Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM
1. Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào(1) lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm(2),
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa(3),
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh(4).
2. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày 30 Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
3. Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống(5) uống rượu la đà,
Chim ri(6) ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào(7) thì đánh trống quân(8)
Chim chích(9) cởi trần, vác mõ đi rao.
4. Cậu cai(10) nón dấu lông gà
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Chú thích:
(1) Cô yếm đào: cô gái mặc yếm màu hoa đào (yếm: đồ mặc lót che ngực của phụ nữ thời xưa).
(2) Tửu: rượu; tăm: bọt sủi lên; đây là cách nói hoán dụ, dùng ghép với từ tửu để chỉ rượu.
(3) Ý nói để khỏi đi làm.
(4) Mỗi đêm có 5 canh, sau mỗi canh có điểm trống; ước đêm nhiều (thừa) trống canh để được ngủ thêm.
(5) Cà cuống: côn trùng sống ở hồ, vực và ruộng nước sâu, thân hình lá, dẹt, mỏng, đầu vàng nhạt, bụng màu xanh nâu xỉn, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay.
(6) Chim ri: chim hình giống như chim sẻ, mỏ đen và to.
(7) Chào mào: chim nhỏ, đầu có túm lông nhọn, dưới đuôi có túm lông đỏ.
(8) Đánh trống quân: đánh trống đệm nhịp cho điệu hát trống quân - một điệu dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
(9) Chim chích: chim nhỏ, ăn sâu bọ, sống ở vùng đồng bằng, trung du.
(10) Cai: tức cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến.
Ca dao châm biếm có đặc điểm gì?
NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM
1. Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào(1) lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm(2),
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa(3),
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh(4).
2. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày 30 Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
3. Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống(5) uống rượu la đà,
Chim ri(6) ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào(7) thì đánh trống quân(8)
Chim chích(9) cởi trần, vác mõ đi rao.
4. Cậu cai(10) nón dấu lông gà
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Chú thích:
(1) Cô yếm đào: cô gái mặc yếm màu hoa đào (yếm: đồ mặc lót che ngực của phụ nữ thời xưa).
(2) Tửu: rượu; tăm: bọt sủi lên; đây là cách nói hoán dụ, dùng ghép với từ tửu để chỉ rượu.
(3) Ý nói để khỏi đi làm.
(4) Mỗi đêm có 5 canh, sau mỗi canh có điểm trống; ước đêm nhiều (thừa) trống canh để được ngủ thêm.
(5) Cà cuống: côn trùng sống ở hồ, vực và ruộng nước sâu, thân hình lá, dẹt, mỏng, đầu vàng nhạt, bụng màu xanh nâu xỉn, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay.
(6) Chim ri: chim hình giống như chim sẻ, mỏ đen và to.
(7) Chào mào: chim nhỏ, đầu có túm lông nhọn, dưới đuôi có túm lông đỏ.
(8) Đánh trống quân: đánh trống đệm nhịp cho điệu hát trống quân - một điệu dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
(9) Chim chích: chim nhỏ, ăn sâu bọ, sống ở vùng đồng bằng, trung du.
(10) Cai: tức cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến.
Nét tính cách nào sau đây nói đúng về chân dung của "chú tôi" trong bài ca dao châm biếm thứ nhất?
NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM
1. Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào(1) lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm(2),
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa(3),
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh(4).
2. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày 30 Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
3. Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống(5) uống rượu la đà,
Chim ri(6) ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào(7) thì đánh trống quân(8)
Chim chích(9) cởi trần, vác mõ đi rao.
4. Cậu cai(10) nón dấu lông gà
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Chú thích:
(1) Cô yếm đào: cô gái mặc yếm màu hoa đào (yếm: đồ mặc lót che ngực của phụ nữ thời xưa).
(2) Tửu: rượu; tăm: bọt sủi lên; đây là cách nói hoán dụ, dùng ghép với từ tửu để chỉ rượu.
(3) Ý nói để khỏi đi làm.
(4) Mỗi đêm có 5 canh, sau mỗi canh có điểm trống; ước đêm nhiều (thừa) trống canh để được ngủ thêm.
(5) Cà cuống: côn trùng sống ở hồ, vực và ruộng nước sâu, thân hình lá, dẹt, mỏng, đầu vàng nhạt, bụng màu xanh nâu xỉn, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay.
(6) Chim ri: chim hình giống như chim sẻ, mỏ đen và to.
(7) Chào mào: chim nhỏ, đầu có túm lông nhọn, dưới đuôi có túm lông đỏ.
(8) Đánh trống quân: đánh trống đệm nhịp cho điệu hát trống quân - một điệu dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
(9) Chim chích: chim nhỏ, ăn sâu bọ, sống ở vùng đồng bằng, trung du.
(10) Cai: tức cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến.
Bài ca dao số 1 châm biếm hạng người nào trong xã hội?
NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM
1. Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào(1) lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm(2),
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa(3),
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh(4).
2. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày 30 Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
3. Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống(5) uống rượu la đà,
Chim ri(6) ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào(7) thì đánh trống quân(8)
Chim chích(9) cởi trần, vác mõ đi rao.
4. Cậu cai(10) nón dấu lông gà
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Chú thích:
(1) Cô yếm đào: cô gái mặc yếm màu hoa đào (yếm: đồ mặc lót che ngực của phụ nữ thời xưa).
(2) Tửu: rượu; tăm: bọt sủi lên; đây là cách nói hoán dụ, dùng ghép với từ tửu để chỉ rượu.
(3) Ý nói để khỏi đi làm.
(4) Mỗi đêm có 5 canh, sau mỗi canh có điểm trống; ước đêm nhiều (thừa) trống canh để được ngủ thêm.
(5) Cà cuống: côn trùng sống ở hồ, vực và ruộng nước sâu, thân hình lá, dẹt, mỏng, đầu vàng nhạt, bụng màu xanh nâu xỉn, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay.
(6) Chim ri: chim hình giống như chim sẻ, mỏ đen và to.
(7) Chào mào: chim nhỏ, đầu có túm lông nhọn, dưới đuôi có túm lông đỏ.
(8) Đánh trống quân: đánh trống đệm nhịp cho điệu hát trống quân - một điệu dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
(9) Chim chích: chim nhỏ, ăn sâu bọ, sống ở vùng đồng bằng, trung du.
(10) Cai: tức cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến.
Chân dung của "chú tôi" được tô vẽ như thế nào?
NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM
1. Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào(1) lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm(2),
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa(3),
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh(4).
2. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày 30 Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
3. Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống(5) uống rượu la đà,
Chim ri(6) ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào(7) thì đánh trống quân(8)
Chim chích(9) cởi trần, vác mõ đi rao.
4. Cậu cai(10) nón dấu lông gà
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Chú thích:
(1) Cô yếm đào: cô gái mặc yếm màu hoa đào (yếm: đồ mặc lót che ngực của phụ nữ thời xưa).
(2) Tửu: rượu; tăm: bọt sủi lên; đây là cách nói hoán dụ, dùng ghép với từ tửu để chỉ rượu.
(3) Ý nói để khỏi đi làm.
(4) Mỗi đêm có 5 canh, sau mỗi canh có điểm trống; ước đêm nhiều (thừa) trống canh để được ngủ thêm.
(5) Cà cuống: côn trùng sống ở hồ, vực và ruộng nước sâu, thân hình lá, dẹt, mỏng, đầu vàng nhạt, bụng màu xanh nâu xỉn, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay.
(6) Chim ri: chim hình giống như chim sẻ, mỏ đen và to.
(7) Chào mào: chim nhỏ, đầu có túm lông nhọn, dưới đuôi có túm lông đỏ.
(8) Đánh trống quân: đánh trống đệm nhịp cho điệu hát trống quân - một điệu dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
(9) Chim chích: chim nhỏ, ăn sâu bọ, sống ở vùng đồng bằng, trung du.
(10) Cai: tức cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến.
Hai dòng đầu trong bài thơ số 1 nói những gì?
NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM
1. Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào(1) lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm(2),
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa(3),
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh(4).
2. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày 30 Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
3. Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống(5) uống rượu la đà,
Chim ri(6) ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào(7) thì đánh trống quân(8)
Chim chích(9) cởi trần, vác mõ đi rao.
4. Cậu cai(10) nón dấu lông gà
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Chú thích:
(1) Cô yếm đào: cô gái mặc yếm màu hoa đào (yếm: đồ mặc lót che ngực của phụ nữ thời xưa).
(2) Tửu: rượu; tăm: bọt sủi lên; đây là cách nói hoán dụ, dùng ghép với từ tửu để chỉ rượu.
(3) Ý nói để khỏi đi làm.
(4) Mỗi đêm có 5 canh, sau mỗi canh có điểm trống; ước đêm nhiều (thừa) trống canh để được ngủ thêm.
(5) Cà cuống: côn trùng sống ở hồ, vực và ruộng nước sâu, thân hình lá, dẹt, mỏng, đầu vàng nhạt, bụng màu xanh nâu xỉn, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay.
(6) Chim ri: chim hình giống như chim sẻ, mỏ đen và to.
(7) Chào mào: chim nhỏ, đầu có túm lông nhọn, dưới đuôi có túm lông đỏ.
(8) Đánh trống quân: đánh trống đệm nhịp cho điệu hát trống quân - một điệu dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
(9) Chim chích: chim nhỏ, ăn sâu bọ, sống ở vùng đồng bằng, trung du.
(10) Cai: tức cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến.
Hình ảnh giữa cô yếm đào và chú tôi được xây dựng bằng nghệ thuật gì?
NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM
1. Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào(1) lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm(2),
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa(3),
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh(4).
2. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày 30 Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
3. Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống(5) uống rượu la đà,
Chim ri(6) ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào(7) thì đánh trống quân(8)
Chim chích(9) cởi trần, vác mõ đi rao.
4. Cậu cai(10) nón dấu lông gà
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Chú thích:
(1) Cô yếm đào: cô gái mặc yếm màu hoa đào (yếm: đồ mặc lót che ngực của phụ nữ thời xưa).
(2) Tửu: rượu; tăm: bọt sủi lên; đây là cách nói hoán dụ, dùng ghép với từ tửu để chỉ rượu.
(3) Ý nói để khỏi đi làm.
(4) Mỗi đêm có 5 canh, sau mỗi canh có điểm trống; ước đêm nhiều (thừa) trống canh để được ngủ thêm.
(5) Cà cuống: côn trùng sống ở hồ, vực và ruộng nước sâu, thân hình lá, dẹt, mỏng, đầu vàng nhạt, bụng màu xanh nâu xỉn, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay.
(6) Chim ri: chim hình giống như chim sẻ, mỏ đen và to.
(7) Chào mào: chim nhỏ, đầu có túm lông nhọn, dưới đuôi có túm lông đỏ.
(8) Đánh trống quân: đánh trống đệm nhịp cho điệu hát trống quân - một điệu dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
(9) Chim chích: chim nhỏ, ăn sâu bọ, sống ở vùng đồng bằng, trung du.
(10) Cai: tức cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến.
Bài ca dao số 2 sử dụng thủ pháp nghệ thuật nào?
NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM
1. Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào(1) lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm(2),
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa(3),
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh(4).
2. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày 30 Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
3. Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống(5) uống rượu la đà,
Chim ri(6) ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào(7) thì đánh trống quân(8)
Chim chích(9) cởi trần, vác mõ đi rao.
4. Cậu cai(10) nón dấu lông gà
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Chú thích:
(1) Cô yếm đào: cô gái mặc yếm màu hoa đào (yếm: đồ mặc lót che ngực của phụ nữ thời xưa).
(2) Tửu: rượu; tăm: bọt sủi lên; đây là cách nói hoán dụ, dùng ghép với từ tửu để chỉ rượu.
(3) Ý nói để khỏi đi làm.
(4) Mỗi đêm có 5 canh, sau mỗi canh có điểm trống; ước đêm nhiều (thừa) trống canh để được ngủ thêm.
(5) Cà cuống: côn trùng sống ở hồ, vực và ruộng nước sâu, thân hình lá, dẹt, mỏng, đầu vàng nhạt, bụng màu xanh nâu xỉn, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay.
(6) Chim ri: chim hình giống như chim sẻ, mỏ đen và to.
(7) Chào mào: chim nhỏ, đầu có túm lông nhọn, dưới đuôi có túm lông đỏ.
(8) Đánh trống quân: đánh trống đệm nhịp cho điệu hát trống quân - một điệu dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
(9) Chim chích: chim nhỏ, ăn sâu bọ, sống ở vùng đồng bằng, trung du.
(10) Cai: tức cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến.
Bài ca dao số 2 phê phán hủ tục nào?
NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM
1. Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào(1) lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm(2),
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa(3),
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh(4).
2. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày 30 Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
3. Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống(5) uống rượu la đà,
Chim ri(6) ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào(7) thì đánh trống quân(8)
Chim chích(9) cởi trần, vác mõ đi rao.
4. Cậu cai(10) nón dấu lông gà
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Chú thích:
(1) Cô yếm đào: cô gái mặc yếm màu hoa đào (yếm: đồ mặc lót che ngực của phụ nữ thời xưa).
(2) Tửu: rượu; tăm: bọt sủi lên; đây là cách nói hoán dụ, dùng ghép với từ tửu để chỉ rượu.
(3) Ý nói để khỏi đi làm.
(4) Mỗi đêm có 5 canh, sau mỗi canh có điểm trống; ước đêm nhiều (thừa) trống canh để được ngủ thêm.
(5) Cà cuống: côn trùng sống ở hồ, vực và ruộng nước sâu, thân hình lá, dẹt, mỏng, đầu vàng nhạt, bụng màu xanh nâu xỉn, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay.
(6) Chim ri: chim hình giống như chim sẻ, mỏ đen và to.
(7) Chào mào: chim nhỏ, đầu có túm lông nhọn, dưới đuôi có túm lông đỏ.
(8) Đánh trống quân: đánh trống đệm nhịp cho điệu hát trống quân - một điệu dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
(9) Chim chích: chim nhỏ, ăn sâu bọ, sống ở vùng đồng bằng, trung du.
(10) Cai: tức cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến.
Sắp xếp các từ sau để hoàn thành câu trả lời: Lời thầy bói trong bài ca dao số 2 có gì gây cười?
- Thầy bói
- sự thật
- toàn những
- hiển nhiên.
- nói
NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM
1. Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào(1) lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm(2),
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa(3),
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh(4).
2. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày 30 Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
3. Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống(5) uống rượu la đà,
Chim ri(6) ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào(7) thì đánh trống quân(8)
Chim chích(9) cởi trần, vác mõ đi rao.
4. Cậu cai(10) nón dấu lông gà
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Chú thích:
(1) Cô yếm đào: cô gái mặc yếm màu hoa đào (yếm: đồ mặc lót che ngực của phụ nữ thời xưa).
(2) Tửu: rượu; tăm: bọt sủi lên; đây là cách nói hoán dụ, dùng ghép với từ tửu để chỉ rượu.
(3) Ý nói để khỏi đi làm.
(4) Mỗi đêm có 5 canh, sau mỗi canh có điểm trống; ước đêm nhiều (thừa) trống canh để được ngủ thêm.
(5) Cà cuống: côn trùng sống ở hồ, vực và ruộng nước sâu, thân hình lá, dẹt, mỏng, đầu vàng nhạt, bụng màu xanh nâu xỉn, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay.
(6) Chim ri: chim hình giống như chim sẻ, mỏ đen và to.
(7) Chào mào: chim nhỏ, đầu có túm lông nhọn, dưới đuôi có túm lông đỏ.
(8) Đánh trống quân: đánh trống đệm nhịp cho điệu hát trống quân - một điệu dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
(9) Chim chích: chim nhỏ, ăn sâu bọ, sống ở vùng đồng bằng, trung du.
(10) Cai: tức cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến.
Bài ca dao số 3 phê phán điều gì?
NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM
1. Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào(1) lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm(2),
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa(3),
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh(4).
2. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày 30 Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
3. Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống(5) uống rượu la đà,
Chim ri(6) ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào(7) thì đánh trống quân(8)
Chim chích(9) cởi trần, vác mõ đi rao.
4. Cậu cai(10) nón dấu lông gà
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Chú thích:
(1) Cô yếm đào: cô gái mặc yếm màu hoa đào (yếm: đồ mặc lót che ngực của phụ nữ thời xưa).
(2) Tửu: rượu; tăm: bọt sủi lên; đây là cách nói hoán dụ, dùng ghép với từ tửu để chỉ rượu.
(3) Ý nói để khỏi đi làm.
(4) Mỗi đêm có 5 canh, sau mỗi canh có điểm trống; ước đêm nhiều (thừa) trống canh để được ngủ thêm.
(5) Cà cuống: côn trùng sống ở hồ, vực và ruộng nước sâu, thân hình lá, dẹt, mỏng, đầu vàng nhạt, bụng màu xanh nâu xỉn, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay.
(6) Chim ri: chim hình giống như chim sẻ, mỏ đen và to.
(7) Chào mào: chim nhỏ, đầu có túm lông nhọn, dưới đuôi có túm lông đỏ.
(8) Đánh trống quân: đánh trống đệm nhịp cho điệu hát trống quân - một điệu dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
(9) Chim chích: chim nhỏ, ăn sâu bọ, sống ở vùng đồng bằng, trung du.
(10) Cai: tức cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến.
Con cà cuống trong bài ca dao số 3 ngầm chỉ hạng người nào trong xã hội?
NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM
1. Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào(1) lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm(2),
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa(3),
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh(4).
2. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày 30 Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
3. Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống(5) uống rượu la đà,
Chim ri(6) ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào(7) thì đánh trống quân(8)
Chim chích(9) cởi trần, vác mõ đi rao.
4. Cậu cai(10) nón dấu lông gà
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Chú thích:
(1) Cô yếm đào: cô gái mặc yếm màu hoa đào (yếm: đồ mặc lót che ngực của phụ nữ thời xưa).
(2) Tửu: rượu; tăm: bọt sủi lên; đây là cách nói hoán dụ, dùng ghép với từ tửu để chỉ rượu.
(3) Ý nói để khỏi đi làm.
(4) Mỗi đêm có 5 canh, sau mỗi canh có điểm trống; ước đêm nhiều (thừa) trống canh để được ngủ thêm.
(5) Cà cuống: côn trùng sống ở hồ, vực và ruộng nước sâu, thân hình lá, dẹt, mỏng, đầu vàng nhạt, bụng màu xanh nâu xỉn, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay.
(6) Chim ri: chim hình giống như chim sẻ, mỏ đen và to.
(7) Chào mào: chim nhỏ, đầu có túm lông nhọn, dưới đuôi có túm lông đỏ.
(8) Đánh trống quân: đánh trống đệm nhịp cho điệu hát trống quân - một điệu dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
(9) Chim chích: chim nhỏ, ăn sâu bọ, sống ở vùng đồng bằng, trung du.
(10) Cai: tức cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến.
Cậu cai được nhắc đến trong bài ca dao số 4 là ai?
NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM
1. Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào(1) lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm(2),
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa(3),
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh(4).
2. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày 30 Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
3. Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống(5) uống rượu la đà,
Chim ri(6) ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào(7) thì đánh trống quân(8)
Chim chích(9) cởi trần, vác mõ đi rao.
4. Cậu cai(10) nón dấu lông gà
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Chú thích:
(1) Cô yếm đào: cô gái mặc yếm màu hoa đào (yếm: đồ mặc lót che ngực của phụ nữ thời xưa).
(2) Tửu: rượu; tăm: bọt sủi lên; đây là cách nói hoán dụ, dùng ghép với từ tửu để chỉ rượu.
(3) Ý nói để khỏi đi làm.
(4) Mỗi đêm có 5 canh, sau mỗi canh có điểm trống; ước đêm nhiều (thừa) trống canh để được ngủ thêm.
(5) Cà cuống: côn trùng sống ở hồ, vực và ruộng nước sâu, thân hình lá, dẹt, mỏng, đầu vàng nhạt, bụng màu xanh nâu xỉn, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay.
(6) Chim ri: chim hình giống như chim sẻ, mỏ đen và to.
(7) Chào mào: chim nhỏ, đầu có túm lông nhọn, dưới đuôi có túm lông đỏ.
(8) Đánh trống quân: đánh trống đệm nhịp cho điệu hát trống quân - một điệu dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
(9) Chim chích: chim nhỏ, ăn sâu bọ, sống ở vùng đồng bằng, trung du.
(10) Cai: tức cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến.
Nối các dòng sau để thấy được ý nghĩa những chi tiết miêu tả cậu cai:
NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM
1. Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào(1) lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm(2),
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa(3),
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh(4).
2. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày 30 Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
3. Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống(5) uống rượu la đà,
Chim ri(6) ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào(7) thì đánh trống quân(8)
Chim chích(9) cởi trần, vác mõ đi rao.
4. Cậu cai(10) nón dấu lông gà
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Chú thích:
(1) Cô yếm đào: cô gái mặc yếm màu hoa đào (yếm: đồ mặc lót che ngực của phụ nữ thời xưa).
(2) Tửu: rượu; tăm: bọt sủi lên; đây là cách nói hoán dụ, dùng ghép với từ tửu để chỉ rượu.
(3) Ý nói để khỏi đi làm.
(4) Mỗi đêm có 5 canh, sau mỗi canh có điểm trống; ước đêm nhiều (thừa) trống canh để được ngủ thêm.
(5) Cà cuống: côn trùng sống ở hồ, vực và ruộng nước sâu, thân hình lá, dẹt, mỏng, đầu vàng nhạt, bụng màu xanh nâu xỉn, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay.
(6) Chim ri: chim hình giống như chim sẻ, mỏ đen và to.
(7) Chào mào: chim nhỏ, đầu có túm lông nhọn, dưới đuôi có túm lông đỏ.
(8) Đánh trống quân: đánh trống đệm nhịp cho điệu hát trống quân - một điệu dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
(9) Chim chích: chim nhỏ, ăn sâu bọ, sống ở vùng đồng bằng, trung du.
(10) Cai: tức cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến.
"Ba năm được một chuyến sai
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê".
Câu ca dao mang hàm ý và thái độ gì?
NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM
1. Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào(1) lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm(2),
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa(3),
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh(4).
2. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày 30 Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
3. Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống(5) uống rượu la đà,
Chim ri(6) ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào(7) thì đánh trống quân(8)
Chim chích(9) cởi trần, vác mõ đi rao.
4. Cậu cai(10) nón dấu lông gà
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Chú thích:
(1) Cô yếm đào: cô gái mặc yếm màu hoa đào (yếm: đồ mặc lót che ngực của phụ nữ thời xưa).
(2) Tửu: rượu; tăm: bọt sủi lên; đây là cách nói hoán dụ, dùng ghép với từ tửu để chỉ rượu.
(3) Ý nói để khỏi đi làm.
(4) Mỗi đêm có 5 canh, sau mỗi canh có điểm trống; ước đêm nhiều (thừa) trống canh để được ngủ thêm.
(5) Cà cuống: côn trùng sống ở hồ, vực và ruộng nước sâu, thân hình lá, dẹt, mỏng, đầu vàng nhạt, bụng màu xanh nâu xỉn, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay.
(6) Chim ri: chim hình giống như chim sẻ, mỏ đen và to.
(7) Chào mào: chim nhỏ, đầu có túm lông nhọn, dưới đuôi có túm lông đỏ.
(8) Đánh trống quân: đánh trống đệm nhịp cho điệu hát trống quân - một điệu dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
(9) Chim chích: chim nhỏ, ăn sâu bọ, sống ở vùng đồng bằng, trung du.
(10) Cai: tức cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến.
Những câu hát châm biếm có những nét tương đồng với thể loại văn học dân gian nào sau đây?
NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM
1. Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào(1) lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm(2),
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa(3),
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh(4).
2. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày 30 Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
3. Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống(5) uống rượu la đà,
Chim ri(6) ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào(7) thì đánh trống quân(8)
Chim chích(9) cởi trần, vác mõ đi rao.
4. Cậu cai(10) nón dấu lông gà
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Chú thích:
(1) Cô yếm đào: cô gái mặc yếm màu hoa đào (yếm: đồ mặc lót che ngực của phụ nữ thời xưa).
(2) Tửu: rượu; tăm: bọt sủi lên; đây là cách nói hoán dụ, dùng ghép với từ tửu để chỉ rượu.
(3) Ý nói để khỏi đi làm.
(4) Mỗi đêm có 5 canh, sau mỗi canh có điểm trống; ước đêm nhiều (thừa) trống canh để được ngủ thêm.
(5) Cà cuống: côn trùng sống ở hồ, vực và ruộng nước sâu, thân hình lá, dẹt, mỏng, đầu vàng nhạt, bụng màu xanh nâu xỉn, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay.
(6) Chim ri: chim hình giống như chim sẻ, mỏ đen và to.
(7) Chào mào: chim nhỏ, đầu có túm lông nhọn, dưới đuôi có túm lông đỏ.
(8) Đánh trống quân: đánh trống đệm nhịp cho điệu hát trống quân - một điệu dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
(9) Chim chích: chim nhỏ, ăn sâu bọ, sống ở vùng đồng bằng, trung du.
(10) Cai: tức cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến.
Mục đích chủ yếu của những câu hát châm biếm là gì?
NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM
1. Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào(1) lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm(2),
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa(3),
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh(4).
2. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày 30 Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
3. Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống(5) uống rượu la đà,
Chim ri(6) ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào(7) thì đánh trống quân(8)
Chim chích(9) cởi trần, vác mõ đi rao.
4. Cậu cai(10) nón dấu lông gà
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Chú thích:
(1) Cô yếm đào: cô gái mặc yếm màu hoa đào (yếm: đồ mặc lót che ngực của phụ nữ thời xưa).
(2) Tửu: rượu; tăm: bọt sủi lên; đây là cách nói hoán dụ, dùng ghép với từ tửu để chỉ rượu.
(3) Ý nói để khỏi đi làm.
(4) Mỗi đêm có 5 canh, sau mỗi canh có điểm trống; ước đêm nhiều (thừa) trống canh để được ngủ thêm.
(5) Cà cuống: côn trùng sống ở hồ, vực và ruộng nước sâu, thân hình lá, dẹt, mỏng, đầu vàng nhạt, bụng màu xanh nâu xỉn, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay.
(6) Chim ri: chim hình giống như chim sẻ, mỏ đen và to.
(7) Chào mào: chim nhỏ, đầu có túm lông nhọn, dưới đuôi có túm lông đỏ.
(8) Đánh trống quân: đánh trống đệm nhịp cho điệu hát trống quân - một điệu dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
(9) Chim chích: chim nhỏ, ăn sâu bọ, sống ở vùng đồng bằng, trung du.
(10) Cai: tức cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến.
Bài ca dao số 1 đả kích, châm biếm hạng người nào trong xã hội.
NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM
1. Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào(1) lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm(2),
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa(3),
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh(4).
2. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày 30 Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
3. Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống(5) uống rượu la đà,
Chim ri(6) ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào(7) thì đánh trống quân(8)
Chim chích(9) cởi trần, vác mõ đi rao.
4. Cậu cai(10) nón dấu lông gà
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Chú thích:
(1) Cô yếm đào: cô gái mặc yếm màu hoa đào (yếm: đồ mặc lót che ngực của phụ nữ thời xưa).
(2) Tửu: rượu; tăm: bọt sủi lên; đây là cách nói hoán dụ, dùng ghép với từ tửu để chỉ rượu.
(3) Ý nói để khỏi đi làm.
(4) Mỗi đêm có 5 canh, sau mỗi canh có điểm trống; ước đêm nhiều (thừa) trống canh để được ngủ thêm.
(5) Cà cuống: côn trùng sống ở hồ, vực và ruộng nước sâu, thân hình lá, dẹt, mỏng, đầu vàng nhạt, bụng màu xanh nâu xỉn, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay.
(6) Chim ri: chim hình giống như chim sẻ, mỏ đen và to.
(7) Chào mào: chim nhỏ, đầu có túm lông nhọn, dưới đuôi có túm lông đỏ.
(8) Đánh trống quân: đánh trống đệm nhịp cho điệu hát trống quân - một điệu dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
(9) Chim chích: chim nhỏ, ăn sâu bọ, sống ở vùng đồng bằng, trung du.
(10) Cai: tức cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến.
Bài ca dao số 1 sử dụng những biện pháp nghệ thuật nào?
NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM
1. Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào(1) lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm(2),
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa(3),
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh(4).
2. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày 30 Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
3. Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống(5) uống rượu la đà,
Chim ri(6) ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào(7) thì đánh trống quân(8)
Chim chích(9) cởi trần, vác mõ đi rao.
4. Cậu cai(10) nón dấu lông gà
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Chú thích:
(1) Cô yếm đào: cô gái mặc yếm màu hoa đào (yếm: đồ mặc lót che ngực của phụ nữ thời xưa).
(2) Tửu: rượu; tăm: bọt sủi lên; đây là cách nói hoán dụ, dùng ghép với từ tửu để chỉ rượu.
(3) Ý nói để khỏi đi làm.
(4) Mỗi đêm có 5 canh, sau mỗi canh có điểm trống; ước đêm nhiều (thừa) trống canh để được ngủ thêm.
(5) Cà cuống: côn trùng sống ở hồ, vực và ruộng nước sâu, thân hình lá, dẹt, mỏng, đầu vàng nhạt, bụng màu xanh nâu xỉn, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay.
(6) Chim ri: chim hình giống như chim sẻ, mỏ đen và to.
(7) Chào mào: chim nhỏ, đầu có túm lông nhọn, dưới đuôi có túm lông đỏ.
(8) Đánh trống quân: đánh trống đệm nhịp cho điệu hát trống quân - một điệu dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
(9) Chim chích: chim nhỏ, ăn sâu bọ, sống ở vùng đồng bằng, trung du.
(10) Cai: tức cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến.
Những lời phán của thầy bói trong bài ca dao số 2 có tính chất như thế nào?
NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM
1. Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào(1) lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm(2),
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa(3),
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh(4).
2. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày 30 Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
3. Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống(5) uống rượu la đà,
Chim ri(6) ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào(7) thì đánh trống quân(8)
Chim chích(9) cởi trần, vác mõ đi rao.
4. Cậu cai(10) nón dấu lông gà
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Chú thích:
(1) Cô yếm đào: cô gái mặc yếm màu hoa đào (yếm: đồ mặc lót che ngực của phụ nữ thời xưa).
(2) Tửu: rượu; tăm: bọt sủi lên; đây là cách nói hoán dụ, dùng ghép với từ tửu để chỉ rượu.
(3) Ý nói để khỏi đi làm.
(4) Mỗi đêm có 5 canh, sau mỗi canh có điểm trống; ước đêm nhiều (thừa) trống canh để được ngủ thêm.
(5) Cà cuống: côn trùng sống ở hồ, vực và ruộng nước sâu, thân hình lá, dẹt, mỏng, đầu vàng nhạt, bụng màu xanh nâu xỉn, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay.
(6) Chim ri: chim hình giống như chim sẻ, mỏ đen và to.
(7) Chào mào: chim nhỏ, đầu có túm lông nhọn, dưới đuôi có túm lông đỏ.
(8) Đánh trống quân: đánh trống đệm nhịp cho điệu hát trống quân - một điệu dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
(9) Chim chích: chim nhỏ, ăn sâu bọ, sống ở vùng đồng bằng, trung du.
(10) Cai: tức cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến.
Những lời phán của thầy bói trong bài ca dao số 2 có tính chất như thế nào?
NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM
1. Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào(1) lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm(2),
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa(3),
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh(4).
2. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày 30 Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
3. Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống(5) uống rượu la đà,
Chim ri(6) ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào(7) thì đánh trống quân(8)
Chim chích(9) cởi trần, vác mõ đi rao.
4. Cậu cai(10) nón dấu lông gà
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Chú thích:
(1) Cô yếm đào: cô gái mặc yếm màu hoa đào (yếm: đồ mặc lót che ngực của phụ nữ thời xưa).
(2) Tửu: rượu; tăm: bọt sủi lên; đây là cách nói hoán dụ, dùng ghép với từ tửu để chỉ rượu.
(3) Ý nói để khỏi đi làm.
(4) Mỗi đêm có 5 canh, sau mỗi canh có điểm trống; ước đêm nhiều (thừa) trống canh để được ngủ thêm.
(5) Cà cuống: côn trùng sống ở hồ, vực và ruộng nước sâu, thân hình lá, dẹt, mỏng, đầu vàng nhạt, bụng màu xanh nâu xỉn, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay.
(6) Chim ri: chim hình giống như chim sẻ, mỏ đen và to.
(7) Chào mào: chim nhỏ, đầu có túm lông nhọn, dưới đuôi có túm lông đỏ.
(8) Đánh trống quân: đánh trống đệm nhịp cho điệu hát trống quân - một điệu dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
(9) Chim chích: chim nhỏ, ăn sâu bọ, sống ở vùng đồng bằng, trung du.
(10) Cai: tức cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến.
Nối cho đúng tên con vật với ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng của nó trong bài ca dao số 3:
NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM
1. Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào(1) lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm(2),
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa(3),
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh(4).
2. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày 30 Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
3. Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống(5) uống rượu la đà,
Chim ri(6) ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào(7) thì đánh trống quân(8)
Chim chích(9) cởi trần, vác mõ đi rao.
4. Cậu cai(10) nón dấu lông gà
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Chú thích:
(1) Cô yếm đào: cô gái mặc yếm màu hoa đào (yếm: đồ mặc lót che ngực của phụ nữ thời xưa).
(2) Tửu: rượu; tăm: bọt sủi lên; đây là cách nói hoán dụ, dùng ghép với từ tửu để chỉ rượu.
(3) Ý nói để khỏi đi làm.
(4) Mỗi đêm có 5 canh, sau mỗi canh có điểm trống; ước đêm nhiều (thừa) trống canh để được ngủ thêm.
(5) Cà cuống: côn trùng sống ở hồ, vực và ruộng nước sâu, thân hình lá, dẹt, mỏng, đầu vàng nhạt, bụng màu xanh nâu xỉn, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay.
(6) Chim ri: chim hình giống như chim sẻ, mỏ đen và to.
(7) Chào mào: chim nhỏ, đầu có túm lông nhọn, dưới đuôi có túm lông đỏ.
(8) Đánh trống quân: đánh trống đệm nhịp cho điệu hát trống quân - một điệu dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
(9) Chim chích: chim nhỏ, ăn sâu bọ, sống ở vùng đồng bằng, trung du.
(10) Cai: tức cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến.
Bài ca dao số 4 đã sử dụng cách nói gì?
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây