Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
PHƯƠNG TIỆN VẬN CHUYỂN CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM NGÀY XƯA
[…] Phương tiện vận chuyển của các dân tộc miền núi phía Bắc
[…] Trong khoảng thế kỉ X – XVIII, các dân tộc miền núi phía Bắc di chuyển bằng cách đi bộ là chính. Một số tộc người sinh sống ở ven sông Đà, sông Mã hay sông Lam,… (người Kháng, người La Ha, người Mảng, người Thái, người Cống,…) đã biết đóng thuyền và sử dụng thuyền vận chuyển, lưu thông trên sông suối lớn. Thuyền của họ được đóng bằng các loại gỗ dai, nhẹ, không nứt, chịu nước,… (như gỗ dầu, gỗ sao,…), tuyệt đối không dùng gỗ trám làm thuyền, nhất là thuyền dùng để đánh cá. Điều này cũng đã được Phạm Thận Duật ghi lại trong Hưng Hoá kí lược, vào thế kỉ XVIII: “Nếu lấy gỗ trám làm thuyền, làm mái chèo,... đánh cá, cá sợ chạy hết, hỏng ăn.”. Nhiều tài liệu cho biết, từ xa xưa, người La Ha, người Kháng, người Thái,... đã nổi tiếng với việc chèo thuyền đuôi én trên sông Đà, sông Mã,... Khác với Tây Nguyên, ngoài dùng thuyền, cư dân miền núi phía Bắc còn dùng bè, mảng tương đối phổ biến. [...] Sông, suối là những con đường lưu thông chủ đạo ở miền núi phía Bắc trong nhiều thế kỉ trước.
Cách ngày nay một vài thế kỉ, trước khi lấy vợ, mọi thanh niên người Thái, Kháng, La Ha, phải tự mình vào rừng lấy gỗ, làm cho được một chiếc thuyền đuôi én (độc mộc) dùng làm phương tiện đi lại của riêng họ. Thuyền đuôi én của cư dân các dân tộc sống ven sông Đà được đục đẽo, chế tạo từ một thân gỗ tròn, thân thuyền thon dài, mũi và đuôi nhọn. Phần đuôi thuyền được thiết kế cong hẳn lên và có dáng dấp hình đuôi chim én (nộc ẻn). Thuyền đuôi én có loại 2 mái chèo, loại 6 mái chèo, loại 12 mái chèo,... Loại lớn nhất có thể tải được hàng chục tạ hàng hoá.
Người Kháng thường sinh sống ở các địa phương ven sông Đà, nên họ tương đối giỏi trong chế tạo và sử dụng thuyền độc mộc đuôi én. Thuyền của họ làm ra không chỉ để vận chuyển, đi lại, mà còn để bán cho các tộc người láng giềng khác. Thành ngữ Thái có câu: “Thuyền tốt không bằng thuyền của người Kháng; dao tốt không bằng dao của người Lào.”.
[..] Người Sán Dìu còn khá phổ biến trong việc dùng xe quệt trâu kéo để vận chuyển phân bón ra ruộng nương, chở lúa, hoa màu, củi về nhà. Xe quệt của họ đóng bằng gỗ, tre, đầu mắc dây cho trâu kéo được nâng cao hơn bởi độ dày của hai càng quệt. Loại xe quệt này có thể dùng để vận chuyển hàng hoá ở cả đường mòn, bờ ruộng, trên đồi và cả dưới hẻm nhỏ,... Đây là loại phương tiện xuất hiện khá sớm và khá phổ biến đối với người Sán Dìu.
Người Mông (Hmông), Hà Nhì, Dao,... thường cưỡi ngựa và dùng sức ngựa để vận chuyển đồ đạc, hàng hoá hay đi chợ. Đây vừa là sở thích, vừa là cung cách vận chuyển, lưu thông, di chuyển ưu việt nhất ở vùng núi hiểm trở. Đáng chú ý nhất là người Mông ở cao nguyên núi đá Hà Giang, vùng cao thuộc dãy Phan Xi Păng, huyện Mường Khương (Lào Cai),... dùng ngựa thồ như một cách vận chuyển và di chuyển duy nhất phổ biến ở khắp các bản làng. […]
Phương tiện vận chuyển của các dân tộc ở Tây Nguyên
[…] Người Tây Nguyên hiếm khi dùng trâu làm sức kéo để vận chuyển như một số dân tộc miền núi phía Bắc. Ngược lại, họ dùng sức voi, sức ngựa,... vào việc vận chuyển, nhất là người Gia-rai, Ê-đê, Mnông,...[…] Trong khoảng từ thế kỉ X − XVIII, nghề săn voi và thuần dưỡng voi đặc biệt phát triển ở vùng Mnông Bu-dâng và Mnông Preh, và nhất là ở khu vực Bản Đôn – Ea-sup. Voi rừng săn bắt được dùng làm voi mồi, voi săn, để vận chuyển hàng hoá, để kéo gỗ, để đi lại,... [...]
Sống ở khu vực nhiều sông suối nhưng cư dân Tây Nguyên lại là những người bơi lội không giỏi. Để có thể vận chuyển, lưu thông trên sông, người ta sử dụng thuyền độc mộc, nhất là các buôn, làng ở ven sông suối lớn. Thuyền độc mộc của cư dân Tây Nguyên không khác nhiều so với thuyền độc mộc của các tộc người ở miền núi phía Bắc. Nó được làm bằng các loại gỗ (dầu, sao,...) nhẹ, xốp, dai, ít nứt và chịu được nước. Tiết diện ngang của những cây gỗ làm thuyền nhiều khi tới cả mét, chiều dài dăm, bảy, thậm chí chục mét, tuỳ theo từng tộc người. Cách chế tác thuyền duy nhất của họ là dùng rìu và lửa, vừa đẽo vừa đốt; đẽo tới đâu, đốt tới đó. Khi nào vách thuyền còn dày chừng hơn chục xăng-ti-mét là được. Việc dùng thuyền vận chuyển, đi lại trên sông ở Tây Nguyên chỉ phổ biến đối với đàn ông, phụ nữ ít tham gia vào loại hình vận chuyển, đi lại này. [...]
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Án, Phạm Đình Hổ, Tang thương ngẫu lục, NXB Văn học, Hà Nội, 2001.
2. Phạm Thận Duật, Phạm Thận Duật toàn tập, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2000.
3. Lê Quý Đôn, Vân đài loại ngữ, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1962.
4. Phạm Đình Hổ, Vũ trung tuỳ bút, NXB Văn học, Hà Nội, 2001.
5. Lưu Hùng, Văn hoá cổ truyền Tây Nguyên, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1996.
6. Nguyễn Trãi, Dư địa chí, NXB Sử học, Hà Nội, 1960.
(Theo TRẦN BÌNH, dlib.huc.edu.vn)
Văn bản thuộc thể loại gì?
PHƯƠNG TIỆN VẬN CHUYỂN CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM NGÀY XƯA
[…] Phương tiện vận chuyển của các dân tộc miền núi phía Bắc
[…] Trong khoảng thế kỉ X – XVIII, các dân tộc miền núi phía Bắc di chuyển bằng cách đi bộ là chính. Một số tộc người sinh sống ở ven sông Đà, sông Mã hay sông Lam,… (người Kháng, người La Ha, người Mảng, người Thái, người Cống,…) đã biết đóng thuyền và sử dụng thuyền vận chuyển, lưu thông trên sông suối lớn. Thuyền của họ được đóng bằng các loại gỗ dai, nhẹ, không nứt, chịu nước,… (như gỗ dầu, gỗ sao,…), tuyệt đối không dùng gỗ trám làm thuyền, nhất là thuyền dùng để đánh cá. Điều này cũng đã được Phạm Thận Duật ghi lại trong Hưng Hoá kí lược, vào thế kỉ XVIII: “Nếu lấy gỗ trám làm thuyền, làm mái chèo,... đánh cá, cá sợ chạy hết, hỏng ăn.”. Nhiều tài liệu cho biết, từ xa xưa, người La Ha, người Kháng, người Thái,... đã nổi tiếng với việc chèo thuyền đuôi én trên sông Đà, sông Mã,... Khác với Tây Nguyên, ngoài dùng thuyền, cư dân miền núi phía Bắc còn dùng bè, mảng tương đối phổ biến. [...] Sông, suối là những con đường lưu thông chủ đạo ở miền núi phía Bắc trong nhiều thế kỉ trước.
Cách ngày nay một vài thế kỉ, trước khi lấy vợ, mọi thanh niên người Thái, Kháng, La Ha, phải tự mình vào rừng lấy gỗ, làm cho được một chiếc thuyền đuôi én (độc mộc) dùng làm phương tiện đi lại của riêng họ. Thuyền đuôi én của cư dân các dân tộc sống ven sông Đà được đục đẽo, chế tạo từ một thân gỗ tròn, thân thuyền thon dài, mũi và đuôi nhọn. Phần đuôi thuyền được thiết kế cong hẳn lên và có dáng dấp hình đuôi chim én (nộc ẻn). Thuyền đuôi én có loại 2 mái chèo, loại 6 mái chèo, loại 12 mái chèo,... Loại lớn nhất có thể tải được hàng chục tạ hàng hoá.
Người Kháng thường sinh sống ở các địa phương ven sông Đà, nên họ tương đối giỏi trong chế tạo và sử dụng thuyền độc mộc đuôi én. Thuyền của họ làm ra không chỉ để vận chuyển, đi lại, mà còn để bán cho các tộc người láng giềng khác. Thành ngữ Thái có câu: “Thuyền tốt không bằng thuyền của người Kháng; dao tốt không bằng dao của người Lào.”.
[..] Người Sán Dìu còn khá phổ biến trong việc dùng xe quệt trâu kéo để vận chuyển phân bón ra ruộng nương, chở lúa, hoa màu, củi về nhà. Xe quệt của họ đóng bằng gỗ, tre, đầu mắc dây cho trâu kéo được nâng cao hơn bởi độ dày của hai càng quệt. Loại xe quệt này có thể dùng để vận chuyển hàng hoá ở cả đường mòn, bờ ruộng, trên đồi và cả dưới hẻm nhỏ,... Đây là loại phương tiện xuất hiện khá sớm và khá phổ biến đối với người Sán Dìu.
Người Mông (Hmông), Hà Nhì, Dao,... thường cưỡi ngựa và dùng sức ngựa để vận chuyển đồ đạc, hàng hoá hay đi chợ. Đây vừa là sở thích, vừa là cung cách vận chuyển, lưu thông, di chuyển ưu việt nhất ở vùng núi hiểm trở. Đáng chú ý nhất là người Mông ở cao nguyên núi đá Hà Giang, vùng cao thuộc dãy Phan Xi Păng, huyện Mường Khương (Lào Cai),... dùng ngựa thồ như một cách vận chuyển và di chuyển duy nhất phổ biến ở khắp các bản làng. […]
Phương tiện vận chuyển của các dân tộc ở Tây Nguyên
[…] Người Tây Nguyên hiếm khi dùng trâu làm sức kéo để vận chuyển như một số dân tộc miền núi phía Bắc. Ngược lại, họ dùng sức voi, sức ngựa,... vào việc vận chuyển, nhất là người Gia-rai, Ê-đê, Mnông,...[…] Trong khoảng từ thế kỉ X − XVIII, nghề săn voi và thuần dưỡng voi đặc biệt phát triển ở vùng Mnông Bu-dâng và Mnông Preh, và nhất là ở khu vực Bản Đôn – Ea-sup. Voi rừng săn bắt được dùng làm voi mồi, voi săn, để vận chuyển hàng hoá, để kéo gỗ, để đi lại,... [...]
Sống ở khu vực nhiều sông suối nhưng cư dân Tây Nguyên lại là những người bơi lội không giỏi. Để có thể vận chuyển, lưu thông trên sông, người ta sử dụng thuyền độc mộc, nhất là các buôn, làng ở ven sông suối lớn. Thuyền độc mộc của cư dân Tây Nguyên không khác nhiều so với thuyền độc mộc của các tộc người ở miền núi phía Bắc. Nó được làm bằng các loại gỗ (dầu, sao,...) nhẹ, xốp, dai, ít nứt và chịu được nước. Tiết diện ngang của những cây gỗ làm thuyền nhiều khi tới cả mét, chiều dài dăm, bảy, thậm chí chục mét, tuỳ theo từng tộc người. Cách chế tác thuyền duy nhất của họ là dùng rìu và lửa, vừa đẽo vừa đốt; đẽo tới đâu, đốt tới đó. Khi nào vách thuyền còn dày chừng hơn chục xăng-ti-mét là được. Việc dùng thuyền vận chuyển, đi lại trên sông ở Tây Nguyên chỉ phổ biến đối với đàn ông, phụ nữ ít tham gia vào loại hình vận chuyển, đi lại này. [...]
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Án, Phạm Đình Hổ, Tang thương ngẫu lục, NXB Văn học, Hà Nội, 2001.
2. Phạm Thận Duật, Phạm Thận Duật toàn tập, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2000.
3. Lê Quý Đôn, Vân đài loại ngữ, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1962.
4. Phạm Đình Hổ, Vũ trung tuỳ bút, NXB Văn học, Hà Nội, 2001.
5. Lưu Hùng, Văn hoá cổ truyền Tây Nguyên, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1996.
6. Nguyễn Trãi, Dư địa chí, NXB Sử học, Hà Nội, 1960.
(Theo TRẦN BÌNH, dlib.huc.edu.vn)
Tác giả triển khai ý tưởng và thông tin theo
PHƯƠNG TIỆN VẬN CHUYỂN CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM NGÀY XƯA
[…] Phương tiện vận chuyển của các dân tộc miền núi phía Bắc
[…] Trong khoảng thế kỉ X – XVIII, các dân tộc miền núi phía Bắc di chuyển bằng cách đi bộ là chính. Một số tộc người sinh sống ở ven sông Đà, sông Mã hay sông Lam,… (người Kháng, người La Ha, người Mảng, người Thái, người Cống,…) đã biết đóng thuyền và sử dụng thuyền vận chuyển, lưu thông trên sông suối lớn. Thuyền của họ được đóng bằng các loại gỗ dai, nhẹ, không nứt, chịu nước,… (như gỗ dầu, gỗ sao,…), tuyệt đối không dùng gỗ trám làm thuyền, nhất là thuyền dùng để đánh cá. Điều này cũng đã được Phạm Thận Duật ghi lại trong Hưng Hoá kí lược, vào thế kỉ XVIII: “Nếu lấy gỗ trám làm thuyền, làm mái chèo,... đánh cá, cá sợ chạy hết, hỏng ăn.”. Nhiều tài liệu cho biết, từ xa xưa, người La Ha, người Kháng, người Thái,... đã nổi tiếng với việc chèo thuyền đuôi én trên sông Đà, sông Mã,... Khác với Tây Nguyên, ngoài dùng thuyền, cư dân miền núi phía Bắc còn dùng bè, mảng tương đối phổ biến. [...] Sông, suối là những con đường lưu thông chủ đạo ở miền núi phía Bắc trong nhiều thế kỉ trước.
Cách ngày nay một vài thế kỉ, trước khi lấy vợ, mọi thanh niên người Thái, Kháng, La Ha, phải tự mình vào rừng lấy gỗ, làm cho được một chiếc thuyền đuôi én (độc mộc) dùng làm phương tiện đi lại của riêng họ. Thuyền đuôi én của cư dân các dân tộc sống ven sông Đà được đục đẽo, chế tạo từ một thân gỗ tròn, thân thuyền thon dài, mũi và đuôi nhọn. Phần đuôi thuyền được thiết kế cong hẳn lên và có dáng dấp hình đuôi chim én (nộc ẻn). Thuyền đuôi én có loại 2 mái chèo, loại 6 mái chèo, loại 12 mái chèo,... Loại lớn nhất có thể tải được hàng chục tạ hàng hoá.
Người Kháng thường sinh sống ở các địa phương ven sông Đà, nên họ tương đối giỏi trong chế tạo và sử dụng thuyền độc mộc đuôi én. Thuyền của họ làm ra không chỉ để vận chuyển, đi lại, mà còn để bán cho các tộc người láng giềng khác. Thành ngữ Thái có câu: “Thuyền tốt không bằng thuyền của người Kháng; dao tốt không bằng dao của người Lào.”.
[..] Người Sán Dìu còn khá phổ biến trong việc dùng xe quệt trâu kéo để vận chuyển phân bón ra ruộng nương, chở lúa, hoa màu, củi về nhà. Xe quệt của họ đóng bằng gỗ, tre, đầu mắc dây cho trâu kéo được nâng cao hơn bởi độ dày của hai càng quệt. Loại xe quệt này có thể dùng để vận chuyển hàng hoá ở cả đường mòn, bờ ruộng, trên đồi và cả dưới hẻm nhỏ,... Đây là loại phương tiện xuất hiện khá sớm và khá phổ biến đối với người Sán Dìu.
Người Mông (Hmông), Hà Nhì, Dao,... thường cưỡi ngựa và dùng sức ngựa để vận chuyển đồ đạc, hàng hoá hay đi chợ. Đây vừa là sở thích, vừa là cung cách vận chuyển, lưu thông, di chuyển ưu việt nhất ở vùng núi hiểm trở. Đáng chú ý nhất là người Mông ở cao nguyên núi đá Hà Giang, vùng cao thuộc dãy Phan Xi Păng, huyện Mường Khương (Lào Cai),... dùng ngựa thồ như một cách vận chuyển và di chuyển duy nhất phổ biến ở khắp các bản làng. […]
Phương tiện vận chuyển của các dân tộc ở Tây Nguyên
[…] Người Tây Nguyên hiếm khi dùng trâu làm sức kéo để vận chuyển như một số dân tộc miền núi phía Bắc. Ngược lại, họ dùng sức voi, sức ngựa,... vào việc vận chuyển, nhất là người Gia-rai, Ê-đê, Mnông,...[…] Trong khoảng từ thế kỉ X − XVIII, nghề săn voi và thuần dưỡng voi đặc biệt phát triển ở vùng Mnông Bu-dâng và Mnông Preh, và nhất là ở khu vực Bản Đôn – Ea-sup. Voi rừng săn bắt được dùng làm voi mồi, voi săn, để vận chuyển hàng hoá, để kéo gỗ, để đi lại,... [...]
Sống ở khu vực nhiều sông suối nhưng cư dân Tây Nguyên lại là những người bơi lội không giỏi. Để có thể vận chuyển, lưu thông trên sông, người ta sử dụng thuyền độc mộc, nhất là các buôn, làng ở ven sông suối lớn. Thuyền độc mộc của cư dân Tây Nguyên không khác nhiều so với thuyền độc mộc của các tộc người ở miền núi phía Bắc. Nó được làm bằng các loại gỗ (dầu, sao,...) nhẹ, xốp, dai, ít nứt và chịu được nước. Tiết diện ngang của những cây gỗ làm thuyền nhiều khi tới cả mét, chiều dài dăm, bảy, thậm chí chục mét, tuỳ theo từng tộc người. Cách chế tác thuyền duy nhất của họ là dùng rìu và lửa, vừa đẽo vừa đốt; đẽo tới đâu, đốt tới đó. Khi nào vách thuyền còn dày chừng hơn chục xăng-ti-mét là được. Việc dùng thuyền vận chuyển, đi lại trên sông ở Tây Nguyên chỉ phổ biến đối với đàn ông, phụ nữ ít tham gia vào loại hình vận chuyển, đi lại này. [...]
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Án, Phạm Đình Hổ, Tang thương ngẫu lục, NXB Văn học, Hà Nội, 2001.
2. Phạm Thận Duật, Phạm Thận Duật toàn tập, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2000.
3. Lê Quý Đôn, Vân đài loại ngữ, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1962.
4. Phạm Đình Hổ, Vũ trung tuỳ bút, NXB Văn học, Hà Nội, 2001.
5. Lưu Hùng, Văn hoá cổ truyền Tây Nguyên, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1996.
6. Nguyễn Trãi, Dư địa chí, NXB Sử học, Hà Nội, 1960.
(Theo TRẦN BÌNH, dlib.huc.edu.vn)
Tác giả triển khai ý tưởng và thông tin theo nhóm đối tượng có tác dụng gì?
1. Nguyễn Án, Phạm Đình Hổ, Tang thương ngẫu lục, NXB Văn học, Hà Nội, 2001.
2. Phạm Thận Duật, Phạm Thận Duật toàn tập, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2000.
3. Lê Quý Đôn, Vân đài loại ngữ, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1962.
4. Phạm Đình Hổ, Vũ trung tuỳ bút, NXB Văn học, Hà Nội, 2001.
5. Lưu Hùng, Văn hoá cổ truyền Tây Nguyên, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1996.
6. Nguyễn Trãi, Dư địa chí, NXB Sử học, Hà Nội, 1960.
Nội dung trên được gọi là gì?
PHƯƠNG TIỆN VẬN CHUYỂN CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM NGÀY XƯA
[…] Phương tiện vận chuyển của các dân tộc miền núi phía Bắc
[…] Trong khoảng thế kỉ X – XVIII, các dân tộc miền núi phía Bắc di chuyển bằng cách đi bộ là chính. Một số tộc người sinh sống ở ven sông Đà, sông Mã hay sông Lam,… (người Kháng, người La Ha, người Mảng, người Thái, người Cống,…) đã biết đóng thuyền và sử dụng thuyền vận chuyển, lưu thông trên sông suối lớn. Thuyền của họ được đóng bằng các loại gỗ dai, nhẹ, không nứt, chịu nước,… (như gỗ dầu, gỗ sao,…), tuyệt đối không dùng gỗ trám làm thuyền, nhất là thuyền dùng để đánh cá. Điều này cũng đã được Phạm Thận Duật ghi lại trong Hưng Hoá kí lược, vào thế kỉ XVIII: “Nếu lấy gỗ trám làm thuyền, làm mái chèo,... đánh cá, cá sợ chạy hết, hỏng ăn.”. Nhiều tài liệu cho biết, từ xa xưa, người La Ha, người Kháng, người Thái,... đã nổi tiếng với việc chèo thuyền đuôi én trên sông Đà, sông Mã,... Khác với Tây Nguyên, ngoài dùng thuyền, cư dân miền núi phía Bắc còn dùng bè, mảng tương đối phổ biến. [...] Sông, suối là những con đường lưu thông chủ đạo ở miền núi phía Bắc trong nhiều thế kỉ trước.
Cách ngày nay một vài thế kỉ, trước khi lấy vợ, mọi thanh niên người Thái, Kháng, La Ha, phải tự mình vào rừng lấy gỗ, làm cho được một chiếc thuyền đuôi én (độc mộc) dùng làm phương tiện đi lại của riêng họ. Thuyền đuôi én của cư dân các dân tộc sống ven sông Đà được đục đẽo, chế tạo từ một thân gỗ tròn, thân thuyền thon dài, mũi và đuôi nhọn. Phần đuôi thuyền được thiết kế cong hẳn lên và có dáng dấp hình đuôi chim én (nộc ẻn). Thuyền đuôi én có loại 2 mái chèo, loại 6 mái chèo, loại 12 mái chèo,... Loại lớn nhất có thể tải được hàng chục tạ hàng hoá.
Người Kháng thường sinh sống ở các địa phương ven sông Đà, nên họ tương đối giỏi trong chế tạo và sử dụng thuyền độc mộc đuôi én. Thuyền của họ làm ra không chỉ để vận chuyển, đi lại, mà còn để bán cho các tộc người láng giềng khác. Thành ngữ Thái có câu: “Thuyền tốt không bằng thuyền của người Kháng; dao tốt không bằng dao của người Lào.”.
[..] Người Sán Dìu còn khá phổ biến trong việc dùng xe quệt trâu kéo để vận chuyển phân bón ra ruộng nương, chở lúa, hoa màu, củi về nhà. Xe quệt của họ đóng bằng gỗ, tre, đầu mắc dây cho trâu kéo được nâng cao hơn bởi độ dày của hai càng quệt. Loại xe quệt này có thể dùng để vận chuyển hàng hoá ở cả đường mòn, bờ ruộng, trên đồi và cả dưới hẻm nhỏ,... Đây là loại phương tiện xuất hiện khá sớm và khá phổ biến đối với người Sán Dìu.
Người Mông (Hmông), Hà Nhì, Dao,... thường cưỡi ngựa và dùng sức ngựa để vận chuyển đồ đạc, hàng hoá hay đi chợ. Đây vừa là sở thích, vừa là cung cách vận chuyển, lưu thông, di chuyển ưu việt nhất ở vùng núi hiểm trở. Đáng chú ý nhất là người Mông ở cao nguyên núi đá Hà Giang, vùng cao thuộc dãy Phan Xi Păng, huyện Mường Khương (Lào Cai),... dùng ngựa thồ như một cách vận chuyển và di chuyển duy nhất phổ biến ở khắp các bản làng. […]
Phương tiện vận chuyển của các dân tộc ở Tây Nguyên
[…] Người Tây Nguyên hiếm khi dùng trâu làm sức kéo để vận chuyển như một số dân tộc miền núi phía Bắc. Ngược lại, họ dùng sức voi, sức ngựa,... vào việc vận chuyển, nhất là người Gia-rai, Ê-đê, Mnông,...[…] Trong khoảng từ thế kỉ X − XVIII, nghề săn voi và thuần dưỡng voi đặc biệt phát triển ở vùng Mnông Bu-dâng và Mnông Preh, và nhất là ở khu vực Bản Đôn – Ea-sup. Voi rừng săn bắt được dùng làm voi mồi, voi săn, để vận chuyển hàng hoá, để kéo gỗ, để đi lại,... [...]
Sống ở khu vực nhiều sông suối nhưng cư dân Tây Nguyên lại là những người bơi lội không giỏi. Để có thể vận chuyển, lưu thông trên sông, người ta sử dụng thuyền độc mộc, nhất là các buôn, làng ở ven sông suối lớn. Thuyền độc mộc của cư dân Tây Nguyên không khác nhiều so với thuyền độc mộc của các tộc người ở miền núi phía Bắc. Nó được làm bằng các loại gỗ (dầu, sao,...) nhẹ, xốp, dai, ít nứt và chịu được nước. Tiết diện ngang của những cây gỗ làm thuyền nhiều khi tới cả mét, chiều dài dăm, bảy, thậm chí chục mét, tuỳ theo từng tộc người. Cách chế tác thuyền duy nhất của họ là dùng rìu và lửa, vừa đẽo vừa đốt; đẽo tới đâu, đốt tới đó. Khi nào vách thuyền còn dày chừng hơn chục xăng-ti-mét là được. Việc dùng thuyền vận chuyển, đi lại trên sông ở Tây Nguyên chỉ phổ biến đối với đàn ông, phụ nữ ít tham gia vào loại hình vận chuyển, đi lại này. [...]
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Án, Phạm Đình Hổ, Tang thương ngẫu lục, NXB Văn học, Hà Nội, 2001.
2. Phạm Thận Duật, Phạm Thận Duật toàn tập, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2000.
3. Lê Quý Đôn, Vân đài loại ngữ, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1962.
4. Phạm Đình Hổ, Vũ trung tuỳ bút, NXB Văn học, Hà Nội, 2001.
5. Lưu Hùng, Văn hoá cổ truyền Tây Nguyên, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1996.
6. Nguyễn Trãi, Dư địa chí, NXB Sử học, Hà Nội, 1960.
(Theo TRẦN BÌNH, dlib.huc.edu.vn)
Tài liệu tham khảo có tác dụng gì? (Chọn 3 đáp án)
PHƯƠNG TIỆN VẬN CHUYỂN CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM NGÀY XƯA
[…] Phương tiện vận chuyển của các dân tộc miền núi phía Bắc
[…] Trong khoảng thế kỉ X – XVIII, các dân tộc miền núi phía Bắc di chuyển bằng cách đi bộ là chính. Một số tộc người sinh sống ở ven sông Đà, sông Mã hay sông Lam,… (người Kháng, người La Ha, người Mảng, người Thái, người Cống,…) đã biết đóng thuyền và sử dụng thuyền vận chuyển, lưu thông trên sông suối lớn. Thuyền của họ được đóng bằng các loại gỗ dai, nhẹ, không nứt, chịu nước,… (như gỗ dầu, gỗ sao,…), tuyệt đối không dùng gỗ trám làm thuyền, nhất là thuyền dùng để đánh cá. Điều này cũng đã được Phạm Thận Duật ghi lại trong Hưng Hoá kí lược, vào thế kỉ XVIII: “Nếu lấy gỗ trám làm thuyền, làm mái chèo,... đánh cá, cá sợ chạy hết, hỏng ăn.”. Nhiều tài liệu cho biết, từ xa xưa, người La Ha, người Kháng, người Thái,... đã nổi tiếng với việc chèo thuyền đuôi én trên sông Đà, sông Mã,... Khác với Tây Nguyên, ngoài dùng thuyền, cư dân miền núi phía Bắc còn dùng bè, mảng tương đối phổ biến. [...] Sông, suối là những con đường lưu thông chủ đạo ở miền núi phía Bắc trong nhiều thế kỉ trước.
Cách ngày nay một vài thế kỉ, trước khi lấy vợ, mọi thanh niên người Thái, Kháng, La Ha, phải tự mình vào rừng lấy gỗ, làm cho được một chiếc thuyền đuôi én (độc mộc) dùng làm phương tiện đi lại của riêng họ. Thuyền đuôi én của cư dân các dân tộc sống ven sông Đà được đục đẽo, chế tạo từ một thân gỗ tròn, thân thuyền thon dài, mũi và đuôi nhọn. Phần đuôi thuyền được thiết kế cong hẳn lên và có dáng dấp hình đuôi chim én (nộc ẻn). Thuyền đuôi én có loại 2 mái chèo, loại 6 mái chèo, loại 12 mái chèo,... Loại lớn nhất có thể tải được hàng chục tạ hàng hoá.
Người Kháng thường sinh sống ở các địa phương ven sông Đà, nên họ tương đối giỏi trong chế tạo và sử dụng thuyền độc mộc đuôi én. Thuyền của họ làm ra không chỉ để vận chuyển, đi lại, mà còn để bán cho các tộc người láng giềng khác. Thành ngữ Thái có câu: “Thuyền tốt không bằng thuyền của người Kháng; dao tốt không bằng dao của người Lào.”.
[..] Người Sán Dìu còn khá phổ biến trong việc dùng xe quệt trâu kéo để vận chuyển phân bón ra ruộng nương, chở lúa, hoa màu, củi về nhà. Xe quệt của họ đóng bằng gỗ, tre, đầu mắc dây cho trâu kéo được nâng cao hơn bởi độ dày của hai càng quệt. Loại xe quệt này có thể dùng để vận chuyển hàng hoá ở cả đường mòn, bờ ruộng, trên đồi và cả dưới hẻm nhỏ,... Đây là loại phương tiện xuất hiện khá sớm và khá phổ biến đối với người Sán Dìu.
Người Mông (Hmông), Hà Nhì, Dao,... thường cưỡi ngựa và dùng sức ngựa để vận chuyển đồ đạc, hàng hoá hay đi chợ. Đây vừa là sở thích, vừa là cung cách vận chuyển, lưu thông, di chuyển ưu việt nhất ở vùng núi hiểm trở. Đáng chú ý nhất là người Mông ở cao nguyên núi đá Hà Giang, vùng cao thuộc dãy Phan Xi Păng, huyện Mường Khương (Lào Cai),... dùng ngựa thồ như một cách vận chuyển và di chuyển duy nhất phổ biến ở khắp các bản làng. […]
Phương tiện vận chuyển của các dân tộc ở Tây Nguyên
[…] Người Tây Nguyên hiếm khi dùng trâu làm sức kéo để vận chuyển như một số dân tộc miền núi phía Bắc. Ngược lại, họ dùng sức voi, sức ngựa,... vào việc vận chuyển, nhất là người Gia-rai, Ê-đê, Mnông,...[…] Trong khoảng từ thế kỉ X − XVIII, nghề săn voi và thuần dưỡng voi đặc biệt phát triển ở vùng Mnông Bu-dâng và Mnông Preh, và nhất là ở khu vực Bản Đôn – Ea-sup. Voi rừng săn bắt được dùng làm voi mồi, voi săn, để vận chuyển hàng hoá, để kéo gỗ, để đi lại,... [...]
Sống ở khu vực nhiều sông suối nhưng cư dân Tây Nguyên lại là những người bơi lội không giỏi. Để có thể vận chuyển, lưu thông trên sông, người ta sử dụng thuyền độc mộc, nhất là các buôn, làng ở ven sông suối lớn. Thuyền độc mộc của cư dân Tây Nguyên không khác nhiều so với thuyền độc mộc của các tộc người ở miền núi phía Bắc. Nó được làm bằng các loại gỗ (dầu, sao,...) nhẹ, xốp, dai, ít nứt và chịu được nước. Tiết diện ngang của những cây gỗ làm thuyền nhiều khi tới cả mét, chiều dài dăm, bảy, thậm chí chục mét, tuỳ theo từng tộc người. Cách chế tác thuyền duy nhất của họ là dùng rìu và lửa, vừa đẽo vừa đốt; đẽo tới đâu, đốt tới đó. Khi nào vách thuyền còn dày chừng hơn chục xăng-ti-mét là được. Việc dùng thuyền vận chuyển, đi lại trên sông ở Tây Nguyên chỉ phổ biến đối với đàn ông, phụ nữ ít tham gia vào loại hình vận chuyển, đi lại này. [...]
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Án, Phạm Đình Hổ, Tang thương ngẫu lục, NXB Văn học, Hà Nội, 2001.
2. Phạm Thận Duật, Phạm Thận Duật toàn tập, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2000.
3. Lê Quý Đôn, Vân đài loại ngữ, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1962.
4. Phạm Đình Hổ, Vũ trung tuỳ bút, NXB Văn học, Hà Nội, 2001.
5. Lưu Hùng, Văn hoá cổ truyền Tây Nguyên, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1996.
6. Nguyễn Trãi, Dư địa chí, NXB Sử học, Hà Nội, 1960.
(Theo TRẦN BÌNH, dlib.huc.edu.vn)
Để vận chuyển trên đất liền, người Tây Nguyên dùng
PHƯƠNG TIỆN VẬN CHUYỂN CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM NGÀY XƯA
[…] Phương tiện vận chuyển của các dân tộc miền núi phía Bắc
[…] Trong khoảng thế kỉ X – XVIII, các dân tộc miền núi phía Bắc di chuyển bằng cách đi bộ là chính. Một số tộc người sinh sống ở ven sông Đà, sông Mã hay sông Lam,… (người Kháng, người La Ha, người Mảng, người Thái, người Cống,…) đã biết đóng thuyền và sử dụng thuyền vận chuyển, lưu thông trên sông suối lớn. Thuyền của họ được đóng bằng các loại gỗ dai, nhẹ, không nứt, chịu nước,… (như gỗ dầu, gỗ sao,…), tuyệt đối không dùng gỗ trám làm thuyền, nhất là thuyền dùng để đánh cá. Điều này cũng đã được Phạm Thận Duật ghi lại trong Hưng Hoá kí lược, vào thế kỉ XVIII: “Nếu lấy gỗ trám làm thuyền, làm mái chèo,... đánh cá, cá sợ chạy hết, hỏng ăn.”. Nhiều tài liệu cho biết, từ xa xưa, người La Ha, người Kháng, người Thái,... đã nổi tiếng với việc chèo thuyền đuôi én trên sông Đà, sông Mã,... Khác với Tây Nguyên, ngoài dùng thuyền, cư dân miền núi phía Bắc còn dùng bè, mảng tương đối phổ biến. [...] Sông, suối là những con đường lưu thông chủ đạo ở miền núi phía Bắc trong nhiều thế kỉ trước.
Cách ngày nay một vài thế kỉ, trước khi lấy vợ, mọi thanh niên người Thái, Kháng, La Ha, phải tự mình vào rừng lấy gỗ, làm cho được một chiếc thuyền đuôi én (độc mộc) dùng làm phương tiện đi lại của riêng họ. Thuyền đuôi én của cư dân các dân tộc sống ven sông Đà được đục đẽo, chế tạo từ một thân gỗ tròn, thân thuyền thon dài, mũi và đuôi nhọn. Phần đuôi thuyền được thiết kế cong hẳn lên và có dáng dấp hình đuôi chim én (nộc ẻn). Thuyền đuôi én có loại 2 mái chèo, loại 6 mái chèo, loại 12 mái chèo,... Loại lớn nhất có thể tải được hàng chục tạ hàng hoá.
Người Kháng thường sinh sống ở các địa phương ven sông Đà, nên họ tương đối giỏi trong chế tạo và sử dụng thuyền độc mộc đuôi én. Thuyền của họ làm ra không chỉ để vận chuyển, đi lại, mà còn để bán cho các tộc người láng giềng khác. Thành ngữ Thái có câu: “Thuyền tốt không bằng thuyền của người Kháng; dao tốt không bằng dao của người Lào.”.
[..] Người Sán Dìu còn khá phổ biến trong việc dùng xe quệt trâu kéo để vận chuyển phân bón ra ruộng nương, chở lúa, hoa màu, củi về nhà. Xe quệt của họ đóng bằng gỗ, tre, đầu mắc dây cho trâu kéo được nâng cao hơn bởi độ dày của hai càng quệt. Loại xe quệt này có thể dùng để vận chuyển hàng hoá ở cả đường mòn, bờ ruộng, trên đồi và cả dưới hẻm nhỏ,... Đây là loại phương tiện xuất hiện khá sớm và khá phổ biến đối với người Sán Dìu.
Người Mông (Hmông), Hà Nhì, Dao,... thường cưỡi ngựa và dùng sức ngựa để vận chuyển đồ đạc, hàng hoá hay đi chợ. Đây vừa là sở thích, vừa là cung cách vận chuyển, lưu thông, di chuyển ưu việt nhất ở vùng núi hiểm trở. Đáng chú ý nhất là người Mông ở cao nguyên núi đá Hà Giang, vùng cao thuộc dãy Phan Xi Păng, huyện Mường Khương (Lào Cai),... dùng ngựa thồ như một cách vận chuyển và di chuyển duy nhất phổ biến ở khắp các bản làng. […]
Phương tiện vận chuyển của các dân tộc ở Tây Nguyên
[…] Người Tây Nguyên hiếm khi dùng trâu làm sức kéo để vận chuyển như một số dân tộc miền núi phía Bắc. Ngược lại, họ dùng sức voi, sức ngựa,... vào việc vận chuyển, nhất là người Gia-rai, Ê-đê, Mnông,...[…] Trong khoảng từ thế kỉ X − XVIII, nghề săn voi và thuần dưỡng voi đặc biệt phát triển ở vùng Mnông Bu-dâng và Mnông Preh, và nhất là ở khu vực Bản Đôn – Ea-sup. Voi rừng săn bắt được dùng làm voi mồi, voi săn, để vận chuyển hàng hoá, để kéo gỗ, để đi lại,... [...]
Sống ở khu vực nhiều sông suối nhưng cư dân Tây Nguyên lại là những người bơi lội không giỏi. Để có thể vận chuyển, lưu thông trên sông, người ta sử dụng thuyền độc mộc, nhất là các buôn, làng ở ven sông suối lớn. Thuyền độc mộc của cư dân Tây Nguyên không khác nhiều so với thuyền độc mộc của các tộc người ở miền núi phía Bắc. Nó được làm bằng các loại gỗ (dầu, sao,...) nhẹ, xốp, dai, ít nứt và chịu được nước. Tiết diện ngang của những cây gỗ làm thuyền nhiều khi tới cả mét, chiều dài dăm, bảy, thậm chí chục mét, tuỳ theo từng tộc người. Cách chế tác thuyền duy nhất của họ là dùng rìu và lửa, vừa đẽo vừa đốt; đẽo tới đâu, đốt tới đó. Khi nào vách thuyền còn dày chừng hơn chục xăng-ti-mét là được. Việc dùng thuyền vận chuyển, đi lại trên sông ở Tây Nguyên chỉ phổ biến đối với đàn ông, phụ nữ ít tham gia vào loại hình vận chuyển, đi lại này. [...]
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Án, Phạm Đình Hổ, Tang thương ngẫu lục, NXB Văn học, Hà Nội, 2001.
2. Phạm Thận Duật, Phạm Thận Duật toàn tập, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2000.
3. Lê Quý Đôn, Vân đài loại ngữ, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1962.
4. Phạm Đình Hổ, Vũ trung tuỳ bút, NXB Văn học, Hà Nội, 2001.
5. Lưu Hùng, Văn hoá cổ truyền Tây Nguyên, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1996.
6. Nguyễn Trãi, Dư địa chí, NXB Sử học, Hà Nội, 1960.
(Theo TRẦN BÌNH, dlib.huc.edu.vn)
Phương tiện chính của người Thái, Kháng, La Ha khi đi lại, vận chuyển hàng hóa là gì?
PHƯƠNG TIỆN VẬN CHUYỂN CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM NGÀY XƯA
[…] Phương tiện vận chuyển của các dân tộc miền núi phía Bắc
[…] Trong khoảng thế kỉ X – XVIII, các dân tộc miền núi phía Bắc di chuyển bằng cách đi bộ là chính. Một số tộc người sinh sống ở ven sông Đà, sông Mã hay sông Lam,… (người Kháng, người La Ha, người Mảng, người Thái, người Cống,…) đã biết đóng thuyền và sử dụng thuyền vận chuyển, lưu thông trên sông suối lớn. Thuyền của họ được đóng bằng các loại gỗ dai, nhẹ, không nứt, chịu nước,… (như gỗ dầu, gỗ sao,…), tuyệt đối không dùng gỗ trám làm thuyền, nhất là thuyền dùng để đánh cá. Điều này cũng đã được Phạm Thận Duật ghi lại trong Hưng Hoá kí lược, vào thế kỉ XVIII: “Nếu lấy gỗ trám làm thuyền, làm mái chèo,... đánh cá, cá sợ chạy hết, hỏng ăn.”. Nhiều tài liệu cho biết, từ xa xưa, người La Ha, người Kháng, người Thái,... đã nổi tiếng với việc chèo thuyền đuôi én trên sông Đà, sông Mã,... Khác với Tây Nguyên, ngoài dùng thuyền, cư dân miền núi phía Bắc còn dùng bè, mảng tương đối phổ biến. [...] Sông, suối là những con đường lưu thông chủ đạo ở miền núi phía Bắc trong nhiều thế kỉ trước.
Cách ngày nay một vài thế kỉ, trước khi lấy vợ, mọi thanh niên người Thái, Kháng, La Ha, phải tự mình vào rừng lấy gỗ, làm cho được một chiếc thuyền đuôi én (độc mộc) dùng làm phương tiện đi lại của riêng họ. Thuyền đuôi én của cư dân các dân tộc sống ven sông Đà được đục đẽo, chế tạo từ một thân gỗ tròn, thân thuyền thon dài, mũi và đuôi nhọn. Phần đuôi thuyền được thiết kế cong hẳn lên và có dáng dấp hình đuôi chim én (nộc ẻn). Thuyền đuôi én có loại 2 mái chèo, loại 6 mái chèo, loại 12 mái chèo,... Loại lớn nhất có thể tải được hàng chục tạ hàng hoá.
Người Kháng thường sinh sống ở các địa phương ven sông Đà, nên họ tương đối giỏi trong chế tạo và sử dụng thuyền độc mộc đuôi én. Thuyền của họ làm ra không chỉ để vận chuyển, đi lại, mà còn để bán cho các tộc người láng giềng khác. Thành ngữ Thái có câu: “Thuyền tốt không bằng thuyền của người Kháng; dao tốt không bằng dao của người Lào.”.
[..] Người Sán Dìu còn khá phổ biến trong việc dùng xe quệt trâu kéo để vận chuyển phân bón ra ruộng nương, chở lúa, hoa màu, củi về nhà. Xe quệt của họ đóng bằng gỗ, tre, đầu mắc dây cho trâu kéo được nâng cao hơn bởi độ dày của hai càng quệt. Loại xe quệt này có thể dùng để vận chuyển hàng hoá ở cả đường mòn, bờ ruộng, trên đồi và cả dưới hẻm nhỏ,... Đây là loại phương tiện xuất hiện khá sớm và khá phổ biến đối với người Sán Dìu.
Người Mông (Hmông), Hà Nhì, Dao,... thường cưỡi ngựa và dùng sức ngựa để vận chuyển đồ đạc, hàng hoá hay đi chợ. Đây vừa là sở thích, vừa là cung cách vận chuyển, lưu thông, di chuyển ưu việt nhất ở vùng núi hiểm trở. Đáng chú ý nhất là người Mông ở cao nguyên núi đá Hà Giang, vùng cao thuộc dãy Phan Xi Păng, huyện Mường Khương (Lào Cai),... dùng ngựa thồ như một cách vận chuyển và di chuyển duy nhất phổ biến ở khắp các bản làng. […]
Phương tiện vận chuyển của các dân tộc ở Tây Nguyên
[…] Người Tây Nguyên hiếm khi dùng trâu làm sức kéo để vận chuyển như một số dân tộc miền núi phía Bắc. Ngược lại, họ dùng sức voi, sức ngựa,... vào việc vận chuyển, nhất là người Gia-rai, Ê-đê, Mnông,...[…] Trong khoảng từ thế kỉ X − XVIII, nghề săn voi và thuần dưỡng voi đặc biệt phát triển ở vùng Mnông Bu-dâng và Mnông Preh, và nhất là ở khu vực Bản Đôn – Ea-sup. Voi rừng săn bắt được dùng làm voi mồi, voi săn, để vận chuyển hàng hoá, để kéo gỗ, để đi lại,... [...]
Sống ở khu vực nhiều sông suối nhưng cư dân Tây Nguyên lại là những người bơi lội không giỏi. Để có thể vận chuyển, lưu thông trên sông, người ta sử dụng thuyền độc mộc, nhất là các buôn, làng ở ven sông suối lớn. Thuyền độc mộc của cư dân Tây Nguyên không khác nhiều so với thuyền độc mộc của các tộc người ở miền núi phía Bắc. Nó được làm bằng các loại gỗ (dầu, sao,...) nhẹ, xốp, dai, ít nứt và chịu được nước. Tiết diện ngang của những cây gỗ làm thuyền nhiều khi tới cả mét, chiều dài dăm, bảy, thậm chí chục mét, tuỳ theo từng tộc người. Cách chế tác thuyền duy nhất của họ là dùng rìu và lửa, vừa đẽo vừa đốt; đẽo tới đâu, đốt tới đó. Khi nào vách thuyền còn dày chừng hơn chục xăng-ti-mét là được. Việc dùng thuyền vận chuyển, đi lại trên sông ở Tây Nguyên chỉ phổ biến đối với đàn ông, phụ nữ ít tham gia vào loại hình vận chuyển, đi lại này. [...]
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Án, Phạm Đình Hổ, Tang thương ngẫu lục, NXB Văn học, Hà Nội, 2001.
2. Phạm Thận Duật, Phạm Thận Duật toàn tập, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2000.
3. Lê Quý Đôn, Vân đài loại ngữ, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1962.
4. Phạm Đình Hổ, Vũ trung tuỳ bút, NXB Văn học, Hà Nội, 2001.
5. Lưu Hùng, Văn hoá cổ truyền Tây Nguyên, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1996.
6. Nguyễn Trãi, Dư địa chí, NXB Sử học, Hà Nội, 1960.
(Theo TRẦN BÌNH, dlib.huc.edu.vn)
Vì sao người Mông (Hmông), Hà Nhì, Dao,... thường cưỡi ngựa và dùng sức ngựa để vận chuyển đồ đạc, hàng hoá hay đi chợ?
PHƯƠNG TIỆN VẬN CHUYỂN CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM NGÀY XƯA
[…] Phương tiện vận chuyển của các dân tộc miền núi phía Bắc
[…] Trong khoảng thế kỉ X – XVIII, các dân tộc miền núi phía Bắc di chuyển bằng cách đi bộ là chính. Một số tộc người sinh sống ở ven sông Đà, sông Mã hay sông Lam,… (người Kháng, người La Ha, người Mảng, người Thái, người Cống,…) đã biết đóng thuyền và sử dụng thuyền vận chuyển, lưu thông trên sông suối lớn. Thuyền của họ được đóng bằng các loại gỗ dai, nhẹ, không nứt, chịu nước,… (như gỗ dầu, gỗ sao,…), tuyệt đối không dùng gỗ trám làm thuyền, nhất là thuyền dùng để đánh cá. Điều này cũng đã được Phạm Thận Duật ghi lại trong Hưng Hoá kí lược, vào thế kỉ XVIII: “Nếu lấy gỗ trám làm thuyền, làm mái chèo,... đánh cá, cá sợ chạy hết, hỏng ăn.”. Nhiều tài liệu cho biết, từ xa xưa, người La Ha, người Kháng, người Thái,... đã nổi tiếng với việc chèo thuyền đuôi én trên sông Đà, sông Mã,... Khác với Tây Nguyên, ngoài dùng thuyền, cư dân miền núi phía Bắc còn dùng bè, mảng tương đối phổ biến. [...] Sông, suối là những con đường lưu thông chủ đạo ở miền núi phía Bắc trong nhiều thế kỉ trước.
Cách ngày nay một vài thế kỉ, trước khi lấy vợ, mọi thanh niên người Thái, Kháng, La Ha, phải tự mình vào rừng lấy gỗ, làm cho được một chiếc thuyền đuôi én (độc mộc) dùng làm phương tiện đi lại của riêng họ. Thuyền đuôi én của cư dân các dân tộc sống ven sông Đà được đục đẽo, chế tạo từ một thân gỗ tròn, thân thuyền thon dài, mũi và đuôi nhọn. Phần đuôi thuyền được thiết kế cong hẳn lên và có dáng dấp hình đuôi chim én (nộc ẻn). Thuyền đuôi én có loại 2 mái chèo, loại 6 mái chèo, loại 12 mái chèo,... Loại lớn nhất có thể tải được hàng chục tạ hàng hoá.
Người Kháng thường sinh sống ở các địa phương ven sông Đà, nên họ tương đối giỏi trong chế tạo và sử dụng thuyền độc mộc đuôi én. Thuyền của họ làm ra không chỉ để vận chuyển, đi lại, mà còn để bán cho các tộc người láng giềng khác. Thành ngữ Thái có câu: “Thuyền tốt không bằng thuyền của người Kháng; dao tốt không bằng dao của người Lào.”.
[..] Người Sán Dìu còn khá phổ biến trong việc dùng xe quệt trâu kéo để vận chuyển phân bón ra ruộng nương, chở lúa, hoa màu, củi về nhà. Xe quệt của họ đóng bằng gỗ, tre, đầu mắc dây cho trâu kéo được nâng cao hơn bởi độ dày của hai càng quệt. Loại xe quệt này có thể dùng để vận chuyển hàng hoá ở cả đường mòn, bờ ruộng, trên đồi và cả dưới hẻm nhỏ,... Đây là loại phương tiện xuất hiện khá sớm và khá phổ biến đối với người Sán Dìu.
Người Mông (Hmông), Hà Nhì, Dao,... thường cưỡi ngựa và dùng sức ngựa để vận chuyển đồ đạc, hàng hoá hay đi chợ. Đây vừa là sở thích, vừa là cung cách vận chuyển, lưu thông, di chuyển ưu việt nhất ở vùng núi hiểm trở. Đáng chú ý nhất là người Mông ở cao nguyên núi đá Hà Giang, vùng cao thuộc dãy Phan Xi Păng, huyện Mường Khương (Lào Cai),... dùng ngựa thồ như một cách vận chuyển và di chuyển duy nhất phổ biến ở khắp các bản làng. […]
Phương tiện vận chuyển của các dân tộc ở Tây Nguyên
[…] Người Tây Nguyên hiếm khi dùng trâu làm sức kéo để vận chuyển như một số dân tộc miền núi phía Bắc. Ngược lại, họ dùng sức voi, sức ngựa,... vào việc vận chuyển, nhất là người Gia-rai, Ê-đê, Mnông,...[…] Trong khoảng từ thế kỉ X − XVIII, nghề săn voi và thuần dưỡng voi đặc biệt phát triển ở vùng Mnông Bu-dâng và Mnông Preh, và nhất là ở khu vực Bản Đôn – Ea-sup. Voi rừng săn bắt được dùng làm voi mồi, voi săn, để vận chuyển hàng hoá, để kéo gỗ, để đi lại,... [...]
Sống ở khu vực nhiều sông suối nhưng cư dân Tây Nguyên lại là những người bơi lội không giỏi. Để có thể vận chuyển, lưu thông trên sông, người ta sử dụng thuyền độc mộc, nhất là các buôn, làng ở ven sông suối lớn. Thuyền độc mộc của cư dân Tây Nguyên không khác nhiều so với thuyền độc mộc của các tộc người ở miền núi phía Bắc. Nó được làm bằng các loại gỗ (dầu, sao,...) nhẹ, xốp, dai, ít nứt và chịu được nước. Tiết diện ngang của những cây gỗ làm thuyền nhiều khi tới cả mét, chiều dài dăm, bảy, thậm chí chục mét, tuỳ theo từng tộc người. Cách chế tác thuyền duy nhất của họ là dùng rìu và lửa, vừa đẽo vừa đốt; đẽo tới đâu, đốt tới đó. Khi nào vách thuyền còn dày chừng hơn chục xăng-ti-mét là được. Việc dùng thuyền vận chuyển, đi lại trên sông ở Tây Nguyên chỉ phổ biến đối với đàn ông, phụ nữ ít tham gia vào loại hình vận chuyển, đi lại này. [...]
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Án, Phạm Đình Hổ, Tang thương ngẫu lục, NXB Văn học, Hà Nội, 2001.
2. Phạm Thận Duật, Phạm Thận Duật toàn tập, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2000.
3. Lê Quý Đôn, Vân đài loại ngữ, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1962.
4. Phạm Đình Hổ, Vũ trung tuỳ bút, NXB Văn học, Hà Nội, 2001.
5. Lưu Hùng, Văn hoá cổ truyền Tây Nguyên, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1996.
6. Nguyễn Trãi, Dư địa chí, NXB Sử học, Hà Nội, 1960.
(Theo TRẦN BÌNH, dlib.huc.edu.vn)
Thuyền của người Kháng làm ra không chỉ để vận chuyển, đi lại mà còn để làm gì?
PHƯƠNG TIỆN VẬN CHUYỂN CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM NGÀY XƯA
[…] Phương tiện vận chuyển của các dân tộc miền núi phía Bắc
[…] Trong khoảng thế kỉ X – XVIII, các dân tộc miền núi phía Bắc di chuyển bằng cách đi bộ là chính. Một số tộc người sinh sống ở ven sông Đà, sông Mã hay sông Lam,… (người Kháng, người La Ha, người Mảng, người Thái, người Cống,…) đã biết đóng thuyền và sử dụng thuyền vận chuyển, lưu thông trên sông suối lớn. Thuyền của họ được đóng bằng các loại gỗ dai, nhẹ, không nứt, chịu nước,… (như gỗ dầu, gỗ sao,…), tuyệt đối không dùng gỗ trám làm thuyền, nhất là thuyền dùng để đánh cá. Điều này cũng đã được Phạm Thận Duật ghi lại trong Hưng Hoá kí lược, vào thế kỉ XVIII: “Nếu lấy gỗ trám làm thuyền, làm mái chèo,... đánh cá, cá sợ chạy hết, hỏng ăn.”. Nhiều tài liệu cho biết, từ xa xưa, người La Ha, người Kháng, người Thái,... đã nổi tiếng với việc chèo thuyền đuôi én trên sông Đà, sông Mã,... Khác với Tây Nguyên, ngoài dùng thuyền, cư dân miền núi phía Bắc còn dùng bè, mảng tương đối phổ biến. [...] Sông, suối là những con đường lưu thông chủ đạo ở miền núi phía Bắc trong nhiều thế kỉ trước.
Cách ngày nay một vài thế kỉ, trước khi lấy vợ, mọi thanh niên người Thái, Kháng, La Ha, phải tự mình vào rừng lấy gỗ, làm cho được một chiếc thuyền đuôi én (độc mộc) dùng làm phương tiện đi lại của riêng họ. Thuyền đuôi én của cư dân các dân tộc sống ven sông Đà được đục đẽo, chế tạo từ một thân gỗ tròn, thân thuyền thon dài, mũi và đuôi nhọn. Phần đuôi thuyền được thiết kế cong hẳn lên và có dáng dấp hình đuôi chim én (nộc ẻn). Thuyền đuôi én có loại 2 mái chèo, loại 6 mái chèo, loại 12 mái chèo,... Loại lớn nhất có thể tải được hàng chục tạ hàng hoá.
Người Kháng thường sinh sống ở các địa phương ven sông Đà, nên họ tương đối giỏi trong chế tạo và sử dụng thuyền độc mộc đuôi én. Thuyền của họ làm ra không chỉ để vận chuyển, đi lại, mà còn để bán cho các tộc người láng giềng khác. Thành ngữ Thái có câu: “Thuyền tốt không bằng thuyền của người Kháng; dao tốt không bằng dao của người Lào.”.
[..] Người Sán Dìu còn khá phổ biến trong việc dùng xe quệt trâu kéo để vận chuyển phân bón ra ruộng nương, chở lúa, hoa màu, củi về nhà. Xe quệt của họ đóng bằng gỗ, tre, đầu mắc dây cho trâu kéo được nâng cao hơn bởi độ dày của hai càng quệt. Loại xe quệt này có thể dùng để vận chuyển hàng hoá ở cả đường mòn, bờ ruộng, trên đồi và cả dưới hẻm nhỏ,... Đây là loại phương tiện xuất hiện khá sớm và khá phổ biến đối với người Sán Dìu.
Người Mông (Hmông), Hà Nhì, Dao,... thường cưỡi ngựa và dùng sức ngựa để vận chuyển đồ đạc, hàng hoá hay đi chợ. Đây vừa là sở thích, vừa là cung cách vận chuyển, lưu thông, di chuyển ưu việt nhất ở vùng núi hiểm trở. Đáng chú ý nhất là người Mông ở cao nguyên núi đá Hà Giang, vùng cao thuộc dãy Phan Xi Păng, huyện Mường Khương (Lào Cai),... dùng ngựa thồ như một cách vận chuyển và di chuyển duy nhất phổ biến ở khắp các bản làng. […]
Phương tiện vận chuyển của các dân tộc ở Tây Nguyên
[…] Người Tây Nguyên hiếm khi dùng trâu làm sức kéo để vận chuyển như một số dân tộc miền núi phía Bắc. Ngược lại, họ dùng sức voi, sức ngựa,... vào việc vận chuyển, nhất là người Gia-rai, Ê-đê, Mnông,...[…] Trong khoảng từ thế kỉ X − XVIII, nghề săn voi và thuần dưỡng voi đặc biệt phát triển ở vùng Mnông Bu-dâng và Mnông Preh, và nhất là ở khu vực Bản Đôn – Ea-sup. Voi rừng săn bắt được dùng làm voi mồi, voi săn, để vận chuyển hàng hoá, để kéo gỗ, để đi lại,... [...]
Sống ở khu vực nhiều sông suối nhưng cư dân Tây Nguyên lại là những người bơi lội không giỏi. Để có thể vận chuyển, lưu thông trên sông, người ta sử dụng thuyền độc mộc, nhất là các buôn, làng ở ven sông suối lớn. Thuyền độc mộc của cư dân Tây Nguyên không khác nhiều so với thuyền độc mộc của các tộc người ở miền núi phía Bắc. Nó được làm bằng các loại gỗ (dầu, sao,...) nhẹ, xốp, dai, ít nứt và chịu được nước. Tiết diện ngang của những cây gỗ làm thuyền nhiều khi tới cả mét, chiều dài dăm, bảy, thậm chí chục mét, tuỳ theo từng tộc người. Cách chế tác thuyền duy nhất của họ là dùng rìu và lửa, vừa đẽo vừa đốt; đẽo tới đâu, đốt tới đó. Khi nào vách thuyền còn dày chừng hơn chục xăng-ti-mét là được. Việc dùng thuyền vận chuyển, đi lại trên sông ở Tây Nguyên chỉ phổ biến đối với đàn ông, phụ nữ ít tham gia vào loại hình vận chuyển, đi lại này. [...]
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Án, Phạm Đình Hổ, Tang thương ngẫu lục, NXB Văn học, Hà Nội, 2001.
2. Phạm Thận Duật, Phạm Thận Duật toàn tập, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2000.
3. Lê Quý Đôn, Vân đài loại ngữ, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1962.
4. Phạm Đình Hổ, Vũ trung tuỳ bút, NXB Văn học, Hà Nội, 2001.
5. Lưu Hùng, Văn hoá cổ truyền Tây Nguyên, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1996.
6. Nguyễn Trãi, Dư địa chí, NXB Sử học, Hà Nội, 1960.
(Theo TRẦN BÌNH, dlib.huc.edu.vn)
Thành ngữ Thái có câu: “Thuyền tốt không bằng thuyền của người Kháng; dao tốt không bằng dao của người Lào.”. Ý nghĩa của câu thành ngữ là gì?
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây