Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
NGẪU NHIÊN VIẾT NHÂN BUỔI MỚI VỀ QUÊ
(Hồi hương ngẫu thư)
Phiên âm
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
(Hạ Tri Chương(*))
Dịch nghĩa
Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về,
Giọng quê không đổi, nhưng tóc mai đã rụng
Trẻ con gặp mặt, không quen biết,
Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến?
(Hồi: trở về, hương: làng, quê hương, ngẫu: tình cờ, ngẫu nhiên, thư: chép, viết, ghi lại.
Thiếu: trẻ, tiểu: nhỏ, li: xa, rời, gia: nhà, lão: già, đại: lớn.
Âm: tiếng, giọng nói, vô: không, cải: đổi, mấn mao: tóc mai, tồi: hỏng, rơi rụng.
Nhi đồng: trẻ con, tương: cùng nhau, kiến: thấy, bất: không, thức: biết, quen nhau.
Tiếu: cười, vấn: hỏi, khách: khách, người ở nơi khác đến, tòng: từ, hà xứ: nơi nào, lai: tới, đến).
Dịch thơ:
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
(Phạm Sĩ Vĩ dịch, trong Thơ Đường, tập I,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Trẻ đi, già trở lại nhà
Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu
Gặp nhau mà chẳng biết nhau
Trẻ cười hỏi: "Khách từ đâu đến làng?"
(Trần Trọng San dịch, trong Thơ Đường, tập I,
Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1966)
Chú thích:
(*) Hạ Tri Chương (659 - 744), tự Quý Chân, hiệu Tứ Minh cuồng khách, quê ở Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay thuộc huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang), đỗ tiến sĩ năm 695, sinh sống, học tập và làm quan trên 50 năm ở kinh đô Trường An, rất được Đường Huyền Tông vị nể. Lúc xin từ quan về quê làm đạo sĩ, vua có tặng thơ, thái tử và các quan đều đưa tiễn. Ông là bạn vong niên (bạn chơi với nhau không kể tuổi chênh lệch) của thi hào Lí Bạch, từng gọi là Lí Bạch là "trích tiên" (tiên bị đày). Thích uống rượu, tính tình hào phóng, ông còn để lại 20 bài thơ, trong đó hai bài Hồi hương ngẫu thư là bài nổi tiếng nhất. Bài được chọn để học là bài 1.
Bài thơ Hồi hương ngẫu thư của tác giả nào?
NGẪU NHIÊN VIẾT NHÂN BUỔI MỚI VỀ QUÊ
(Hồi hương ngẫu thư)
Phiên âm
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
(Hạ Tri Chương(*))
Dịch nghĩa
Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về,
Giọng quê không đổi, nhưng tóc mai đã rụng
Trẻ con gặp mặt, không quen biết,
Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến?
(Hồi: trở về, hương: làng, quê hương, ngẫu: tình cờ, ngẫu nhiên, thư: chép, viết, ghi lại.
Thiếu: trẻ, tiểu: nhỏ, li: xa, rời, gia: nhà, lão: già, đại: lớn.
Âm: tiếng, giọng nói, vô: không, cải: đổi, mấn mao: tóc mai, tồi: hỏng, rơi rụng.
Nhi đồng: trẻ con, tương: cùng nhau, kiến: thấy, bất: không, thức: biết, quen nhau.
Tiếu: cười, vấn: hỏi, khách: khách, người ở nơi khác đến, tòng: từ, hà xứ: nơi nào, lai: tới, đến).
Dịch thơ:
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
(Phạm Sĩ Vĩ dịch, trong Thơ Đường, tập I,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Trẻ đi, già trở lại nhà
Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu
Gặp nhau mà chẳng biết nhau
Trẻ cười hỏi: "Khách từ đâu đến làng?"
(Trần Trọng San dịch, trong Thơ Đường, tập I,
Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1966)
Chú thích:
(*) Hạ Tri Chương (659 - 744), tự Quý Chân, hiệu Tứ Minh cuồng khách, quê ở Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay thuộc huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang), đỗ tiến sĩ năm 695, sinh sống, học tập và làm quan trên 50 năm ở kinh đô Trường An, rất được Đường Huyền Tông vị nể. Lúc xin từ quan về quê làm đạo sĩ, vua có tặng thơ, thái tử và các quan đều đưa tiễn. Ông là bạn vong niên (bạn chơi với nhau không kể tuổi chênh lệch) của thi hào Lí Bạch, từng gọi là Lí Bạch là "trích tiên" (tiên bị đày). Thích uống rượu, tính tình hào phóng, ông còn để lại 20 bài thơ, trong đó hai bài Hồi hương ngẫu thư là bài nổi tiếng nhất. Bài được chọn để học là bài 1.
Bài thơ được viết theo thể thơ nào?
NGẪU NHIÊN VIẾT NHÂN BUỔI MỚI VỀ QUÊ
(Hồi hương ngẫu thư)
Phiên âm
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
(Hạ Tri Chương(*))
Dịch nghĩa
Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về,
Giọng quê không đổi, nhưng tóc mai đã rụng
Trẻ con gặp mặt, không quen biết,
Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến?
(Hồi: trở về, hương: làng, quê hương, ngẫu: tình cờ, ngẫu nhiên, thư: chép, viết, ghi lại.
Thiếu: trẻ, tiểu: nhỏ, li: xa, rời, gia: nhà, lão: già, đại: lớn.
Âm: tiếng, giọng nói, vô: không, cải: đổi, mấn mao: tóc mai, tồi: hỏng, rơi rụng.
Nhi đồng: trẻ con, tương: cùng nhau, kiến: thấy, bất: không, thức: biết, quen nhau.
Tiếu: cười, vấn: hỏi, khách: khách, người ở nơi khác đến, tòng: từ, hà xứ: nơi nào, lai: tới, đến).
Dịch thơ:
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
(Phạm Sĩ Vĩ dịch, trong Thơ Đường, tập I,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Trẻ đi, già trở lại nhà
Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu
Gặp nhau mà chẳng biết nhau
Trẻ cười hỏi: "Khách từ đâu đến làng?"
(Trần Trọng San dịch, trong Thơ Đường, tập I,
Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1966)
Chú thích:
(*) Hạ Tri Chương (659 - 744), tự Quý Chân, hiệu Tứ Minh cuồng khách, quê ở Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay thuộc huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang), đỗ tiến sĩ năm 695, sinh sống, học tập và làm quan trên 50 năm ở kinh đô Trường An, rất được Đường Huyền Tông vị nể. Lúc xin từ quan về quê làm đạo sĩ, vua có tặng thơ, thái tử và các quan đều đưa tiễn. Ông là bạn vong niên (bạn chơi với nhau không kể tuổi chênh lệch) của thi hào Lí Bạch, từng gọi là Lí Bạch là "trích tiên" (tiên bị đày). Thích uống rượu, tính tình hào phóng, ông còn để lại 20 bài thơ, trong đó hai bài Hồi hương ngẫu thư là bài nổi tiếng nhất. Bài được chọn để học là bài 1.
Nhan đề Hồi hương ngẫu thư được dịch là
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
NGẪU NHIÊN VIẾT NHÂN BUỔI MỚI VỀ QUÊ
(Hồi hương ngẫu thư)
Phiên âm
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
(Hạ Tri Chương(*))
Dịch nghĩa
Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về,
Giọng quê không đổi, nhưng tóc mai đã rụng
Trẻ con gặp mặt, không quen biết,
Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến?
(Hồi: trở về, hương: làng, quê hương, ngẫu: tình cờ, ngẫu nhiên, thư: chép, viết, ghi lại.
Thiếu: trẻ, tiểu: nhỏ, li: xa, rời, gia: nhà, lão: già, đại: lớn.
Âm: tiếng, giọng nói, vô: không, cải: đổi, mấn mao: tóc mai, tồi: hỏng, rơi rụng.
Nhi đồng: trẻ con, tương: cùng nhau, kiến: thấy, bất: không, thức: biết, quen nhau.
Tiếu: cười, vấn: hỏi, khách: khách, người ở nơi khác đến, tòng: từ, hà xứ: nơi nào, lai: tới, đến).
Dịch thơ:
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
(Phạm Sĩ Vĩ dịch, trong Thơ Đường, tập I,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Trẻ đi, già trở lại nhà
Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu
Gặp nhau mà chẳng biết nhau
Trẻ cười hỏi: "Khách từ đâu đến làng?"
(Trần Trọng San dịch, trong Thơ Đường, tập I,
Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1966)
Chú thích:
(*) Hạ Tri Chương (659 - 744), tự Quý Chân, hiệu Tứ Minh cuồng khách, quê ở Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay thuộc huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang), đỗ tiến sĩ năm 695, sinh sống, học tập và làm quan trên 50 năm ở kinh đô Trường An, rất được Đường Huyền Tông vị nể. Lúc xin từ quan về quê làm đạo sĩ, vua có tặng thơ, thái tử và các quan đều đưa tiễn. Ông là bạn vong niên (bạn chơi với nhau không kể tuổi chênh lệch) của thi hào Lí Bạch, từng gọi là Lí Bạch là "trích tiên" (tiên bị đày). Thích uống rượu, tính tình hào phóng, ông còn để lại 20 bài thơ, trong đó hai bài Hồi hương ngẫu thư là bài nổi tiếng nhất. Bài được chọn để học là bài 1.
Bài thơ Hồi hương ngẫu thư được tác giả viết trong hoàn cảnh nào?
NGẪU NHIÊN VIẾT NHÂN BUỔI MỚI VỀ QUÊ
(Hồi hương ngẫu thư)
Phiên âm
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
(Hạ Tri Chương(*))
Dịch nghĩa
Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về,
Giọng quê không đổi, nhưng tóc mai đã rụng
Trẻ con gặp mặt, không quen biết,
Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến?
(Hồi: trở về, hương: làng, quê hương, ngẫu: tình cờ, ngẫu nhiên, thư: chép, viết, ghi lại.
Thiếu: trẻ, tiểu: nhỏ, li: xa, rời, gia: nhà, lão: già, đại: lớn.
Âm: tiếng, giọng nói, vô: không, cải: đổi, mấn mao: tóc mai, tồi: hỏng, rơi rụng.
Nhi đồng: trẻ con, tương: cùng nhau, kiến: thấy, bất: không, thức: biết, quen nhau.
Tiếu: cười, vấn: hỏi, khách: khách, người ở nơi khác đến, tòng: từ, hà xứ: nơi nào, lai: tới, đến).
Dịch thơ:
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
(Phạm Sĩ Vĩ dịch, trong Thơ Đường, tập I,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Trẻ đi, già trở lại nhà
Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu
Gặp nhau mà chẳng biết nhau
Trẻ cười hỏi: "Khách từ đâu đến làng?"
(Trần Trọng San dịch, trong Thơ Đường, tập I,
Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1966)
Chú thích:
(*) Hạ Tri Chương (659 - 744), tự Quý Chân, hiệu Tứ Minh cuồng khách, quê ở Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay thuộc huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang), đỗ tiến sĩ năm 695, sinh sống, học tập và làm quan trên 50 năm ở kinh đô Trường An, rất được Đường Huyền Tông vị nể. Lúc xin từ quan về quê làm đạo sĩ, vua có tặng thơ, thái tử và các quan đều đưa tiễn. Ông là bạn vong niên (bạn chơi với nhau không kể tuổi chênh lệch) của thi hào Lí Bạch, từng gọi là Lí Bạch là "trích tiên" (tiên bị đày). Thích uống rượu, tính tình hào phóng, ông còn để lại 20 bài thơ, trong đó hai bài Hồi hương ngẫu thư là bài nổi tiếng nhất. Bài được chọn để học là bài 1.
Tình huống biểu đạt nỗi nhớ quê hương của Hạ Tri Chương trong bài giống với bài nào của tác giả nào em đã được học?
NGẪU NHIÊN VIẾT NHÂN BUỔI MỚI VỀ QUÊ
(Hồi hương ngẫu thư)
Phiên âm
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
(Hạ Tri Chương(*))
Dịch nghĩa
Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về,
Giọng quê không đổi, nhưng tóc mai đã rụng
Trẻ con gặp mặt, không quen biết,
Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến?
(Hồi: trở về, hương: làng, quê hương, ngẫu: tình cờ, ngẫu nhiên, thư: chép, viết, ghi lại.
Thiếu: trẻ, tiểu: nhỏ, li: xa, rời, gia: nhà, lão: già, đại: lớn.
Âm: tiếng, giọng nói, vô: không, cải: đổi, mấn mao: tóc mai, tồi: hỏng, rơi rụng.
Nhi đồng: trẻ con, tương: cùng nhau, kiến: thấy, bất: không, thức: biết, quen nhau.
Tiếu: cười, vấn: hỏi, khách: khách, người ở nơi khác đến, tòng: từ, hà xứ: nơi nào, lai: tới, đến).
Dịch thơ:
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
(Phạm Sĩ Vĩ dịch, trong Thơ Đường, tập I,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Trẻ đi, già trở lại nhà
Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu
Gặp nhau mà chẳng biết nhau
Trẻ cười hỏi: "Khách từ đâu đến làng?"
(Trần Trọng San dịch, trong Thơ Đường, tập I,
Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1966)
Chú thích:
(*) Hạ Tri Chương (659 - 744), tự Quý Chân, hiệu Tứ Minh cuồng khách, quê ở Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay thuộc huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang), đỗ tiến sĩ năm 695, sinh sống, học tập và làm quan trên 50 năm ở kinh đô Trường An, rất được Đường Huyền Tông vị nể. Lúc xin từ quan về quê làm đạo sĩ, vua có tặng thơ, thái tử và các quan đều đưa tiễn. Ông là bạn vong niên (bạn chơi với nhau không kể tuổi chênh lệch) của thi hào Lí Bạch, từng gọi là Lí Bạch là "trích tiên" (tiên bị đày). Thích uống rượu, tính tình hào phóng, ông còn để lại 20 bài thơ, trong đó hai bài Hồi hương ngẫu thư là bài nổi tiếng nhất. Bài được chọn để học là bài 1.
Sắp xếp các dòng thơ sau để hoàn thành phần phiên âm của bài:
- Hương âm vô cải, mấn mao tồi
- Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
- Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
- Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
NGẪU NHIÊN VIẾT NHÂN BUỔI MỚI VỀ QUÊ
(Hồi hương ngẫu thư)
Phiên âm
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
(Hạ Tri Chương(*))
Dịch nghĩa
Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về,
Giọng quê không đổi, nhưng tóc mai đã rụng
Trẻ con gặp mặt, không quen biết,
Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến?
(Hồi: trở về, hương: làng, quê hương, ngẫu: tình cờ, ngẫu nhiên, thư: chép, viết, ghi lại.
Thiếu: trẻ, tiểu: nhỏ, li: xa, rời, gia: nhà, lão: già, đại: lớn.
Âm: tiếng, giọng nói, vô: không, cải: đổi, mấn mao: tóc mai, tồi: hỏng, rơi rụng.
Nhi đồng: trẻ con, tương: cùng nhau, kiến: thấy, bất: không, thức: biết, quen nhau.
Tiếu: cười, vấn: hỏi, khách: khách, người ở nơi khác đến, tòng: từ, hà xứ: nơi nào, lai: tới, đến).
Dịch thơ:
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
(Phạm Sĩ Vĩ dịch, trong Thơ Đường, tập I,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Trẻ đi, già trở lại nhà
Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu
Gặp nhau mà chẳng biết nhau
Trẻ cười hỏi: "Khách từ đâu đến làng?"
(Trần Trọng San dịch, trong Thơ Đường, tập I,
Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1966)
Chú thích:
(*) Hạ Tri Chương (659 - 744), tự Quý Chân, hiệu Tứ Minh cuồng khách, quê ở Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay thuộc huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang), đỗ tiến sĩ năm 695, sinh sống, học tập và làm quan trên 50 năm ở kinh đô Trường An, rất được Đường Huyền Tông vị nể. Lúc xin từ quan về quê làm đạo sĩ, vua có tặng thơ, thái tử và các quan đều đưa tiễn. Ông là bạn vong niên (bạn chơi với nhau không kể tuổi chênh lệch) của thi hào Lí Bạch, từng gọi là Lí Bạch là "trích tiên" (tiên bị đày). Thích uống rượu, tính tình hào phóng, ông còn để lại 20 bài thơ, trong đó hai bài Hồi hương ngẫu thư là bài nổi tiếng nhất. Bài được chọn để học là bài 1.
Ghép các dòng thơ phiên âm với dịch thơ tương ứng:
NGẪU NHIÊN VIẾT NHÂN BUỔI MỚI VỀ QUÊ
(Hồi hương ngẫu thư)
Phiên âm
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
(Hạ Tri Chương(*))
Dịch nghĩa
Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về,
Giọng quê không đổi, nhưng tóc mai đã rụng
Trẻ con gặp mặt, không quen biết,
Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến?
(Hồi: trở về, hương: làng, quê hương, ngẫu: tình cờ, ngẫu nhiên, thư: chép, viết, ghi lại.
Thiếu: trẻ, tiểu: nhỏ, li: xa, rời, gia: nhà, lão: già, đại: lớn.
Âm: tiếng, giọng nói, vô: không, cải: đổi, mấn mao: tóc mai, tồi: hỏng, rơi rụng.
Nhi đồng: trẻ con, tương: cùng nhau, kiến: thấy, bất: không, thức: biết, quen nhau.
Tiếu: cười, vấn: hỏi, khách: khách, người ở nơi khác đến, tòng: từ, hà xứ: nơi nào, lai: tới, đến).
Dịch thơ:
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
(Phạm Sĩ Vĩ dịch, trong Thơ Đường, tập I,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Trẻ đi, già trở lại nhà
Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu
Gặp nhau mà chẳng biết nhau
Trẻ cười hỏi: "Khách từ đâu đến làng?"
(Trần Trọng San dịch, trong Thơ Đường, tập I,
Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1966)
Chú thích:
(*) Hạ Tri Chương (659 - 744), tự Quý Chân, hiệu Tứ Minh cuồng khách, quê ở Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay thuộc huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang), đỗ tiến sĩ năm 695, sinh sống, học tập và làm quan trên 50 năm ở kinh đô Trường An, rất được Đường Huyền Tông vị nể. Lúc xin từ quan về quê làm đạo sĩ, vua có tặng thơ, thái tử và các quan đều đưa tiễn. Ông là bạn vong niên (bạn chơi với nhau không kể tuổi chênh lệch) của thi hào Lí Bạch, từng gọi là Lí Bạch là "trích tiên" (tiên bị đày). Thích uống rượu, tính tình hào phóng, ông còn để lại 20 bài thơ, trong đó hai bài Hồi hương ngẫu thư là bài nổi tiếng nhất. Bài được chọn để học là bài 1.
Câu thơ "Hương âm vô cải mấn mao tồi" được dịch nghĩa là
NGẪU NHIÊN VIẾT NHÂN BUỔI MỚI VỀ QUÊ
(Hồi hương ngẫu thư)
Phiên âm
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
(Hạ Tri Chương(*))
Dịch nghĩa
Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về,
Giọng quê không đổi, nhưng tóc mai đã rụng
Trẻ con gặp mặt, không quen biết,
Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến?
(Hồi: trở về, hương: làng, quê hương, ngẫu: tình cờ, ngẫu nhiên, thư: chép, viết, ghi lại.
Thiếu: trẻ, tiểu: nhỏ, li: xa, rời, gia: nhà, lão: già, đại: lớn.
Âm: tiếng, giọng nói, vô: không, cải: đổi, mấn mao: tóc mai, tồi: hỏng, rơi rụng.
Nhi đồng: trẻ con, tương: cùng nhau, kiến: thấy, bất: không, thức: biết, quen nhau.
Tiếu: cười, vấn: hỏi, khách: khách, người ở nơi khác đến, tòng: từ, hà xứ: nơi nào, lai: tới, đến).
Dịch thơ:
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
(Phạm Sĩ Vĩ dịch, trong Thơ Đường, tập I,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Trẻ đi, già trở lại nhà
Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu
Gặp nhau mà chẳng biết nhau
Trẻ cười hỏi: "Khách từ đâu đến làng?"
(Trần Trọng San dịch, trong Thơ Đường, tập I,
Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1966)
Chú thích:
(*) Hạ Tri Chương (659 - 744), tự Quý Chân, hiệu Tứ Minh cuồng khách, quê ở Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay thuộc huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang), đỗ tiến sĩ năm 695, sinh sống, học tập và làm quan trên 50 năm ở kinh đô Trường An, rất được Đường Huyền Tông vị nể. Lúc xin từ quan về quê làm đạo sĩ, vua có tặng thơ, thái tử và các quan đều đưa tiễn. Ông là bạn vong niên (bạn chơi với nhau không kể tuổi chênh lệch) của thi hào Lí Bạch, từng gọi là Lí Bạch là "trích tiên" (tiên bị đày). Thích uống rượu, tính tình hào phóng, ông còn để lại 20 bài thơ, trong đó hai bài Hồi hương ngẫu thư là bài nổi tiếng nhất. Bài được chọn để học là bài 1.
Từ không đồng nghĩa với từ "nhi đồng" là
NGẪU NHIÊN VIẾT NHÂN BUỔI MỚI VỀ QUÊ
(Hồi hương ngẫu thư)
Phiên âm
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
(Hạ Tri Chương(*))
Dịch nghĩa
Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về,
Giọng quê không đổi, nhưng tóc mai đã rụng
Trẻ con gặp mặt, không quen biết,
Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến?
(Hồi: trở về, hương: làng, quê hương, ngẫu: tình cờ, ngẫu nhiên, thư: chép, viết, ghi lại.
Thiếu: trẻ, tiểu: nhỏ, li: xa, rời, gia: nhà, lão: già, đại: lớn.
Âm: tiếng, giọng nói, vô: không, cải: đổi, mấn mao: tóc mai, tồi: hỏng, rơi rụng.
Nhi đồng: trẻ con, tương: cùng nhau, kiến: thấy, bất: không, thức: biết, quen nhau.
Tiếu: cười, vấn: hỏi, khách: khách, người ở nơi khác đến, tòng: từ, hà xứ: nơi nào, lai: tới, đến).
Dịch thơ:
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
(Phạm Sĩ Vĩ dịch, trong Thơ Đường, tập I,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Trẻ đi, già trở lại nhà
Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu
Gặp nhau mà chẳng biết nhau
Trẻ cười hỏi: "Khách từ đâu đến làng?"
(Trần Trọng San dịch, trong Thơ Đường, tập I,
Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1966)
Chú thích:
(*) Hạ Tri Chương (659 - 744), tự Quý Chân, hiệu Tứ Minh cuồng khách, quê ở Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay thuộc huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang), đỗ tiến sĩ năm 695, sinh sống, học tập và làm quan trên 50 năm ở kinh đô Trường An, rất được Đường Huyền Tông vị nể. Lúc xin từ quan về quê làm đạo sĩ, vua có tặng thơ, thái tử và các quan đều đưa tiễn. Ông là bạn vong niên (bạn chơi với nhau không kể tuổi chênh lệch) của thi hào Lí Bạch, từng gọi là Lí Bạch là "trích tiên" (tiên bị đày). Thích uống rượu, tính tình hào phóng, ông còn để lại 20 bài thơ, trong đó hai bài Hồi hương ngẫu thư là bài nổi tiếng nhất. Bài được chọn để học là bài 1.
Tâm trạng của tác giả trong bài thơ Hồi hương ngẫu thư là gì?
NGẪU NHIÊN VIẾT NHÂN BUỔI MỚI VỀ QUÊ
(Hồi hương ngẫu thư)
Phiên âm
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
(Hạ Tri Chương(*))
Dịch nghĩa
Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về,
Giọng quê không đổi, nhưng tóc mai đã rụng
Trẻ con gặp mặt, không quen biết,
Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến?
(Hồi: trở về, hương: làng, quê hương, ngẫu: tình cờ, ngẫu nhiên, thư: chép, viết, ghi lại.
Thiếu: trẻ, tiểu: nhỏ, li: xa, rời, gia: nhà, lão: già, đại: lớn.
Âm: tiếng, giọng nói, vô: không, cải: đổi, mấn mao: tóc mai, tồi: hỏng, rơi rụng.
Nhi đồng: trẻ con, tương: cùng nhau, kiến: thấy, bất: không, thức: biết, quen nhau.
Tiếu: cười, vấn: hỏi, khách: khách, người ở nơi khác đến, tòng: từ, hà xứ: nơi nào, lai: tới, đến).
Dịch thơ:
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
(Phạm Sĩ Vĩ dịch, trong Thơ Đường, tập I,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Trẻ đi, già trở lại nhà
Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu
Gặp nhau mà chẳng biết nhau
Trẻ cười hỏi: "Khách từ đâu đến làng?"
(Trần Trọng San dịch, trong Thơ Đường, tập I,
Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1966)
Chú thích:
(*) Hạ Tri Chương (659 - 744), tự Quý Chân, hiệu Tứ Minh cuồng khách, quê ở Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay thuộc huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang), đỗ tiến sĩ năm 695, sinh sống, học tập và làm quan trên 50 năm ở kinh đô Trường An, rất được Đường Huyền Tông vị nể. Lúc xin từ quan về quê làm đạo sĩ, vua có tặng thơ, thái tử và các quan đều đưa tiễn. Ông là bạn vong niên (bạn chơi với nhau không kể tuổi chênh lệch) của thi hào Lí Bạch, từng gọi là Lí Bạch là "trích tiên" (tiên bị đày). Thích uống rượu, tính tình hào phóng, ông còn để lại 20 bài thơ, trong đó hai bài Hồi hương ngẫu thư là bài nổi tiếng nhất. Bài được chọn để học là bài 1.
Gạch chân dưới cặp từ không phải là cặp từ trái nghĩa:
Trẻ - già.
Sáng - tối.
Sang - hèn.
Chạy - nhảy.
NGẪU NHIÊN VIẾT NHÂN BUỔI MỚI VỀ QUÊ
(Hồi hương ngẫu thư)
Phiên âm
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
(Hạ Tri Chương(*))
Dịch nghĩa
Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về,
Giọng quê không đổi, nhưng tóc mai đã rụng
Trẻ con gặp mặt, không quen biết,
Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến?
(Hồi: trở về, hương: làng, quê hương, ngẫu: tình cờ, ngẫu nhiên, thư: chép, viết, ghi lại.
Thiếu: trẻ, tiểu: nhỏ, li: xa, rời, gia: nhà, lão: già, đại: lớn.
Âm: tiếng, giọng nói, vô: không, cải: đổi, mấn mao: tóc mai, tồi: hỏng, rơi rụng.
Nhi đồng: trẻ con, tương: cùng nhau, kiến: thấy, bất: không, thức: biết, quen nhau.
Tiếu: cười, vấn: hỏi, khách: khách, người ở nơi khác đến, tòng: từ, hà xứ: nơi nào, lai: tới, đến).
Dịch thơ:
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
(Phạm Sĩ Vĩ dịch, trong Thơ Đường, tập I,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Trẻ đi, già trở lại nhà
Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu
Gặp nhau mà chẳng biết nhau
Trẻ cười hỏi: "Khách từ đâu đến làng?"
(Trần Trọng San dịch, trong Thơ Đường, tập I,
Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1966)
Chú thích:
(*) Hạ Tri Chương (659 - 744), tự Quý Chân, hiệu Tứ Minh cuồng khách, quê ở Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay thuộc huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang), đỗ tiến sĩ năm 695, sinh sống, học tập và làm quan trên 50 năm ở kinh đô Trường An, rất được Đường Huyền Tông vị nể. Lúc xin từ quan về quê làm đạo sĩ, vua có tặng thơ, thái tử và các quan đều đưa tiễn. Ông là bạn vong niên (bạn chơi với nhau không kể tuổi chênh lệch) của thi hào Lí Bạch, từng gọi là Lí Bạch là "trích tiên" (tiên bị đày). Thích uống rượu, tính tình hào phóng, ông còn để lại 20 bài thơ, trong đó hai bài Hồi hương ngẫu thư là bài nổi tiếng nhất. Bài được chọn để học là bài 1.
Vì sao "Trẻ con nhìn lạ không chào / Hỏi rằng: khách ở chốn nào tới chơi?"
NGẪU NHIÊN VIẾT NHÂN BUỔI MỚI VỀ QUÊ
(Hồi hương ngẫu thư)
Phiên âm
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
(Hạ Tri Chương(*))
Dịch nghĩa
Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về,
Giọng quê không đổi, nhưng tóc mai đã rụng
Trẻ con gặp mặt, không quen biết,
Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến?
(Hồi: trở về, hương: làng, quê hương, ngẫu: tình cờ, ngẫu nhiên, thư: chép, viết, ghi lại.
Thiếu: trẻ, tiểu: nhỏ, li: xa, rời, gia: nhà, lão: già, đại: lớn.
Âm: tiếng, giọng nói, vô: không, cải: đổi, mấn mao: tóc mai, tồi: hỏng, rơi rụng.
Nhi đồng: trẻ con, tương: cùng nhau, kiến: thấy, bất: không, thức: biết, quen nhau.
Tiếu: cười, vấn: hỏi, khách: khách, người ở nơi khác đến, tòng: từ, hà xứ: nơi nào, lai: tới, đến).
Dịch thơ:
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
(Phạm Sĩ Vĩ dịch, trong Thơ Đường, tập I,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Trẻ đi, già trở lại nhà
Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu
Gặp nhau mà chẳng biết nhau
Trẻ cười hỏi: "Khách từ đâu đến làng?"
(Trần Trọng San dịch, trong Thơ Đường, tập I,
Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1966)
Chú thích:
(*) Hạ Tri Chương (659 - 744), tự Quý Chân, hiệu Tứ Minh cuồng khách, quê ở Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay thuộc huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang), đỗ tiến sĩ năm 695, sinh sống, học tập và làm quan trên 50 năm ở kinh đô Trường An, rất được Đường Huyền Tông vị nể. Lúc xin từ quan về quê làm đạo sĩ, vua có tặng thơ, thái tử và các quan đều đưa tiễn. Ông là bạn vong niên (bạn chơi với nhau không kể tuổi chênh lệch) của thi hào Lí Bạch, từng gọi là Lí Bạch là "trích tiên" (tiên bị đày). Thích uống rượu, tính tình hào phóng, ông còn để lại 20 bài thơ, trong đó hai bài Hồi hương ngẫu thư là bài nổi tiếng nhất. Bài được chọn để học là bài 1.
Cảm xúc của tác giả khi viết hai câu thơ cuối là gì?
NGẪU NHIÊN VIẾT NHÂN BUỔI MỚI VỀ QUÊ
(Hồi hương ngẫu thư)
Phiên âm
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
(Hạ Tri Chương(*))
Dịch nghĩa
Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về,
Giọng quê không đổi, nhưng tóc mai đã rụng
Trẻ con gặp mặt, không quen biết,
Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến?
(Hồi: trở về, hương: làng, quê hương, ngẫu: tình cờ, ngẫu nhiên, thư: chép, viết, ghi lại.
Thiếu: trẻ, tiểu: nhỏ, li: xa, rời, gia: nhà, lão: già, đại: lớn.
Âm: tiếng, giọng nói, vô: không, cải: đổi, mấn mao: tóc mai, tồi: hỏng, rơi rụng.
Nhi đồng: trẻ con, tương: cùng nhau, kiến: thấy, bất: không, thức: biết, quen nhau.
Tiếu: cười, vấn: hỏi, khách: khách, người ở nơi khác đến, tòng: từ, hà xứ: nơi nào, lai: tới, đến).
Dịch thơ:
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
(Phạm Sĩ Vĩ dịch, trong Thơ Đường, tập I,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Trẻ đi, già trở lại nhà
Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu
Gặp nhau mà chẳng biết nhau
Trẻ cười hỏi: "Khách từ đâu đến làng?"
(Trần Trọng San dịch, trong Thơ Đường, tập I,
Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1966)
Chú thích:
(*) Hạ Tri Chương (659 - 744), tự Quý Chân, hiệu Tứ Minh cuồng khách, quê ở Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay thuộc huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang), đỗ tiến sĩ năm 695, sinh sống, học tập và làm quan trên 50 năm ở kinh đô Trường An, rất được Đường Huyền Tông vị nể. Lúc xin từ quan về quê làm đạo sĩ, vua có tặng thơ, thái tử và các quan đều đưa tiễn. Ông là bạn vong niên (bạn chơi với nhau không kể tuổi chênh lệch) của thi hào Lí Bạch, từng gọi là Lí Bạch là "trích tiên" (tiên bị đày). Thích uống rượu, tính tình hào phóng, ông còn để lại 20 bài thơ, trong đó hai bài Hồi hương ngẫu thư là bài nổi tiếng nhất. Bài được chọn để học là bài 1.
Theo em, những đứa trẻ không nhận ra tác giả thì có đáng trách không?
NGẪU NHIÊN VIẾT NHÂN BUỔI MỚI VỀ QUÊ
(Hồi hương ngẫu thư)
Phiên âm
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
(Hạ Tri Chương(*))
Dịch nghĩa
Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về,
Giọng quê không đổi, nhưng tóc mai đã rụng
Trẻ con gặp mặt, không quen biết,
Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến?
(Hồi: trở về, hương: làng, quê hương, ngẫu: tình cờ, ngẫu nhiên, thư: chép, viết, ghi lại.
Thiếu: trẻ, tiểu: nhỏ, li: xa, rời, gia: nhà, lão: già, đại: lớn.
Âm: tiếng, giọng nói, vô: không, cải: đổi, mấn mao: tóc mai, tồi: hỏng, rơi rụng.
Nhi đồng: trẻ con, tương: cùng nhau, kiến: thấy, bất: không, thức: biết, quen nhau.
Tiếu: cười, vấn: hỏi, khách: khách, người ở nơi khác đến, tòng: từ, hà xứ: nơi nào, lai: tới, đến).
Dịch thơ:
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
(Phạm Sĩ Vĩ dịch, trong Thơ Đường, tập I,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Trẻ đi, già trở lại nhà
Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu
Gặp nhau mà chẳng biết nhau
Trẻ cười hỏi: "Khách từ đâu đến làng?"
(Trần Trọng San dịch, trong Thơ Đường, tập I,
Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1966)
Chú thích:
(*) Hạ Tri Chương (659 - 744), tự Quý Chân, hiệu Tứ Minh cuồng khách, quê ở Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay thuộc huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang), đỗ tiến sĩ năm 695, sinh sống, học tập và làm quan trên 50 năm ở kinh đô Trường An, rất được Đường Huyền Tông vị nể. Lúc xin từ quan về quê làm đạo sĩ, vua có tặng thơ, thái tử và các quan đều đưa tiễn. Ông là bạn vong niên (bạn chơi với nhau không kể tuổi chênh lệch) của thi hào Lí Bạch, từng gọi là Lí Bạch là "trích tiên" (tiên bị đày). Thích uống rượu, tính tình hào phóng, ông còn để lại 20 bài thơ, trong đó hai bài Hồi hương ngẫu thư là bài nổi tiếng nhất. Bài được chọn để học là bài 1.
Gạch chân dưới từ chứa tiếng "hồi" không cùng nghĩa với các từ còn lại:
hồi hương
hồi hộp
hồi âm
hồi cư
NGẪU NHIÊN VIẾT NHÂN BUỔI MỚI VỀ QUÊ
(Hồi hương ngẫu thư)
Phiên âm
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
(Hạ Tri Chương(*))
Dịch nghĩa
Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về,
Giọng quê không đổi, nhưng tóc mai đã rụng
Trẻ con gặp mặt, không quen biết,
Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến?
(Hồi: trở về, hương: làng, quê hương, ngẫu: tình cờ, ngẫu nhiên, thư: chép, viết, ghi lại.
Thiếu: trẻ, tiểu: nhỏ, li: xa, rời, gia: nhà, lão: già, đại: lớn.
Âm: tiếng, giọng nói, vô: không, cải: đổi, mấn mao: tóc mai, tồi: hỏng, rơi rụng.
Nhi đồng: trẻ con, tương: cùng nhau, kiến: thấy, bất: không, thức: biết, quen nhau.
Tiếu: cười, vấn: hỏi, khách: khách, người ở nơi khác đến, tòng: từ, hà xứ: nơi nào, lai: tới, đến).
Dịch thơ:
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
(Phạm Sĩ Vĩ dịch, trong Thơ Đường, tập I,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Trẻ đi, già trở lại nhà
Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu
Gặp nhau mà chẳng biết nhau
Trẻ cười hỏi: "Khách từ đâu đến làng?"
(Trần Trọng San dịch, trong Thơ Đường, tập I,
Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1966)
Chú thích:
(*) Hạ Tri Chương (659 - 744), tự Quý Chân, hiệu Tứ Minh cuồng khách, quê ở Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay thuộc huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang), đỗ tiến sĩ năm 695, sinh sống, học tập và làm quan trên 50 năm ở kinh đô Trường An, rất được Đường Huyền Tông vị nể. Lúc xin từ quan về quê làm đạo sĩ, vua có tặng thơ, thái tử và các quan đều đưa tiễn. Ông là bạn vong niên (bạn chơi với nhau không kể tuổi chênh lệch) của thi hào Lí Bạch, từng gọi là Lí Bạch là "trích tiên" (tiên bị đày). Thích uống rượu, tính tình hào phóng, ông còn để lại 20 bài thơ, trong đó hai bài Hồi hương ngẫu thư là bài nổi tiếng nhất. Bài được chọn để học là bài 1.
Cặp từ nào sau đây không phải là cặp từ đối?
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây