ thể hiện tâm trạng thỏa thuê, quên hết nỗi buồn khổ trần gian trong hai câu thơ sau:
Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.
Đại từ xưng hô giữa Tản Đà và Hằng Nga là gì?
Hoài Thanh nhận xét Tản Đà là
Nguyễn Khắc Hiếu lấy bút danh là Tản Đà thể hiện:
Bài thơ được sáng tác trong giai đoạn nào?
Vì sao nhà thơ muốn làm thằng Cuội?
Tác giả nào sau đây sáng tác vào giai đoạn đầu thế kỉ XX?
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây