Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
PHÒ GIÁ VỀ KINH
(Tụng giá hoàn kinh sư)
Phiên âm
Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.
(Trần Quang Khải(*))
Dịch nghĩa
Cướp giáo giặc ở bến Chương Dương
Bắt quân Hồ ở cửa Hàm Tử.
Thái bình rồi nên dốc sức lực,
Muôn đời vẫn có non sông này.
(Tụng: đi theo sau, giá: nghĩa gốc là buộc ngựa vào xe, nghĩa là xe vua đi, tụng giá: đi theo xe nhà vua, hoàn: trở về, kinh: kinh đô, thủ đô xưa, kinh sư: kinh đô một nước có vua. Đoạt: cướp lấy, sáo: giáo (một thứ vũ khí), Chương Dương: địa danh (xem chú thích (1)), độ: bến sông. Cầm: bắt, Hồ: từ do người Trung Quốc xưa dùng để chỉ các dân tộc thiểu số và ngoại tộc ở phía bắc với thái độ khinh miệt, ở đây dùng để chỉ giặc Mông - Nguyên, Hàm Tử: tên địa danh, quan: cửa ải. Thái bình: rất bình yên, tu: nên, trí: đem hết, dốc hết, lực: sức mạnh (có bản chép: nghi nỗ lực, có nghĩa là "nên cố sức"). Vạn: mười ngàn, cổ: xưa, thử: ấy, này, giang: sông, san: núi).
Dịch thơ
Chương Dương(1) cướp giáo giặc
Hàm Tử(2) bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
(Trần Trọng Kim dịch, trong Việt Nam sử lược,
NXB Tân Việt, Hà Nội, 1951)
Chú thích:
(*) Trần Quang Khải (1241 - 1294), con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông, được phong Thượng tướng, có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên (1284 - 1285; 1287 - 1288), đặc biệt là trong hai trận chiến thắng ở Hàm Tử và Chương Dương. Ông không chỉ là một võ tướng kiệt xuất, mà còn là người có những vần thơ "sâu xa lí thú" (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí).
Bài thơ Phò giá về kinh được làm lúc ông đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long (Hà Nội ngày nay) ngay sau chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm 1285. Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật, có cách gieo vần tương tự như ở thất ngôn tứ tuyệt.
(1) Chương Dương: bến sông nằm ở hữu ngạn sông Hồng, thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà tây (Nay thuộc Hà Nội). Chiến thắng Chương Dương diễn ra vào tháng 6 năm Ất Dậu (1285) do Trần Quang Khải chỉ huy.
(2) Hàm Tử: một địa điểm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trận Hàm Tử diễn ra vào tháng 4 năm Ất Dậu (1285) do Trần Nhật Duật chỉ huy với sự hỗ trợ đắc lực của Trần Quang Khải.
Bài thơ Phò giá về kinh được sáng tác bởi tác giả nào?
PHÒ GIÁ VỀ KINH
(Tụng giá hoàn kinh sư)
Phiên âm
Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.
(Trần Quang Khải(*))
Dịch nghĩa
Cướp giáo giặc ở bến Chương Dương
Bắt quân Hồ ở cửa Hàm Tử.
Thái bình rồi nên dốc sức lực,
Muôn đời vẫn có non sông này.
(Tụng: đi theo sau, giá: nghĩa gốc là buộc ngựa vào xe, nghĩa là xe vua đi, tụng giá: đi theo xe nhà vua, hoàn: trở về, kinh: kinh đô, thủ đô xưa, kinh sư: kinh đô một nước có vua. Đoạt: cướp lấy, sáo: giáo (một thứ vũ khí), Chương Dương: địa danh (xem chú thích (1)), độ: bến sông. Cầm: bắt, Hồ: từ do người Trung Quốc xưa dùng để chỉ các dân tộc thiểu số và ngoại tộc ở phía bắc với thái độ khinh miệt, ở đây dùng để chỉ giặc Mông - Nguyên, Hàm Tử: tên địa danh, quan: cửa ải. Thái bình: rất bình yên, tu: nên, trí: đem hết, dốc hết, lực: sức mạnh (có bản chép: nghi nỗ lực, có nghĩa là "nên cố sức"). Vạn: mười ngàn, cổ: xưa, thử: ấy, này, giang: sông, san: núi).
Dịch thơ
Chương Dương(1) cướp giáo giặc
Hàm Tử(2) bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
(Trần Trọng Kim dịch, trong Việt Nam sử lược,
NXB Tân Việt, Hà Nội, 1951)
Chú thích:
(*) Trần Quang Khải (1241 - 1294), con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông, được phong Thượng tướng, có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên (1284 - 1285; 1287 - 1288), đặc biệt là trong hai trận chiến thắng ở Hàm Tử và Chương Dương. Ông không chỉ là một võ tướng kiệt xuất, mà còn là người có những vần thơ "sâu xa lí thú" (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí).
Bài thơ Phò giá về kinh được làm lúc ông đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long (Hà Nội ngày nay) ngay sau chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm 1285. Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật, có cách gieo vần tương tự như ở thất ngôn tứ tuyệt.
(1) Chương Dương: bến sông nằm ở hữu ngạn sông Hồng, thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà tây (Nay thuộc Hà Nội). Chiến thắng Chương Dương diễn ra vào tháng 6 năm Ất Dậu (1285) do Trần Quang Khải chỉ huy.
(2) Hàm Tử: một địa điểm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trận Hàm Tử diễn ra vào tháng 4 năm Ất Dậu (1285) do Trần Nhật Duật chỉ huy với sự hỗ trợ đắc lực của Trần Quang Khải.
Bài thơ Phò giá về kinh có phiên âm Hán Việt là gì?
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Sắp xếp thứ tự các dòng thơ sau để được phần phiên âm bài thơ Phò giá về kinh:
- Thái bình tu trí lực,
- Đoạt sáo Chương Dương độ,
- Vạn cổ thử giang san.
- Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Sắp xếp thứ tự các dòng thơ sau để được phần dịch thơ bài Phò giá về kinh:
- Non nước ấy ngàn thu.
- Hàm Tử bắt quân thù
- Thái bình nên gắng sức
- Chương Dương cướp giáo giặc
PHÒ GIÁ VỀ KINH
(Tụng giá hoàn kinh sư)
Phiên âm
Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.
(Trần Quang Khải(*))
Dịch nghĩa
Cướp giáo giặc ở bến Chương Dương
Bắt quân Hồ ở cửa Hàm Tử.
Thái bình rồi nên dốc sức lực,
Muôn đời vẫn có non sông này.
(Tụng: đi theo sau, giá: nghĩa gốc là buộc ngựa vào xe, nghĩa là xe vua đi, tụng giá: đi theo xe nhà vua, hoàn: trở về, kinh: kinh đô, thủ đô xưa, kinh sư: kinh đô một nước có vua. Đoạt: cướp lấy, sáo: giáo (một thứ vũ khí), Chương Dương: địa danh (xem chú thích (1)), độ: bến sông. Cầm: bắt, Hồ: từ do người Trung Quốc xưa dùng để chỉ các dân tộc thiểu số và ngoại tộc ở phía bắc với thái độ khinh miệt, ở đây dùng để chỉ giặc Mông - Nguyên, Hàm Tử: tên địa danh, quan: cửa ải. Thái bình: rất bình yên, tu: nên, trí: đem hết, dốc hết, lực: sức mạnh (có bản chép: nghi nỗ lực, có nghĩa là "nên cố sức"). Vạn: mười ngàn, cổ: xưa, thử: ấy, này, giang: sông, san: núi).
Dịch thơ
Chương Dương(1) cướp giáo giặc
Hàm Tử(2) bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
(Trần Trọng Kim dịch, trong Việt Nam sử lược,
NXB Tân Việt, Hà Nội, 1951)
Chú thích:
(*) Trần Quang Khải (1241 - 1294), con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông, được phong Thượng tướng, có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên (1284 - 1285; 1287 - 1288), đặc biệt là trong hai trận chiến thắng ở Hàm Tử và Chương Dương. Ông không chỉ là một võ tướng kiệt xuất, mà còn là người có những vần thơ "sâu xa lí thú" (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí).
Bài thơ Phò giá về kinh được làm lúc ông đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long (Hà Nội ngày nay) ngay sau chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm 1285. Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật, có cách gieo vần tương tự như ở thất ngôn tứ tuyệt.
(1) Chương Dương: bến sông nằm ở hữu ngạn sông Hồng, thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà tây (Nay thuộc Hà Nội). Chiến thắng Chương Dương diễn ra vào tháng 6 năm Ất Dậu (1285) do Trần Quang Khải chỉ huy.
(2) Hàm Tử: một địa điểm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trận Hàm Tử diễn ra vào tháng 4 năm Ất Dậu (1285) do Trần Nhật Duật chỉ huy với sự hỗ trợ đắc lực của Trần Quang Khải.
Cách đưa tin chiến thắng trong hai câu đầu của bài Phò giá về kinh có gì đặc biệt?
PHÒ GIÁ VỀ KINH
(Tụng giá hoàn kinh sư)
Phiên âm
Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.
(Trần Quang Khải(*))
Dịch nghĩa
Cướp giáo giặc ở bến Chương Dương
Bắt quân Hồ ở cửa Hàm Tử.
Thái bình rồi nên dốc sức lực,
Muôn đời vẫn có non sông này.
(Tụng: đi theo sau, giá: nghĩa gốc là buộc ngựa vào xe, nghĩa là xe vua đi, tụng giá: đi theo xe nhà vua, hoàn: trở về, kinh: kinh đô, thủ đô xưa, kinh sư: kinh đô một nước có vua. Đoạt: cướp lấy, sáo: giáo (một thứ vũ khí), Chương Dương: địa danh (xem chú thích (1)), độ: bến sông. Cầm: bắt, Hồ: từ do người Trung Quốc xưa dùng để chỉ các dân tộc thiểu số và ngoại tộc ở phía bắc với thái độ khinh miệt, ở đây dùng để chỉ giặc Mông - Nguyên, Hàm Tử: tên địa danh, quan: cửa ải. Thái bình: rất bình yên, tu: nên, trí: đem hết, dốc hết, lực: sức mạnh (có bản chép: nghi nỗ lực, có nghĩa là "nên cố sức"). Vạn: mười ngàn, cổ: xưa, thử: ấy, này, giang: sông, san: núi).
Dịch thơ
Chương Dương(1) cướp giáo giặc
Hàm Tử(2) bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
(Trần Trọng Kim dịch, trong Việt Nam sử lược,
NXB Tân Việt, Hà Nội, 1951)
Chú thích:
(*) Trần Quang Khải (1241 - 1294), con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông, được phong Thượng tướng, có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên (1284 - 1285; 1287 - 1288), đặc biệt là trong hai trận chiến thắng ở Hàm Tử và Chương Dương. Ông không chỉ là một võ tướng kiệt xuất, mà còn là người có những vần thơ "sâu xa lí thú" (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí).
Bài thơ Phò giá về kinh được làm lúc ông đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long (Hà Nội ngày nay) ngay sau chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm 1285. Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật, có cách gieo vần tương tự như ở thất ngôn tứ tuyệt.
(1) Chương Dương: bến sông nằm ở hữu ngạn sông Hồng, thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà tây (Nay thuộc Hà Nội). Chiến thắng Chương Dương diễn ra vào tháng 6 năm Ất Dậu (1285) do Trần Quang Khải chỉ huy.
(2) Hàm Tử: một địa điểm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trận Hàm Tử diễn ra vào tháng 4 năm Ất Dậu (1285) do Trần Nhật Duật chỉ huy với sự hỗ trợ đắc lực của Trần Quang Khải.
Nhận xét nào sau đây đúng cho cả hai bài Sông núi nước Nam và Phò giá về kinh?
PHÒ GIÁ VỀ KINH
(Tụng giá hoàn kinh sư)
Phiên âm
Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.
(Trần Quang Khải(*))
Dịch nghĩa
Cướp giáo giặc ở bến Chương Dương
Bắt quân Hồ ở cửa Hàm Tử.
Thái bình rồi nên dốc sức lực,
Muôn đời vẫn có non sông này.
(Tụng: đi theo sau, giá: nghĩa gốc là buộc ngựa vào xe, nghĩa là xe vua đi, tụng giá: đi theo xe nhà vua, hoàn: trở về, kinh: kinh đô, thủ đô xưa, kinh sư: kinh đô một nước có vua. Đoạt: cướp lấy, sáo: giáo (một thứ vũ khí), Chương Dương: địa danh (xem chú thích (1)), độ: bến sông. Cầm: bắt, Hồ: từ do người Trung Quốc xưa dùng để chỉ các dân tộc thiểu số và ngoại tộc ở phía bắc với thái độ khinh miệt, ở đây dùng để chỉ giặc Mông - Nguyên, Hàm Tử: tên địa danh, quan: cửa ải. Thái bình: rất bình yên, tu: nên, trí: đem hết, dốc hết, lực: sức mạnh (có bản chép: nghi nỗ lực, có nghĩa là "nên cố sức"). Vạn: mười ngàn, cổ: xưa, thử: ấy, này, giang: sông, san: núi).
Dịch thơ
Chương Dương(1) cướp giáo giặc
Hàm Tử(2) bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
(Trần Trọng Kim dịch, trong Việt Nam sử lược,
NXB Tân Việt, Hà Nội, 1951)
Chú thích:
(*) Trần Quang Khải (1241 - 1294), con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông, được phong Thượng tướng, có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên (1284 - 1285; 1287 - 1288), đặc biệt là trong hai trận chiến thắng ở Hàm Tử và Chương Dương. Ông không chỉ là một võ tướng kiệt xuất, mà còn là người có những vần thơ "sâu xa lí thú" (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí).
Bài thơ Phò giá về kinh được làm lúc ông đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long (Hà Nội ngày nay) ngay sau chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm 1285. Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật, có cách gieo vần tương tự như ở thất ngôn tứ tuyệt.
(1) Chương Dương: bến sông nằm ở hữu ngạn sông Hồng, thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà tây (Nay thuộc Hà Nội). Chiến thắng Chương Dương diễn ra vào tháng 6 năm Ất Dậu (1285) do Trần Quang Khải chỉ huy.
(2) Hàm Tử: một địa điểm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trận Hàm Tử diễn ra vào tháng 4 năm Ất Dậu (1285) do Trần Nhật Duật chỉ huy với sự hỗ trợ đắc lực của Trần Quang Khải.
Nghệ thuật nổi bật của cả hai bài Sông núi nước Nam và Phò giá về kinh là gì?
PHÒ GIÁ VỀ KINH
(Tụng giá hoàn kinh sư)
Phiên âm
Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.
(Trần Quang Khải(*))
Dịch nghĩa
Cướp giáo giặc ở bến Chương Dương
Bắt quân Hồ ở cửa Hàm Tử.
Thái bình rồi nên dốc sức lực,
Muôn đời vẫn có non sông này.
(Tụng: đi theo sau, giá: nghĩa gốc là buộc ngựa vào xe, nghĩa là xe vua đi, tụng giá: đi theo xe nhà vua, hoàn: trở về, kinh: kinh đô, thủ đô xưa, kinh sư: kinh đô một nước có vua. Đoạt: cướp lấy, sáo: giáo (một thứ vũ khí), Chương Dương: địa danh (xem chú thích (1)), độ: bến sông. Cầm: bắt, Hồ: từ do người Trung Quốc xưa dùng để chỉ các dân tộc thiểu số và ngoại tộc ở phía bắc với thái độ khinh miệt, ở đây dùng để chỉ giặc Mông - Nguyên, Hàm Tử: tên địa danh, quan: cửa ải. Thái bình: rất bình yên, tu: nên, trí: đem hết, dốc hết, lực: sức mạnh (có bản chép: nghi nỗ lực, có nghĩa là "nên cố sức"). Vạn: mười ngàn, cổ: xưa, thử: ấy, này, giang: sông, san: núi).
Dịch thơ
Chương Dương(1) cướp giáo giặc
Hàm Tử(2) bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
(Trần Trọng Kim dịch, trong Việt Nam sử lược,
NXB Tân Việt, Hà Nội, 1951)
Chú thích:
(*) Trần Quang Khải (1241 - 1294), con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông, được phong Thượng tướng, có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên (1284 - 1285; 1287 - 1288), đặc biệt là trong hai trận chiến thắng ở Hàm Tử và Chương Dương. Ông không chỉ là một võ tướng kiệt xuất, mà còn là người có những vần thơ "sâu xa lí thú" (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí).
Bài thơ Phò giá về kinh được làm lúc ông đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long (Hà Nội ngày nay) ngay sau chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm 1285. Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật, có cách gieo vần tương tự như ở thất ngôn tứ tuyệt.
(1) Chương Dương: bến sông nằm ở hữu ngạn sông Hồng, thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà tây (Nay thuộc Hà Nội). Chiến thắng Chương Dương diễn ra vào tháng 6 năm Ất Dậu (1285) do Trần Quang Khải chỉ huy.
(2) Hàm Tử: một địa điểm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trận Hàm Tử diễn ra vào tháng 4 năm Ất Dậu (1285) do Trần Nhật Duật chỉ huy với sự hỗ trợ đắc lực của Trần Quang Khải.
Bài Phò giá về kinh nhắc tới những chiến thắng nào?
PHÒ GIÁ VỀ KINH
(Tụng giá hoàn kinh sư)
Phiên âm
Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.
(Trần Quang Khải(*))
Dịch nghĩa
Cướp giáo giặc ở bến Chương Dương
Bắt quân Hồ ở cửa Hàm Tử.
Thái bình rồi nên dốc sức lực,
Muôn đời vẫn có non sông này.
(Tụng: đi theo sau, giá: nghĩa gốc là buộc ngựa vào xe, nghĩa là xe vua đi, tụng giá: đi theo xe nhà vua, hoàn: trở về, kinh: kinh đô, thủ đô xưa, kinh sư: kinh đô một nước có vua. Đoạt: cướp lấy, sáo: giáo (một thứ vũ khí), Chương Dương: địa danh (xem chú thích (1)), độ: bến sông. Cầm: bắt, Hồ: từ do người Trung Quốc xưa dùng để chỉ các dân tộc thiểu số và ngoại tộc ở phía bắc với thái độ khinh miệt, ở đây dùng để chỉ giặc Mông - Nguyên, Hàm Tử: tên địa danh, quan: cửa ải. Thái bình: rất bình yên, tu: nên, trí: đem hết, dốc hết, lực: sức mạnh (có bản chép: nghi nỗ lực, có nghĩa là "nên cố sức"). Vạn: mười ngàn, cổ: xưa, thử: ấy, này, giang: sông, san: núi).
Dịch thơ
Chương Dương(1) cướp giáo giặc
Hàm Tử(2) bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
(Trần Trọng Kim dịch, trong Việt Nam sử lược,
NXB Tân Việt, Hà Nội, 1951)
Chú thích:
(*) Trần Quang Khải (1241 - 1294), con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông, được phong Thượng tướng, có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên (1284 - 1285; 1287 - 1288), đặc biệt là trong hai trận chiến thắng ở Hàm Tử và Chương Dương. Ông không chỉ là một võ tướng kiệt xuất, mà còn là người có những vần thơ "sâu xa lí thú" (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí).
Bài thơ Phò giá về kinh được làm lúc ông đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long (Hà Nội ngày nay) ngay sau chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm 1285. Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật, có cách gieo vần tương tự như ở thất ngôn tứ tuyệt.
(1) Chương Dương: bến sông nằm ở hữu ngạn sông Hồng, thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà tây (Nay thuộc Hà Nội). Chiến thắng Chương Dương diễn ra vào tháng 6 năm Ất Dậu (1285) do Trần Quang Khải chỉ huy.
(2) Hàm Tử: một địa điểm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trận Hàm Tử diễn ra vào tháng 4 năm Ất Dậu (1285) do Trần Nhật Duật chỉ huy với sự hỗ trợ đắc lực của Trần Quang Khải.
Bài thơ Phò giá về kinh mang âm hưởng chiến thắng của triều đại nào?
PHÒ GIÁ VỀ KINH
(Tụng giá hoàn kinh sư)
Phiên âm
Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.
(Trần Quang Khải(*))
Dịch nghĩa
Cướp giáo giặc ở bến Chương Dương
Bắt quân Hồ ở cửa Hàm Tử.
Thái bình rồi nên dốc sức lực,
Muôn đời vẫn có non sông này.
(Tụng: đi theo sau, giá: nghĩa gốc là buộc ngựa vào xe, nghĩa là xe vua đi, tụng giá: đi theo xe nhà vua, hoàn: trở về, kinh: kinh đô, thủ đô xưa, kinh sư: kinh đô một nước có vua. Đoạt: cướp lấy, sáo: giáo (một thứ vũ khí), Chương Dương: địa danh (xem chú thích (1)), độ: bến sông. Cầm: bắt, Hồ: từ do người Trung Quốc xưa dùng để chỉ các dân tộc thiểu số và ngoại tộc ở phía bắc với thái độ khinh miệt, ở đây dùng để chỉ giặc Mông - Nguyên, Hàm Tử: tên địa danh, quan: cửa ải. Thái bình: rất bình yên, tu: nên, trí: đem hết, dốc hết, lực: sức mạnh (có bản chép: nghi nỗ lực, có nghĩa là "nên cố sức"). Vạn: mười ngàn, cổ: xưa, thử: ấy, này, giang: sông, san: núi).
Dịch thơ
Chương Dương(1) cướp giáo giặc
Hàm Tử(2) bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
(Trần Trọng Kim dịch, trong Việt Nam sử lược,
NXB Tân Việt, Hà Nội, 1951)
Chú thích:
(*) Trần Quang Khải (1241 - 1294), con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông, được phong Thượng tướng, có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên (1284 - 1285; 1287 - 1288), đặc biệt là trong hai trận chiến thắng ở Hàm Tử và Chương Dương. Ông không chỉ là một võ tướng kiệt xuất, mà còn là người có những vần thơ "sâu xa lí thú" (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí).
Bài thơ Phò giá về kinh được làm lúc ông đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long (Hà Nội ngày nay) ngay sau chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm 1285. Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật, có cách gieo vần tương tự như ở thất ngôn tứ tuyệt.
(1) Chương Dương: bến sông nằm ở hữu ngạn sông Hồng, thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà tây (Nay thuộc Hà Nội). Chiến thắng Chương Dương diễn ra vào tháng 6 năm Ất Dậu (1285) do Trần Quang Khải chỉ huy.
(2) Hàm Tử: một địa điểm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trận Hàm Tử diễn ra vào tháng 4 năm Ất Dậu (1285) do Trần Nhật Duật chỉ huy với sự hỗ trợ đắc lực của Trần Quang Khải.
Nội dung nào sau đây nói về bài thơ Phò giá về kinh?
PHÒ GIÁ VỀ KINH
(Tụng giá hoàn kinh sư)
Phiên âm
Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.
(Trần Quang Khải(*))
Dịch nghĩa
Cướp giáo giặc ở bến Chương Dương
Bắt quân Hồ ở cửa Hàm Tử.
Thái bình rồi nên dốc sức lực,
Muôn đời vẫn có non sông này.
(Tụng: đi theo sau, giá: nghĩa gốc là buộc ngựa vào xe, nghĩa là xe vua đi, tụng giá: đi theo xe nhà vua, hoàn: trở về, kinh: kinh đô, thủ đô xưa, kinh sư: kinh đô một nước có vua. Đoạt: cướp lấy, sáo: giáo (một thứ vũ khí), Chương Dương: địa danh (xem chú thích (1)), độ: bến sông. Cầm: bắt, Hồ: từ do người Trung Quốc xưa dùng để chỉ các dân tộc thiểu số và ngoại tộc ở phía bắc với thái độ khinh miệt, ở đây dùng để chỉ giặc Mông - Nguyên, Hàm Tử: tên địa danh, quan: cửa ải. Thái bình: rất bình yên, tu: nên, trí: đem hết, dốc hết, lực: sức mạnh (có bản chép: nghi nỗ lực, có nghĩa là "nên cố sức"). Vạn: mười ngàn, cổ: xưa, thử: ấy, này, giang: sông, san: núi).
Dịch thơ
Chương Dương(1) cướp giáo giặc
Hàm Tử(2) bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
(Trần Trọng Kim dịch, trong Việt Nam sử lược,
NXB Tân Việt, Hà Nội, 1951)
Chú thích:
(*) Trần Quang Khải (1241 - 1294), con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông, được phong Thượng tướng, có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên (1284 - 1285; 1287 - 1288), đặc biệt là trong hai trận chiến thắng ở Hàm Tử và Chương Dương. Ông không chỉ là một võ tướng kiệt xuất, mà còn là người có những vần thơ "sâu xa lí thú" (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí).
Bài thơ Phò giá về kinh được làm lúc ông đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long (Hà Nội ngày nay) ngay sau chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm 1285. Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật, có cách gieo vần tương tự như ở thất ngôn tứ tuyệt.
(1) Chương Dương: bến sông nằm ở hữu ngạn sông Hồng, thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà tây (Nay thuộc Hà Nội). Chiến thắng Chương Dương diễn ra vào tháng 6 năm Ất Dậu (1285) do Trần Quang Khải chỉ huy.
(2) Hàm Tử: một địa điểm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trận Hàm Tử diễn ra vào tháng 4 năm Ất Dậu (1285) do Trần Nhật Duật chỉ huy với sự hỗ trợ đắc lực của Trần Quang Khải.
Tên tuổi Trần Quang Khải không gắn với cuộc kháng chiến nào sau đây?
PHÒ GIÁ VỀ KINH
(Tụng giá hoàn kinh sư)
Phiên âm
Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.
(Trần Quang Khải(*))
Dịch nghĩa
Cướp giáo giặc ở bến Chương Dương
Bắt quân Hồ ở cửa Hàm Tử.
Thái bình rồi nên dốc sức lực,
Muôn đời vẫn có non sông này.
(Tụng: đi theo sau, giá: nghĩa gốc là buộc ngựa vào xe, nghĩa là xe vua đi, tụng giá: đi theo xe nhà vua, hoàn: trở về, kinh: kinh đô, thủ đô xưa, kinh sư: kinh đô một nước có vua. Đoạt: cướp lấy, sáo: giáo (một thứ vũ khí), Chương Dương: địa danh (xem chú thích (1)), độ: bến sông. Cầm: bắt, Hồ: từ do người Trung Quốc xưa dùng để chỉ các dân tộc thiểu số và ngoại tộc ở phía bắc với thái độ khinh miệt, ở đây dùng để chỉ giặc Mông - Nguyên, Hàm Tử: tên địa danh, quan: cửa ải. Thái bình: rất bình yên, tu: nên, trí: đem hết, dốc hết, lực: sức mạnh (có bản chép: nghi nỗ lực, có nghĩa là "nên cố sức"). Vạn: mười ngàn, cổ: xưa, thử: ấy, này, giang: sông, san: núi).
Dịch thơ
Chương Dương(1) cướp giáo giặc
Hàm Tử(2) bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
(Trần Trọng Kim dịch, trong Việt Nam sử lược,
NXB Tân Việt, Hà Nội, 1951)
Chú thích:
(*) Trần Quang Khải (1241 - 1294), con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông, được phong Thượng tướng, có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên (1284 - 1285; 1287 - 1288), đặc biệt là trong hai trận chiến thắng ở Hàm Tử và Chương Dương. Ông không chỉ là một võ tướng kiệt xuất, mà còn là người có những vần thơ "sâu xa lí thú" (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí).
Bài thơ Phò giá về kinh được làm lúc ông đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long (Hà Nội ngày nay) ngay sau chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm 1285. Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật, có cách gieo vần tương tự như ở thất ngôn tứ tuyệt.
(1) Chương Dương: bến sông nằm ở hữu ngạn sông Hồng, thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà tây (Nay thuộc Hà Nội). Chiến thắng Chương Dương diễn ra vào tháng 6 năm Ất Dậu (1285) do Trần Quang Khải chỉ huy.
(2) Hàm Tử: một địa điểm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trận Hàm Tử diễn ra vào tháng 4 năm Ất Dậu (1285) do Trần Nhật Duật chỉ huy với sự hỗ trợ đắc lực của Trần Quang Khải.
Phò giá về kinh được sáng tác trong hoàn cảnh nào?
Bài thơ Phò giá về kinh được Trần Quang Khải sáng tác lúc ông đi đón Thái thượng hoàng và vua về Thăng Long (Hà Nội ngày nay) ngay sau chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
PHÒ GIÁ VỀ KINH
(Tụng giá hoàn kinh sư)
Phiên âm
Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.
(Trần Quang Khải(*))
Dịch nghĩa
Cướp giáo giặc ở bến Chương Dương
Bắt quân Hồ ở cửa Hàm Tử.
Thái bình rồi nên dốc sức lực,
Muôn đời vẫn có non sông này.
(Tụng: đi theo sau, giá: nghĩa gốc là buộc ngựa vào xe, nghĩa là xe vua đi, tụng giá: đi theo xe nhà vua, hoàn: trở về, kinh: kinh đô, thủ đô xưa, kinh sư: kinh đô một nước có vua. Đoạt: cướp lấy, sáo: giáo (một thứ vũ khí), Chương Dương: địa danh (xem chú thích (1)), độ: bến sông. Cầm: bắt, Hồ: từ do người Trung Quốc xưa dùng để chỉ các dân tộc thiểu số và ngoại tộc ở phía bắc với thái độ khinh miệt, ở đây dùng để chỉ giặc Mông - Nguyên, Hàm Tử: tên địa danh, quan: cửa ải. Thái bình: rất bình yên, tu: nên, trí: đem hết, dốc hết, lực: sức mạnh (có bản chép: nghi nỗ lực, có nghĩa là "nên cố sức"). Vạn: mười ngàn, cổ: xưa, thử: ấy, này, giang: sông, san: núi).
Dịch thơ
Chương Dương(1) cướp giáo giặc
Hàm Tử(2) bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
(Trần Trọng Kim dịch, trong Việt Nam sử lược,
NXB Tân Việt, Hà Nội, 1951)
Chú thích:
(*) Trần Quang Khải (1241 - 1294), con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông, được phong Thượng tướng, có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên (1284 - 1285; 1287 - 1288), đặc biệt là trong hai trận chiến thắng ở Hàm Tử và Chương Dương. Ông không chỉ là một võ tướng kiệt xuất, mà còn là người có những vần thơ "sâu xa lí thú" (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí).
Bài thơ Phò giá về kinh được làm lúc ông đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long (Hà Nội ngày nay) ngay sau chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm 1285. Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật, có cách gieo vần tương tự như ở thất ngôn tứ tuyệt.
(1) Chương Dương: bến sông nằm ở hữu ngạn sông Hồng, thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà tây (Nay thuộc Hà Nội). Chiến thắng Chương Dương diễn ra vào tháng 6 năm Ất Dậu (1285) do Trần Quang Khải chỉ huy.
(2) Hàm Tử: một địa điểm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trận Hàm Tử diễn ra vào tháng 4 năm Ất Dậu (1285) do Trần Nhật Duật chỉ huy với sự hỗ trợ đắc lực của Trần Quang Khải.
Nối cho đúng nội dung của mỗi phần trong bài thơ:
PHÒ GIÁ VỀ KINH
(Tụng giá hoàn kinh sư)
Phiên âm
Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.
(Trần Quang Khải(*))
Dịch nghĩa
Cướp giáo giặc ở bến Chương Dương
Bắt quân Hồ ở cửa Hàm Tử.
Thái bình rồi nên dốc sức lực,
Muôn đời vẫn có non sông này.
(Tụng: đi theo sau, giá: nghĩa gốc là buộc ngựa vào xe, nghĩa là xe vua đi, tụng giá: đi theo xe nhà vua, hoàn: trở về, kinh: kinh đô, thủ đô xưa, kinh sư: kinh đô một nước có vua. Đoạt: cướp lấy, sáo: giáo (một thứ vũ khí), Chương Dương: địa danh (xem chú thích (1)), độ: bến sông. Cầm: bắt, Hồ: từ do người Trung Quốc xưa dùng để chỉ các dân tộc thiểu số và ngoại tộc ở phía bắc với thái độ khinh miệt, ở đây dùng để chỉ giặc Mông - Nguyên, Hàm Tử: tên địa danh, quan: cửa ải. Thái bình: rất bình yên, tu: nên, trí: đem hết, dốc hết, lực: sức mạnh (có bản chép: nghi nỗ lực, có nghĩa là "nên cố sức"). Vạn: mười ngàn, cổ: xưa, thử: ấy, này, giang: sông, san: núi).
Dịch thơ
Chương Dương(1) cướp giáo giặc
Hàm Tử(2) bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
(Trần Trọng Kim dịch, trong Việt Nam sử lược,
NXB Tân Việt, Hà Nội, 1951)
Chú thích:
(*) Trần Quang Khải (1241 - 1294), con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông, được phong Thượng tướng, có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên (1284 - 1285; 1287 - 1288), đặc biệt là trong hai trận chiến thắng ở Hàm Tử và Chương Dương. Ông không chỉ là một võ tướng kiệt xuất, mà còn là người có những vần thơ "sâu xa lí thú" (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí).
Bài thơ Phò giá về kinh được làm lúc ông đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long (Hà Nội ngày nay) ngay sau chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm 1285. Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật, có cách gieo vần tương tự như ở thất ngôn tứ tuyệt.
(1) Chương Dương: bến sông nằm ở hữu ngạn sông Hồng, thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà tây (Nay thuộc Hà Nội). Chiến thắng Chương Dương diễn ra vào tháng 6 năm Ất Dậu (1285) do Trần Quang Khải chỉ huy.
(2) Hàm Tử: một địa điểm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trận Hàm Tử diễn ra vào tháng 4 năm Ất Dậu (1285) do Trần Nhật Duật chỉ huy với sự hỗ trợ đắc lực của Trần Quang Khải.
Tình cảm và thái độ của tác giả được thể hiện trong bài thơ là gì?
PHÒ GIÁ VỀ KINH
(Tụng giá hoàn kinh sư)
Phiên âm
Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.
(Trần Quang Khải(*))
Dịch nghĩa
Cướp giáo giặc ở bến Chương Dương
Bắt quân Hồ ở cửa Hàm Tử.
Thái bình rồi nên dốc sức lực,
Muôn đời vẫn có non sông này.
(Tụng: đi theo sau, giá: nghĩa gốc là buộc ngựa vào xe, nghĩa là xe vua đi, tụng giá: đi theo xe nhà vua, hoàn: trở về, kinh: kinh đô, thủ đô xưa, kinh sư: kinh đô một nước có vua. Đoạt: cướp lấy, sáo: giáo (một thứ vũ khí), Chương Dương: địa danh (xem chú thích (1)), độ: bến sông. Cầm: bắt, Hồ: từ do người Trung Quốc xưa dùng để chỉ các dân tộc thiểu số và ngoại tộc ở phía bắc với thái độ khinh miệt, ở đây dùng để chỉ giặc Mông - Nguyên, Hàm Tử: tên địa danh, quan: cửa ải. Thái bình: rất bình yên, tu: nên, trí: đem hết, dốc hết, lực: sức mạnh (có bản chép: nghi nỗ lực, có nghĩa là "nên cố sức"). Vạn: mười ngàn, cổ: xưa, thử: ấy, này, giang: sông, san: núi).
Dịch thơ
Chương Dương(1) cướp giáo giặc
Hàm Tử(2) bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
(Trần Trọng Kim dịch, trong Việt Nam sử lược,
NXB Tân Việt, Hà Nội, 1951)
Chú thích:
(*) Trần Quang Khải (1241 - 1294), con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông, được phong Thượng tướng, có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên (1284 - 1285; 1287 - 1288), đặc biệt là trong hai trận chiến thắng ở Hàm Tử và Chương Dương. Ông không chỉ là một võ tướng kiệt xuất, mà còn là người có những vần thơ "sâu xa lí thú" (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí).
Bài thơ Phò giá về kinh được làm lúc ông đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long (Hà Nội ngày nay) ngay sau chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm 1285. Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật, có cách gieo vần tương tự như ở thất ngôn tứ tuyệt.
(1) Chương Dương: bến sông nằm ở hữu ngạn sông Hồng, thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà tây (Nay thuộc Hà Nội). Chiến thắng Chương Dương diễn ra vào tháng 6 năm Ất Dậu (1285) do Trần Quang Khải chỉ huy.
(2) Hàm Tử: một địa điểm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trận Hàm Tử diễn ra vào tháng 4 năm Ất Dậu (1285) do Trần Nhật Duật chỉ huy với sự hỗ trợ đắc lực của Trần Quang Khải.
Bài thơ 'Phò giá về kinh' được đánh giá là:
PHÒ GIÁ VỀ KINH
(Tụng giá hoàn kinh sư)
Phiên âm
Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.
(Trần Quang Khải(*))
Dịch nghĩa
Cướp giáo giặc ở bến Chương Dương
Bắt quân Hồ ở cửa Hàm Tử.
Thái bình rồi nên dốc sức lực,
Muôn đời vẫn có non sông này.
(Tụng: đi theo sau, giá: nghĩa gốc là buộc ngựa vào xe, nghĩa là xe vua đi, tụng giá: đi theo xe nhà vua, hoàn: trở về, kinh: kinh đô, thủ đô xưa, kinh sư: kinh đô một nước có vua. Đoạt: cướp lấy, sáo: giáo (một thứ vũ khí), Chương Dương: địa danh (xem chú thích (1)), độ: bến sông. Cầm: bắt, Hồ: từ do người Trung Quốc xưa dùng để chỉ các dân tộc thiểu số và ngoại tộc ở phía bắc với thái độ khinh miệt, ở đây dùng để chỉ giặc Mông - Nguyên, Hàm Tử: tên địa danh, quan: cửa ải. Thái bình: rất bình yên, tu: nên, trí: đem hết, dốc hết, lực: sức mạnh (có bản chép: nghi nỗ lực, có nghĩa là "nên cố sức"). Vạn: mười ngàn, cổ: xưa, thử: ấy, này, giang: sông, san: núi).
Dịch thơ
Chương Dương(1) cướp giáo giặc
Hàm Tử(2) bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
(Trần Trọng Kim dịch, trong Việt Nam sử lược,
NXB Tân Việt, Hà Nội, 1951)
Chú thích:
(*) Trần Quang Khải (1241 - 1294), con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông, được phong Thượng tướng, có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên (1284 - 1285; 1287 - 1288), đặc biệt là trong hai trận chiến thắng ở Hàm Tử và Chương Dương. Ông không chỉ là một võ tướng kiệt xuất, mà còn là người có những vần thơ "sâu xa lí thú" (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí).
Bài thơ Phò giá về kinh được làm lúc ông đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long (Hà Nội ngày nay) ngay sau chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm 1285. Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật, có cách gieo vần tương tự như ở thất ngôn tứ tuyệt.
(1) Chương Dương: bến sông nằm ở hữu ngạn sông Hồng, thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà tây (Nay thuộc Hà Nội). Chiến thắng Chương Dương diễn ra vào tháng 6 năm Ất Dậu (1285) do Trần Quang Khải chỉ huy.
(2) Hàm Tử: một địa điểm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trận Hàm Tử diễn ra vào tháng 4 năm Ất Dậu (1285) do Trần Nhật Duật chỉ huy với sự hỗ trợ đắc lực của Trần Quang Khải.
Xác định thể thơ của bài thơ trên:
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây