Bài học cùng chủ đề
- Viết đoạn văn về văn bản thơ trữ tình
- Viết đoạn văn về văn bản truyện kí, tùy bút, tản văn
- Viết đoạn văn về văn bản tự sự (truyện thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện truyền kì)
- Viết đoạn văn về kịch bản sân khấu (kịch, chèo, tuồng)
- Viết đoạn văn về thần thoại, sử thi
- Viết đoạn văn nghị luận về phóng sự, nhật kí, hồi kí
- Viết đoạn văn nghị luận so sánh hai tác phẩm văn học
- Viết đoạn văn phân tích một đặc điểm của văn bản nghị luận văn học
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Viết đoạn văn về kịch bản sân khấu (kịch, chèo, tuồng) SVIP
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về nhân vật Thị Phương trong đoạn trích sau.
Bài đọc:
GẶP QUỶ DỮ VÀ THẦN RỪNG (HỔ)
(Trích chèo Trương Viên)
Mụ: - Con ơi, bây giờ mẹ đói bụng khát nước, nhọc lắm... Mẹ không thể đi được nữa, con xem có gần nhà ai thì con xin cho mẹ một chút đỡ đói lòng.
Thị Phương: (Nói sử) - Mẹ ơi,
Con trông bên đông có lửa
Mẹ ngồi đây, con thử vào coi
Có cơm cháo xin người thí bỏ
Quỷ: (Ra) - Động ta đây nghiêm chỉnh sắp bày
Ủa kìa người họa phúc tới đây
Sai chúng quỷ ra vây bắt lấy
(Xưng danh) Mỗ bạch yêu tinh
Chiếm cao san nhất động
Ngày ngày thường bắt người nuốt sống
Đêm thời đón khách nhai gan
Lộc thiên trù đưa đến tự nhiên
Nay được bữa no say... cha chả!
Này người kia,
Sơn lâm rừng vắng
Đỉnh thượng non cao
Chốn hang sâu sao dám tìm vào
Đi đâu đó, kìa con, nọ mẹ?
Thị Phương: - Trình lạy ông thương đoái
Mẹ con tôi đói khát lắm thay
Xẩy nhà lạc bước đến đây
Có cơm cháo xin người thí bỏ
Quỷ: - Không khiến kêu van kể lể
Ta quyết nhai tuổi, nuốt sống không tha
Quỷ cái: (Ra) - Chàng ăn thịt gì cho thiếp tôi ăn với!
Quỷ: - Ta ăn thịt Thị Phương.
(Lược một đoạn: Quỷ nói chuyện với Quỷ cái. Thương cho Thị Phương, Quỷ cái nhận Thị Phương là em kết nghĩa để nàng không bị ăn thịt. Quỷ cái còn cho Thị Phương năm lạng vàng để nàng đem về nuôi mẹ.)
Thị Phương: (Quay ra) - Mẹ thức hay ngủ mẹ ơi!
Mụ: - Con vào đấy có được tí gì không?
Thị Phương: - Thưa mẹ, con vào đó, quỷ đông đòi ăn thịt.
Mụ: - Ăn cơm với thịt đông à?
Thị Phương: - Quỷ đông đòi ăn thịt con, mẹ ạ. Quỷ cái ra can rồi lại cho vàng.
Mụ: (Cầm vàng) - Ở hiền rồi lại gặp lành (hát sắp)
Gặp vợ chú quỷ cho thanh tre già
(Nói sử) Ới con ơi,
Mẹ cảm thương thân mẹ
Mẹ lại ngại thân con (Hát văn)
Như dao cắt ruột mẹ ra
Trăm sầu, nghìn thảm chất đà nên con!
(Nói) - Con ơi, trời còn sớm hay đã tối mà con cứ dắt mẹ đi mãi thế này?
Thị Phương: - Trình lạy mẹ,
Vầng ô đã lặn
Vắng vẻ cửa nhà
Mẹ con ta vào gốc cây đa
Nằm nghỉ tạm qua đêm sẽ liệu (ngồi nghỉ).
Thần rừng (Hổ): (Ra) - Ra oai hùm gầm kêu ba tiếng
Phóng hào quang chuyển động phong lôi
Xa chẳng tỏ, nhảy lại ngó coi
Giống chi chi như thể hình người
Đi đâu đó? - Kìa con, nọ mẹ
Muốn sống thời ai chịu cho ai
Vào nộp mệnh cho ta nhai một.
Thị Phương: - Trăm lạy ông,
Nhẽ ngày hôm qua một tận không còn
Tôi kêu trời khấn đất đã vang
Qua nạn ấy, nạn này lại phải
Ơn ông vạn bội
Ông ăn thịt một, còn một ông tha
Ông để mẹ già, tôi xin thế mạng.
Mụ: (Nói sử) - Trình lạy ông
Con tôi còn trẻ
Công sinh thành, ông để tôi đền
Ông ăn thịt tôi, ông tha cháu nó.
Thị Phương: - Thưa mẹ, mẹ để con chịu cho.
Mụ: - Ới con ơi, con còn trẻ người non dạ, để mẹ chịu cho.
Thần rừng (Hổ): - Nhẽ ra thời ăn thịt cả không tha
Thấy mẹ con tiết nghĩa thay là
Tha cho đó an toàn tính mệnh.
(Trích Trương Viên, in trong Tuyển tập chèo cổ, Hà Văn Cầu, NXB Sân khấu, 1999)
Tóm tắt đoạn trích: Trương Viên quê đất Võ Lăng, nhờ mẹ sang hỏi cưới Thị Phương, người con gái của Tể tướng đã hồi hưu. Thấy chàng học giỏi, cha Thị Phương đồng ý và cho đôi ngọc lưu ly làm của hồi môn. Giữa lúc chàng đang dùi mài kinh sử thì được chiếu đòi đi dẹp giặc, chàng từ biệt mẹ già, vợ trẻ để ra chiến trường. Trong cảnh chạy giặc, Thị Phương đã dắt mẹ chồng lưu lạc suốt mười tám năm. Hai người bị quỷ dữ trong rừng sâu đòi ăn thịt, song may nhờ người vợ quỷ nhận làm chị em xin tha rồi cho vàng. Tiếp đó họ lại bị hổ dữ đòi ăn thịt. Thị Phương tình nguyện dâng mạng mình để cứu mẹ chồng. Hổ tha mạng cho cả hai mẹ con.
Hướng dẫn giải:
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn (0,25 điểm)
Bảo đảm yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 200 chữ) của đoạn văn. Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, phối hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,25 điểm)
Suy nghĩ về nhân vật Thị Phương qua đoạn trích.
c. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu (1,0 điểm)
Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp, kết hợp chặt chẽ lí lẽ và dẫn chứng trên cơ sở đảm bảo những nội dung sau:
- Thị Phương có số phận khổ đau, bất hạnh, trải qua nhiều gian truân, thử thách.
- Thị Phương là người con dâu hiếu thảo, trách nhiệm với mẹ chồng.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: nhân vật được khắc họa chủ yếu qua phương diện lời nói kết hợp với hành động. Lời nói của Thị Phương là những lời hiếu thảo với mẹ, lời cầu xin tha thiết trước Quỷ và Thần rừng. Kết hợp với hành động xin của bố thí và xin tha cho hai mẹ con.
d. Diễn đạt (0,25 điểm)
Bảo đảm chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn.
đ. Sáng tạo (0,25 điểm)
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận, có cách diễn đạt mới mẻ.
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về nhân vật Dương Lễ trong đoạn trích sau.
Bài đọc:
Dương Lễ: - Ta nghe bác Lưu Bình đã chiếm bảng khôi khoa
Nàng Châu Long đâu chẳng thấy lại nhà
Việc tin tức nàng đà không rõ.
Châu Long: - Bẩm lạy quan thiếp đã về hầu
Dương Lễ: Ta nghe bác Lưu Bình đã chiếm bảng khôi khoa, sao nàng không ở bên ấy cho được hiển vinh, còn về chi chốn chồng chung vợ chạ.
Châu Long: - Bẩm lạy quan chẳng thương thời chớ
Tấm lòng ngay tôi ở với quỷ thần
Chàng ngờ vực, thiếp biết nói làm sao được
Dương Lễ: - Ơ này em, anh cợt miệng nói chơi,
Tấm lòng nàng anh đây đã biết
Giữ một lòng thủ tiết trung trinh
Hầu đâu, vào nhà trong lấy ba lạng vàng ra đây, để ta thưởng cô mày, gọi là của chồng công vợ. Ba lạng vàng này gọi là một chút đền ơn. (Với hầu) Ta cho con vóc hồng một tấm, ngân tử đôi thoi.
Con đưa sang làm lễ hạ ngơi
Mời quan bác sang chơi
Kẻo quan tôi còn đương mắc bận
Xem quan có điều gì buồn bã thì liệu lời mà nói giải ra nhá!
(...)
(Lược một đoạn: Dương Lễ sai tiểu đồng mang lễ sang mừng Lưu Bình nhưng Lưu Bình đã toan trả lễ. Tiểu đồng biết Lưu Bình đang phiền lòng chuyện không thấy vợ nên đã kể về việc thấy tiên bay về trời ở quán Nghinh Hương - nơi Lưu Bình gặp Châu Long. Sau đó, dưới sự thuyết phục của người hầu, Lưu Bình đã nhận lễ và sang nhà Dương Lễ chơi.)
Tiểu đồng: - Bẩm quan: Có quan tân khoa sang chơi ạ.
Dương Lễ: - Xuất môn tương tiếp
Bái tạ nhân huynh
Xin thỉnh lại tư dinh
Sẽ cùng nhau đàm đạo
(Lưu Bình không trả lời, hai người cùng ngồi)
(...)
Dương Lễ: - Thưa với quan bác,
Tạm trà tô một chén giải lao
Rồi ta sẽ cùng nhau đàm đạo
(Hai người lặng lẽ uống nước)
- Tiểu đồng, bãi trà!
Dạ thưa quan bác
Đường công danh anh ta đã đành làm vậy
Còn đường thê thiếp quan bác được mấy phòng hầu
Đường tử túc được mấy anh nhiêu cùng chỉ ả.
Lưu Bình: - Bác hỏi em, em càng thêm tủi.
Ba năm trước, em sang qua cửa bác
Trở ra về đến quán Nghinh Hương
Gặp một người nhan sắc phi thường
Đem vàng đến giúp công đăng hỏa
Vì nàng ấy nên em mới khá
Ba năm trường tuyết sạch giá trong
Khi em đi thi, nàng còn ngóng trông chừng
Em thi đỗ về, nàng đã ruồng bỏ
(...)
Dương Lễ: - Tiểu đồng! Cho con vào trong nhà mời cô ba ra chuốc rượu mừng mặt quan tân khoa giải sầu đây.
Tiểu đồng: - Dạ! Mời cô ba ra ông đòi.
Châu Long: (Hát từ trong)
Đố ai chưa được rượu tăm
Chừa ăn thuốc chín, chừa nằm chung hơi
Có tôi chừa được mà thôi
Chừa ăn thuốc chín, chung chơi cũng chừa.
(Nói) - Dạ, em có cơi trầu ra mời quan bác
Lưu Bình: (Sụp lạy) Trăm lạy anh, lượng bể khôn dò
Nghìn lạy chị nuôi em khó nhọc
Ba năm ròng em chăm việc học
Nên không biết rằng:
Là vàng của anh, công của chị giúp cho
Khen ai khéo tạc bể hồ
Bao nhiêu cá cả xô về một mạn
(Trích Lưu Bình - Dương Lễ, in trong Tuyển tập chèo cổ, NXB Sân khấu, 1999)
Tóm tắt: Vở chèo kể về hai người bạn là Lưu Bình và Dương Lễ. Dương Lễ đỗ Trạng nguyên, làm quan, còn Lưu Bình thi trượt, sống nghèo khổ. Khi gặp khó khăn, Lưu Bình tìm đến Dương Lễ nhưng bị bạn đối xử lạnh nhạt. Thực tế, Dương Lễ đã nhờ vợ ba của mình là Châu Long đến giúp đỡ bạn. Châu Long mang tiền cùng sự gửi gắm của Dương Lễ để giúp Lưu Bình chuyên tâm học hành và chăm sóc anh suốt ba năm. Sau đó, Lưu Bình đỗ Trạng nguyên. Khi trở về, anh không thấy Châu Long nên đã rất buồn khổ. Đến khi gặp Dương Lễ, anh mới hiểu rõ sự tình và biết về tấm lòng của bạn.
Hướng dẫn giải:
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn (0,25 điểm)
Bảo đảm yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 200 chữ) của đoạn văn. Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, phối hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,25 điểm)
Suy nghĩ về nhân vật Dương Lễ qua đoạn trích.
c. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu (1,0 điểm)
Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp, kết hợp chặt chẽ lí lẽ và dẫn chứng trên cơ sở đảm bảo những nội dung sau:
- Dương Lễ là người có tình, có nghĩa với vợ và bạn. Dương Lễ ghi nhận công lao của vợ: của chồng công vợ. Ba lạng vàng này gọi là một chút đền ơn. Biết bạn đỗ Trạng nguyên, Dương Lễ sai tiểu hầu sang chúc mừng và gửi gắm: Xem quan có điều gì buồn bã thì liệu lời mà nói giải ra.
- Dương Lễ có cách hành xử khéo léo. Khi đàm đạo cùng Lưu Bình, Dương Lễ đã khéo gợi về chuyện gia đình Lưu Bình: Còn đường thê thiếp quan bác được mấy phòng hầu/Đường tử túc được mấy anh nhiêu cùng chỉ ả.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: nhân vật được khắc họa chủ yếu qua lời nói. Lời nói của Dương Lễ là những đối thoại cùng Châu Long, tiểu đồng, Lưu Bình. Lời nói thể hiện tính cách của nhân vật: từ tốn, khiêm nhường, giàu lòng thấu hiểu.
d. Diễn đạt (0,25 điểm)
Bảo đảm chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn.
đ. Sáng tạo (0,25 điểm)
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận, có cách diễn đạt mới mẻ.
Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) phân tích, đánh giá nhân vật ông Giuốc-đanh trong đoạn trích sau.
Bài đọc:
Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục
ÔNG GIUỐC-ĐANH – A ! Bác đã tới đấy à? Tôi sắp phát khùng lên vì bác đây.
PHÓ MAY – Tôi không làm sao đến sớm hơn được, ấy là tôi đã cho hai chục chú thợ phụ xúm lại bộ lễ phục của ngài đấy.
ÔNG GIUỐC-ĐANH – Đôi bít tất lụa bác gửi đến cho tôi chật quá, tôi khổ sở vô cùng mới xỏ chân vào được và đã đứt mất hai mắt rồi.
PHÓ MAY – Rồi nó dãn ra thì lại rộng quá ấy chứ.
ÔNG GIUỐC-ĐANH – Phải, nếu tôi cứ làm đứt mãi các mắt thì sẽ rộng thật. Lại đôi giày bác bảo đóng cho tôi làm tôi đau chân ghê gớm.
PHÓ MAY – Thưa ngài, đâu có.
ÔNG GIUỐC-ĐANH – Đâu có là thế nào!
PHÓ MAY – Không, đôi giày không làm ngài đau đâu mà.
ÔNG GIUỐC-ĐANH – Tôi, tôi bảo là nó làm tôi đau.
PHÓ MAY – Ngài cứ tưởng tượng ra thế.
ÔNG GIUỐC-ĐANH – Tôi tưởng tượng ra thế vì tôi thấy thế. Bác này lí luận hay nhỉ!
PHÓ MAY – Thưa, đây là bộ lễ phục đẹp nhất triều đình và may vừa mắt nhất. Sáng chế ra được một bộ lễ phục trang nghiêm mà không phải màu đen thật là tuyệt tác. Tôi thách các thợ giỏi nhất mà làm nổi đấy.
ÔNG GIUỐC-ĐANH – Thế này là thế nào? Bác may hoa ngược mất rồi!
PHÓ MAY – Nào ngài có bảo là ngài muốn may xuôi hoa đâu!
ÔNG GIUỐC-ĐANH – Lại cần phải bảo may hoa xuôi ư?
PHÓ MAY – Vâng, phải bảo chứ. Vì những người quý phái đều mặc như thế này cả.
ÔNG GIUỐC-ĐANH – Những người quý phái mặc áo ngược hoa ư?
PHÓ MAY – Thưa ngài, vâng.
ÔNG GIUỐC-ĐANH – Ô! Thế thì bộ áo này may được đấy.
PHÓ MAY – Nếu ngài muốn thì tôi sẽ xin may hoa xuôi lại thôi mà.
ÔNG GIUỐC-ĐANH – Không, không.
PHÓ MAY – Xin ngài cứ việc bảo.
ÔNG GIUỐC-ĐANH – Tôi đã bảo không mà. Bác may thế này được rồi. Bác cho rằng tôi mặc áo này có vừa vặn không?
PHÓ MAY – Còn phải nói! Tôi đố hoạ sĩ nào lấy bút mà vẽ hầu ngài bộ áo vừa khít hơn được. Ở nhà tôi có một chú thợ phụ may quần cộc thì tài nhất thiên hạ; và một chủ khác là anh hùng của thời đại về may áo chẽn đấy.
ÔNG GIUỐC-ĐANH – Bộ tóc giả và lông đính mũ có được chững chạc không?
PHÓ MAY – Chững chạc tuổi!
ÔNG GIUỐC-ĐANH – (nhìn áo của bác phó may) – Ô kìa, bác phó! Vải này là thứ hàng tôi đưa bác may bộ lễ phục trước của tôi đây mà. Tôi nhận ra đúng nó rồi.
PHÓ MAY – Chẳng là thứ hàng đẹp quá nên tôi đã gạn lại một áo để mặc.
ÔNG GIUỐC-ĐANH – Đành là đẹp, nhưng đáng lẽ đừng gạn vào áo của tôi mới phải.
PHÓ MAY – Mời ngài mặc thử bộ lễ phục chứ ạ?
ÔNG GIUỐC-DANH – Ừ, đưa đây tôi.
PHÓ MAY – Khoan đã, không thể mặc như thế được. Thứ áo này phải mặc đúng thể thức, tôi có đem người đến để mặc hầu ngài theo nhịp điệu. Ớ này ! Vào đây, các chú. Các chú hãy mặc bộ lễ phục này hầu ngài theo cách thức mặc cho các nhà quý phái.
(Bốn chú thợ phụ ra, hai chú cởi tuột quần cộc của ông Giuốc-đanh mặc lúc tập kiếm vừa rồi, hai chú thì lột áo ngắn rồi họ mặc bộ lễ phục mới vào cho ông. Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục xong, đi đi lại lại giữa đám thợ, phô áo mới cho họ xem có được không. Cởi áo, mặc áo, chân bước, miệng nói, tất cả đều theo nhịp của dàn nhạc.)
THỢ PHỤ – Bẩm ông lớn, xin ông lớn ban cho anh em ít tiền uống rượu.
ÔNG GIUỐC-ĐANH – Anh gọi ta là gì?
THỢ PHỤ – Bẩm, ông lớn ạ.
ÔNG GIUỐC-ĐANH – Ông lớn ư? Ấy đấy, ăn mặc theo lối quý phái thì thế đấy! Còn cứ bo bo giữ kiểu áo quần trưởng giả thì đời nào được gọi là "ông lớn". Đây, ta thưởng về tiếng "ông lớn" đây này!
THỢ PHỤ – Bẩm cụ lớn, anh em chúng tôi đội ơn cụ lớn lắm lắm.
ÔNG GIUỐC-ĐANH – "Cụ lớn", ồ, ồ, cụ lớn! Chú mày thong thả tí đã. Cái tiếng "cụ lớn" đáng thưởng lắm. "Cụ lớn" không phải là một tiếng tầm thường đâu nhé. Này, cụ lớn thưởng cho các chú đây.
THỢ PHỤ – Dám bẩm đức ông, anh em chúng tôi sẽ đi uống rượu chúc sức khoẻ đức ông.
ÔNG GIUỐC-ĐANH – Lại "đức ông" nữa! Hà hà! Hà hà! Các chú hãy đợi tí, đừng đi vội. Ta là đức ông kia mà! (nói riêng) Của đáng tội, nếu nó tôn ta lên bậc tướng công, thì nó sẽ được cả túi tiền mất. Đây nữa này, thưởng cho chú về tiếng "đức ông" đấy nhé.
THỢ PHỤ – Dạ, bẩm đức ông, anh em chúng tôi xin bái tạ ơn người.
ÔNG GIUỐC-ĐANH – (nói riêng) – Nó như thế là phải chăng, nếu không ta đến mất tong cả tiền cho nó thôi.
(Bốn người thợ phụ vui mừng nhảy múa.)
(Mô-li-e, Trưởng giả học làm sang, trong Tuyển tập kịch Mô-li-e, NXB Sân khấu, Hà Nội, 1994)
Tóm tắt: Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục trích trong vở kịch 5 hồi Trưởng giả học làm sang (1670) và là lớp kịch kết thúc hồi II. Nhân vật trung tâm của vở kịch là ông Giuốc-đanh, tuổi ngoài bốn mươi, con một nhà buôn giàu có. Tuy dốt nát, quê kệch, nhưng ông muốn học đòi làm sang. Nhiều kẻ lợi dụng tính cách đó, săn đón, nịnh hót ông để moi tiền. Ông không tán thành tình yêu của con gái là Luy-xin với chàng Clê-ông chỉ vì chàng chẳng phải là quý tộc. Cuối cùng, nhờ mưu mẹo của Cô-vi-en, là đầy tớ của mình, Clê-ông cải trang làm hoàng tử Thổ Nhĩ Kì đến hỏi Luy-xin làm vợ và được ông Giuốc-đanh ưng thuận.
Hướng dẫn giải:
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn (0.25 điểm)
– Xác định đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 200 chữ) của đoạn văn.
– Thí sinh có thể trình bày theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0.25 điểm)
Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Phân tích, đánh giá nhân vật ông Giuốc-đanh trong đoạn trích.
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận (0.5 điểm)
– Xác định được các ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận, sau đây là một số gợi ý:
+ Ông Giuốc-đanh qua cuộc trò chuyện với thợ may đã lộ rõ sự thiển cận của mình:
++ Ông phản hồi trực tiếp với thợ may về sự không thoải mái của đôi tất và đôi giày hay khi nhận ra vải may của mình bị gọt bớt. Lúc này, ông hoàn toàn tỉnh táo nhưng vấn đề chưa được giải quyết thì ông lại bị thợ may đánh lạc hướng sang bộ lễ phục.
++ Nhận ra hoa may ngược nhưng lại bị tên thợ may lí luận lại và lừa phỉnh rằng những người quý phái đều mặc như thế này cả. Nghe thế, ông ta ngay lập tức chấp nhận kiểu cách ấy.
=> Ông Giuốc-đanh chỉ chú trọng vào vẻ bề ngoài (bộ lễ phục) nên mới bị đánh lạc hướng nhiều lần, bị lừa phỉnh mà quên mất những thiệt thòi, những cái sai lố bịch đang hiển lộ rõ ràng trước mắt. Thậm chí, ngay trong quá trình tên thợ may cho người vào giúp Giuốc-đanh mặc lễ phục cũng chứa đầy sự châm biếm bởi cả quá trình cởi áo, mặc áo, chân bước, miệng nói, tât cả đều theo nhịp của dàn nhạc.
+ Ông Giuốc-đanh khi được thợ phụ tâng bốc đã thể hiện rõ bản chất ham danh vọng một cách mù quáng.
++ Ông cảm thấy rất thích thú khi được tâng bốc: Ông lớn ư? Ấy đấy, ăn mặc theo lối quý phái thì thế đấy! Còn cứ bo bo giữ kiểu áo quần trưởng giả thì đời nào được gọi là "ông lớn". Đây, ta thưởng về tiếng "ông lớn" đây này!; "Cụ lớn", ồ, ồ, cụ lớn! Chú mày thong thả tí đã. Cái tiếng "cụ lớn" đáng thưởng lắm. "Cụ lớn" không phải là một tiếng tầm thường đâu nhé. Này, cụ lớn thưởng cho các chú đây.; Lại "đức ông" nữa! Hà hà! Hà hà! Các chú hãy đợi tí, đừng đi vội. Ta là đức ông kia mà! (nói riêng) Của đáng tội, nếu nó tôn ta lên bậc tướng công, thì nó sẽ được cả túi tiền mất. Đây nữa này, thưởng cho chú về tiếng "đức ông" đấy nhé.
++ Ông hào phóng thưởng cho đám thợ phụ vì ông cho rằng bản thân mình hiện giờ đã có cốt cách, vẻ ngoài như một quý tộc thực sự. Mà ông không hề biết rằng, đám thợ ấy đã "đọc vị" được ông. Chúng chỉ lợi dụng thói hám danh mù quáng của ông để mà tranh thủ kiếm chác.
=> Qua hình tượng nhân vật ông Giuốc-đanh, tác giả phê phán thói học đòi, rởm đời, lố bịch của những kẻ trọc phú (giàu có nhưng ít hiểu biết, ham danh vọng hão huyền đến mức mù quáng, ảo tưởng).
– Sắp xếp được hệ thống ý phù hợp theo đặc điểm của kiểu văn bản.
d. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu sau (0.5 điểm)
– Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.
– Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các ý.
– Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: Lí lẽ xác đáng, bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng.
đ. Diễn đạt (0.25 điểm)
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn.
e. Sáng tạo (0.25 điểm)
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.
Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) phân tích nhân vật Đan Thiềm trong đoạn trích dưới đây.
Bài đọc:
Lớp VII: Đan Thiềm - Vũ Như Tô
ĐAN THIỀM - Trời xui khiến tôi gặp ông ở chốn này. Thực là duyên kỳ ngộ.
VŨ NHƯ TÔ - Tôi là một kẻ quê mùa, không biết những nhời mỉa mai bóng gió.
ĐAN THIỀM - Đây là thực tình. Ông đừng nghi kỵ. Chính tôi đang muốn gặp ông để nói chuyện.
VŨ NHƯ TÔ - Hỏi chuyện tôi! Để làm gì? Các người không thể nào hiểu được chuyện tôi, các người nông nổi...
ĐAN THIỀM - Ông mới gặp tôi, lấy cớ gì mà bảo tôi nông nổi?
VŨ NHƯ TÔ - Người ăn chơi thì đều nông nổi.
ĐAN THIỀM - Sao ông bảo tôi là người ăn chơi?
VŨ NHƯ TÔ - Cung nữ đều là tuồng ăn chơi. Huống chi trông quầng mắt thâm kia, tôi đoán chắc là người trong túy hương mộng cảnh.
ĐAN THIỀM - Ông nhầm lắm. Đôi mắt thâm quầng này là do những lúc thức khi người ngủ, khóc khi người cười, thương khi người ghét.
VŨ NHƯ TÔ - Ủa? Bà nói như một người đồng bệnh.
ĐAN THIỀM - Chính là một người đồng bệnh, nên chưa biết ông, tôi đã ái ngại cho ông. Tài làm lụy ông, cũng như nhan sắc phụ người.
VŨ NHƯ TÔ - Thực mang tội với bà. Xin cho nghe chuyện.
ĐAN THIỀM - Ông tạm ngồi xuống cái đôn kia cũng được. Ông có mỏi không? Rõ khổ. Tài bao nhiêu lụy bấy nhiêu! Gông xích, trông ông tiều tụy quá, tôi lại càng thương số phận tôi. Tôi bị tuyển vào cung từ năm 17 tuổi. Hồi ấy tôi đã có người dạm hỏi. Tôi bị giam trong cung ngày ngày làm bạn với cảnh già. Rồi từ đấy đến nay, ngót 20 năm tôi chỉ đóng vai thị nữ hầu hạ từ vua cho đến các phi tần, nhiều kẻ kém cả tài lẫn sắc.
VŨ NHƯ TÔ - Tôi không ngờ lại được biết một đời cung oán nhãn tiền.
ĐAN THIỀM - Thân tôi không đáng kể đã đành, nhưng còn ông?
VŨ NHƯ TÔ - Cũng là thân không đáng kể.
ĐAN THIỀM - Sao lại không đáng kể? Hữu tài tất hữu dụng.
VŨ NHƯ TÔ - Cảnh ngộ chúng tôi có khác chi cảnh ngộ bà? Có phần khổ nhục hơn nữa. Chế độ thì nghiệt ngã vô lý: nhà không cho làm cao, áo không cho mặc đẹp. Ai xây một kiểu nhà mới khả quan, thì lập tức kết vào tội lộng hành đem chém. Thành thử không ai dám vượt ra khuôn sáo nghìn xưa, nghề kiến trúc đọng lại như một vũng ao tù. Người có tài không được thi thố đành phải tiến về mặt tiểu xảo. Mà nói ngay đến những bọn này nào họ có được yên thân. Họ phải lẩn lút, giấu giếm. Vô phúc mà triều đình biết, thế là gia đình tan nát. Họ bị đóng cũi giải kinh, để làm những công việc nhà vua, thân giam trong nội như một tên trọng phạm, mãi đến khi mắt mờ, tay chậm, họ mới được thải hồi nguyên quán. Triều đình còn không ban cho họ một chút bổng nhờ để mưu sống buổi tàn niên. Cách đối đãi như thế, thì nhân tài nhiều sao được, mà ai chịu luyện tập cho thành tài? Thậm chí người ta nói kẻ có tài đã không giúp cho gia đình, còn là một cái vạ nữa.
ĐAN THIỀM - Thảo nào mà nước ta không có lấy một lâu đài nào ra hồn, khả dĩ sánh với những lâu đài Trung Quốc. Ngay cả Chiêm Thành cũng hơn ta nhiều lắm...
VŨ NHƯ TÔ - Tôi bẩm sinh có khiếu về kiến trúc. Tôi đã học văn, sau bỏ văn tập nghề, nhưng tập thì tập, vẫn lo nơm nớp, chỉ sợ triều đình biết, thì vợ con ở nhà nheo nhóc, mà mình cũng không biết bao giờ được tháo cũi xổ lồng. Vua Hồng Thuận ngày nay càng khinh rẻ chúng tôi, cách đối đãi lại bạc ác. Chẳng qua là cái nợ tài hoa, chứ thực ra theo nghề ở ta lợi chẳng có mà nhục thì nhiều.
ĐAN THIỀM - Chính vì thế mà ông càng đáng trọng.
VŨ NHƯ TÔ - Trọng để làm gì? Tìm danh vọng chúng tôi đã chẳng chọn nghề này. Đời lẩn lút...
ĐAN THIỀM - Vậy thì các ông luyện nghề làm gì, luyện mà không đem ra thi thố?
VŨ NHƯ TÔ - Đó là nỗi khổ tâm của chúng tôi. Biết đa mang là khổ nhục mà không sao bỏ được. Như bóng theo hình. Chúng tôi vẫn chờ dịp.
ĐAN THIỀM - Dịp đấy chứ đâu? Cửu Trùng Đài...
VŨ NHƯ TÔ - Bà đừng nói nữa cho tôi thêm đau lòng. Ngày ngày, tôi thấy các bạn thân bị bắt giải kinh, người nhà khóc như đưa ma. Còn tôi, mong manh tin quan đến bắt, tôi đem mẹ già, vợ và hai con nhỏ đi trốn. Được một năm có kẻ tố giác, quan địa phương đem lính tráng đến vây kín nơi tôi ở. Tôi biết là tuyệt lộ, mặc cho họ gông cùm. (Chàng rơm rớm nước mắt) Mẹ tôi chạy ra bị lính đẩy ngã, chết ngay bên chân tôi. Bọn sai nha lộng quyền quá thể. Rồi tôi bị giải lên tỉnh, từ tỉnh lên kinh, ăn uống kham khổ, roi vọt như mưa trên mình, lắm khi tôi chết lặng đi. Mẹ cháu lẽo đẽo theo sau, khóc lóc nhếch nhác, tôi càng đau xót can tràng. Cũng vì thế mà tôi thề là đành chết chứ không chịu làm gì.
ĐAN THIỀM - Cảnh ngộ của ông thì đáng thương thực. Nhưng ông nghĩ thế thì không được.
VŨ NHƯ TÔ - Sao vậy?
ĐAN THIỀM - Không được. Vì đức Hồng Thuận sẽ bắt ông chịu cực hình và còn đem chu di chín họ nhà ông. Ông đã tu được bao nhiêu công quả mà phạm vào tội đại ác ấy?
VŨ NHƯ TÔ - Tài đã không được trọng thì đem trả trời đất. Đó là lẽ thường. Cũng như nhan sắc...
ĐAN THIỀM - Không thể ví thế được, sắc vất đi được, nhưng tài phải đem dùng.
VŨ NHƯ TÔ - Bà đã thương tài xin giúp cho tôi trốn khỏi nơi này. Ơn đó xin...
ĐAN THIỀM - Tôi giúp cũng không khó gì. Nhưng ra khỏi chốn này liệu ông có thoát hẳn được không? Hơn nữa, cái vạ chu di cửu tộc vẫn còn sờ sờ ra đó. Ông đừng tính nước ấy, không nên.
VŨ NHƯ TÔ - Vậy bà khuyên tôi nên ở đây làm việc cho hôn quân sao?
ĐAN THIỀM - Miễn là ông không bỏ phí tài trời. Ông nên lợi dụng cơ hội đem tài ra thi thố.
VŨ NHƯ TÔ - Xây Cửu Trùng Đài?
ĐAN THIỀM - Phải.
VŨ NHƯ TÔ - Xây Cửu Trùng Đài cho một tên bạo chúa, một tên thoán nghịch, cho một lũ gái dâm ô? Tôi không thể đem tài ra làm một việc ô uế, muôn năm làm bia miệng cho người đời được.
ĐAN THIỀM - Ông biết một mà không biết hai. Ông có tài, tài ấy phải đem cống hiến cho non sông, không nên để mục nát với cỏ cây. Ông không có tiền, ông không có thể dựng lấy một tòa đài như ý nguyện. Chấp kinh, phải tòng quyền. Đây là lúc ông nên mượn tay vua Hồng Thuận mà thực hành cái mộng lớn của ông... Ông khẽ tiếng. Đó là tiểu tiết. Ông cứ xây lấy một tòa đài cao cả. Vua Hồng Thuận và lũ cung nữ kia rồi mất đi nhưng sự nghiệp của ông còn lại về muôn đời. Dân ta nghìn thu được hãnh diện, không phải thẹn với những cung điện đẹp nước ngoài, thế là đủ. Hậu thế sẽ xét công cho ông, và nhớ ơn ông mãi mãi. Ông hãy nghe tôi làm cho đất Thăng Long này thành nơi kinh kỳ lộng lẫy nhất trần gian.
VŨ NHƯ TÔ - Đa tạ. Bà đã khai cho cái óc u mê này. Thiếu chút nữa, tôi nhỡ cả. Những lời vàng ngọc tôi xin lĩnh giáo. Trời quá yêu nên tôi mới được gặp bà.
(Trích Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng)
Chú thích: Vũ Như Tô là vở bi kịch lịch sử năm hồi viết về một sự kiện xảy ra ở Thăng Long khoảng năm 1516 - 1517, dưới triều Lê Tương Dực. Tác phẩm kể về Vũ Như Tô, một kiến trúc sư thiên tài, bị hôn quân Lê Tương Dực bắt xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nơi hưởng lạc, vui chơi với các cung nữ. Vốn là một nghệ sĩ chân chính, gắn bó với nhân dân, Vũ Như Tô nhất quyết không chịu xây Cửu Trùng Đài, bất chấp Lê Tương Dực dọa giết. Đan Thiềm, một cung nữ đã thuyết phục Vũ Như Tô chấp nhận yêu cầu của vua, lợi dụng quyền thế và tiền bạc của hắn để trổ hết tài năng của bản thân mà xây cho đất nước một công trình vĩ đại. Thế nhưng, công cuộc xây dựng gần đến khi hoàn thiện, mâu thuẫn giữa các tập đoàn thống trị tăng cao. Trịnh Duy Sản đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ làm phản, giết chết Lê Tương Dực, Vũ Như Tô và Đan Thiềm. Cửu Trùng Đài cũng bị chính những người thợ nổi loạn đập phá, thiêu hủy.
Hướng dẫn giải:
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn (0.25 điểm)
– Xác định đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 200 chữ) của đoạn văn.
– Thí sinh có thể trình bày theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0.25 điểm)
Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Phân tích nhân vật Đan Thiềm trong đoạn trích.
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận (0.5 điểm)
– Xác định được các ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận, sau đây là một số gợi ý:
+ Số phận: Là người phụ nữ xinh đẹp nhưng đáng thương: Tôi bị tuyển vào cung từ năm 17 tuổi. Hồi ấy tôi đã có người dạm hỏi. Tôi bị giam trong cung ngày ngày làm bạn với cảnh già. Rồi từ đấy đến nay, ngót 20 năm tôi chỉ đóng vai thị nữ hầu hạ từ vua cho đến các phi tần, nhiều kẻ kém cả tài lẫn sắc.
=> Nhan sắc, xuân xanh bị chôn vùi nơi cung cấm lạnh lẽo, không được hưởng hạnh phúc.
+ Con người: Là người trọng nghĩa khinh tài, biết yêu và trân trọng cái đẹp:
++ Xót xa cho hoàn cảnh của Vũ Như Tô.
++ Không muốn Vũ Như Tô chết uổng, để phí tài năng quý báu mà trời ban nên ra sức khuyên giải (về trách nhiệm với gia đình, dòng tộc; về khát vọng, ước mơ đem tài năng ra thi thố với đời) để Vũ Như Tô đồng ý xây Cửu Trùng Đài cho vua Lê Tương Dực.
=> Là con người đáng quý, biết trọng cái đẹp và trân quý con người tài năng tạo ra cái đẹp.
– HS có thể liên hệ, so sánh với nhân vật quản ngục trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân sao cho đảm bảo nội dung chính của bài viết.
– Sắp xếp được hệ thống ý phù hợp theo đặc điểm của kiểu văn bản.
d. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu sau (0.5 điểm)
– Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.
– Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các ý.
– Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: Lí lẽ xác đáng, bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng.
đ. Diễn đạt (0.25 điểm)
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn.
e. Sáng tạo (0.25 điểm)
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.
Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) phân tích, đánh giá hai nhân vật Gô-rơ-nin và Rê-gan trong đoạn trích sau.
Bài đọc:
Hồi I
(Một lễ đường trong cung điện vua Lia.)
LIA – Bây giờ ta muốn nói ra những điều bấy nay ta giữ kín. Truyền lấy bản đồ! Đây, ta đã chia đất nước làm ba phần. Ta quyết định cất khỏi tuổi già này bao nỗi lo toan cùng công việc nước, đem gánh nặng đặt lên sức vóc trẻ trung hơn, để cho ta được thênh thang bước vào cõi thọ. Hiền tế của ta, Cor-nơ-uôn, và con ta nữa, hỡi An-ba-ni mà lòng ta thương chẳng kém, giờ đây ta tuyên bố rõ ràng về từng phần đất đai chia cho mỗi nàng công chúa của ta để tránh về sau mọi điều xích mích. Hai vương công nước Pháp và xứ Bơ-găn-đi, hai vị giai tế cao sang cùng rắp ranh công chúa út của ta, hai người qua chơi đây ướm hỏi cũng đã khá lâu, ta nên trả lời dứt khoát. Vậy, ta hỏi các con gái của ta, ngày nay ta đã từ thoái mọi phần: quyền lợi, đất đai, cũng như quan tâm việc nước; vậy thì trong các con, kẻ yêu ta nhất là ai, để cho ân trạch của ta biết mưa đổ xuống tấm lòng nào là nơi xứng đáng nhất. Gô-rơ-nin, công chúa đầu lòng của ta, cho con nói trước.
GÔ-RƠ-NIN – Thưa phụ vương, lòng con yêu phụ vương thực không lời nào tả xiết, con yêu phụ vương thiết tha hơn cả yêu ánh sáng, yêu vũ trụ, yêu tự do, yêu trên hết mọi vật quý giá nhất đời; yêu như yêu sự sống đầy duyên, đầy sức, đầy nhan sắc, đầy vinh quang; yêu như chưa có con yêu cha nào bằng, yêu như chưa có cha nào được con yêu đến thế; yêu tới mức không còn hơi sức nữa và yêu tới độ lời lẽ hóa nghèo nàn; con yêu cha thực vượt xa mọi bờ bến.
COR-ĐÊ-LI-A (nói riêng) – Cor-đê-li-a thì sao đây? Yêu mà im tiếng!
LIA – Cả cõi đất này, từ đây đến đấy, với bao nhiêu rừng cây bóng cả và đồng ruộng phì nhiêu, với bao nhiêu sông cá đầy nguồn cùng bãi bờ bát ngát, ta cho con làm nữ chủ. Đó là sở hữu của con và An-ba-ni, truyền cho con cháu đời đời. Nào, đến thứ nữ của ta thì nói sao? Rê-gan, con rất yêu quý của ta, vợ của Cor-nơ-uôn, con nói đi.
RÊ-GAN – Con với chị con đều đúc nên cùng một chất và so với chị, con biết mình con nào có kém chị? Nghe trong trái tim chân thật của con, con thấy lời chị con vừa thốt ra chính là tiếng của lòng con yêu kính đó; có điều lời ấy còn xa mới đạt tới độ nồng nàn. Con nói thực, con thù ghét mọi sinh thú ở đời, duy nhất chỉ thấy được hạnh phúc trong tấm tình con yêu đấng phụ vương rất tôn kính.
COR-ĐÊ-LI-A (nói riêng) – Hẩm hiu thay cho Cor-đê-li-a này! Không! Đâu đến nỗi vậy? Tình ta dào dạt còn phong phú hơn lời lẽ ta nhiều.
LIA – Thuộc về con và dòng dõi của con hưởng thụ đời đời là cả một phần ba phong tục đất nước đẹp tươi này, cũng rộng lớn, cũng hữu tình chẳng kém chi phần dành cho Gô-rơ-nin. Còn bây giờ, nào hòn ngọc báu rất nâng niu tuy út ít của ta, trang thục nữ thanh tân mà cả vườn nho nước Pháp và cả đồng cỏ sữa Bơc-gơ-đin đang cùng ganh nhau để chiếm được trái tim: con nói sao đây để đáng được hưởng phần ba đất nước còn trù phú hơn cả phần của hai chị con? Con nói đi.
COR-ĐÊ-LI-A – Thưa phụ vương, con chẳng có gì đáng nói.
LIA – Chẳng có gì?
COR-ĐÊ-LI-A – Con chẳng có gì.
LIA – Chẳng có gì thì chẳng được gì hết. Nói đi nào!
COR-ĐÊ-LI-A – Tội thay cho con! Trái tim con, con không sao nâng nó lên đầu lưỡi được. Con yêu cha đúng theo đạo nghĩa kẻ làm con. Vậy đó thôi, không hơn không kém.
LIA – Thế nào, thế nào? Cor-đê-li-a? Con nên lựa lại lời mà nói, kẻo nữa con sẽ phải thiệt thòi nhiều!
COR-ĐÊ-LI-A – Thưa phụ vương của con, phụ vương đã sinh ra con, nuôi nấng con, thương yêu con; nghĩa nặng đó con xin đền đáp lại sao cho phải đạo; con vâng lời cha, yêu quý cha và hơn nữa, làm rõ ràng công đức phụ vương. Hai chị con nói là yêu cha đến trọn hết cả tấm tình yêu; nếu thực thế thì sao hai chị lại lấy chồng? Một ngày kia mà con lấy chồng thì vị phu tướng nào đưa tay ra đón lấy tâm nguyện của con cũng sẽ đón theo về phân nửa tấm tình con, phân nửa công phụng dưỡng với phân nửa bổn phận của con. Chắc chắn là con phải đừng lấy chồng như hai chị con mới có thể toàn tâm toàn ý dâng trọn tình con cho cha con được.
LIA – Cô nói đúng theo lòng cô đấy chứ?
COR-ĐÊ-LI-A – Thưa phụ vương, vâng.
LIA – Ít tuổi thế mà đã vô tình đến thế sao?
COR-ĐÊ-LI-A – Thưa phụ vương, ít tuổi thế nhưng mà chân thực.
LIA – Được lắm. Đem cái chân thực ấy đi mà làm của hồi môn. Vì rằng, thề với ánh sáng thần thiêng mặt trời, thề với bầu bí mật của Hê-cat và của trời đêm, thề với các tinh cầu có quyền năng cho ta được sống hay phải chết; tại đây, ta gạt bỏ hẳn mọi ân tình phụ tử, mọi quan hệ huyết mạch tông môn và từ đây ta coi mi vĩnh viễn là người dưng: đối với ta không vương, không bận. Đối với cái giống man rợ phải ăn thịt con mới đủ thỏa cơn thèm lòng ta gớm ghét như thế nào thì đối với mi, lòng ta cũng thế, hỡi kẻ trước đây đã từng là con gái của ta.
(Lược một đoạn: Vua Lia cho mời hai người cầu hôn công chúa út vào để bàn chuyện hôn sự. Trước mặt hai người cầu hôn, vua Lia vẫn nhất quyết không chia cho công chúa út chút của hồi môn nào, khiến cho công tước Bơ-găn-đi từ bỏ mối hôn sự.)
LIA – Vậy, ngài thôi nó là phải; vì nhân danh thứ quyền phép đã dựng nên ta, ta đã nói rõ cả với ngài về tài sản của nó rồi đấy! (Với vua nước Pháp) – Còn đối với vị anh quân đây, thì nếu ta lại đem gả cho Ngài kẻ mà ta gớm ghét, tức là làm tổn hại lớn cho tình hữu hảo của chúng ta; lòng ta sao nỡ? Vậy ta mong ngài chuyển hướng cầu duyên về một nơi xứng đáng hơn, chớ như kẻ khốn nạn kia thì tạo vật thiên nhiên cũng phải hổ ngươi vì có nó.
VUA PHÁP – Thực là chuyện kỳ dị! Có lẽ nào mà một người mà chỉ mới vừa đây thôi vẫn còn là châu báu nhất, nhà vua mở miệng là ban khen, coi là hương hoa tuổi thọ của Người, không ai tốt nết hơn, không ai đáng quý hơn, – vậy mà chỉ trong thoáng chốc lại phạm những tội gớm ghê, đến mất sạch sành sanh bao nhiêu từng ân huệ. Đến nỗi này thì: hoặc là tội lỗi nàng phải hết sức dị thường, bạo thiên nghịch địa; hoặc là lòng yêu thương của nhà vua nay đã hóa ra lẫn cẫn mất rồi! Nhưng muốn tin được là nàng có tội, họa chăng phải có một thứ tín điều mà nếu không có phép quỷ thần thì lý trí tôi không đời nào chịu chấp nhận.
COR-ĐÊ-LI-A – Tuy rằng lỗi của con là không biết khôn ngoan ngọt ngào đầu lưỡi, chỉ muốn làm hay hơn là nói giỏi, con cũng xin phụ vương truyền phán cho thiên hạ hay rằng, con mất ân sủng của phụ vương không phải vì bất cứ một hành vi nhơ nhuốc nào hoặc một bước lầm đường vô hạnh nào, mà chỉ vì con không có được ánh mắt tha thiết khẩn cầu, không có được thứ miệng đong đưa mà con vui lòng chịu thiếu, mặc dầu sự thiếu thốn đó đã khiến con mất luôn cả lòng từ ái của phụ vương.
LIA – Thà mày đừng sinh ra đời còn hơn là sinh ra lại làm thất ý ta như thế.
VUA PHÁP – Chỉ là thế thôi sao? Chỉ là chuyện một bản tính chậm lời, khéo làm mà vụng nói? Bơ-găn-đi tướng công, ngài trả lời cho nàng sao đây? Tình mà còn suy tính vấn vương thì còn tình đâu nữa? Ngài có yêu thương nàng? Bản thân nàng là một kho châu ngọc đó.
BƠ-GĂN-ĐI – Muôn tâu hoàng thượng, người cứ chỉ ban cho nguyên cái phần người đã hứa là tôi xin bái lĩnh Cor-đê-li-a về làm nữ công tước Bơ-găn-đi.
LIA – Ta không cho chi hết, ta đã thề là ta nhất quyết.
BƠ-GĂN-ĐI – Tôi đành lấy làm tiếc vậy thôi: vì nàng làm mất lòng cha, nên phải thiệt mất người chồng.
COR-ĐÊ-LI-A – Xin ngài Bơ-găn-đi yên tâm. Ngài tính lấy tài sản tôi làm đối tượng tình yêu, thì tôi không thể nào làm vợ ngài được.
VUA PHÁP – Nàng Cor-đê-li-a kiều diễm! Nàng giàu có biết bao khi chỉ có đôi bàn tay trắng, nàng càng thêm quý giá vì bị bỏ rơi, càng thêm đáng yêu bởi bị người khinh miệt. Nàng, cùng với đức hạnh của nàng, ta xin chiếm lĩnh. Ta đoạt cho ta được lắm chứ, cái phần mà thiên hạ rẫy ruồng gạt đi. Hỡi thiên địa thần minh! Lạ lùng thay, đối trước những lòng rẻ rúng giá băng kia, tình của ta trên muôn kính ngàn yêu thêm bừng cháy. Nàng công chúa không của hồi môn này, thưa hoàng thượng, tay không về với kẻ gặp phước may này, sẽ là hoàng hậu của tôi, của thần dân tôi, của cả nước Pháp thân yêu và tươi đẹp. Không một vị công tước nào của xứ Bơ-găn-đi ẩm ướt chuộc lại được nơi tôi người con gái bị hạ giá mà quý giá vô ngần này! Tạm biệt họ hàng đi, em Cor-đê-li-a! Mặc dầu người ta không tình không nghĩa. Thôi đành nơi này em mất hết nhưng chốn khác em lại được nhiều.
LIA – Thì đấy, nhà vua nước Pháp cứ việc đem nó về! Ngữ này, ta không còn chấp nhận là con gái của ta, cũng chẳng còn bao giờ ta thèm nhìn mặt nữa. Thôi đi đi! Đừng hòng ta thương, ta ân xá, hay ta ban một chút ơn lành! Nào mời, ngài công tước xứ Bơ-găn-đi.
(Lia, Bơ-găn-đi, Cor-nơ-uôn, An-ba-ni, Glô-xtơ và bọn tùy tùng vào.)
VUA PHÁP – Nàng từ biệt hai chị đi.
COR-ĐÊ-LI-A – Thưa hai chị, ngọc báu của cha, Cor-đê-li-a không khỏi rơi châu khi từ biệt hai chị. Em biết lòng hai chị lắm, và nết của hai chị; vì tình ruột thịt, em không tiện gọi thẳng tên nó ra. Xin hai chị cư xử tốt với cha. Em phó thác cha cho những tấm lòng kia đã thốt nên lời tâm nguyện. Thương thay! Giá em vẫn được lòng thương của Người, thì em ưng thấy Người trong tay phụng dưỡng khác tốt hơn. Thôi, vĩnh biệt hai chị.
RÊ-GAN – Cô không phải dạy chúng tôi cách ăn ở.
GÔ-RƠ-NIN – Cô cứ gắng mà chiều đức phu quân của cô cho khéo, người ta đã cứu vớt cô khỏi chỗ khốn cùng. Cô chi li cả với điều vâng thuận ý cha; cho cô đáng đời, cô muốn tay trắng thì được tay trắng rồi đó.
COR-ĐÊ-LI-A – Thời gian rồi sẽ phơi bày ra những nhân tâm lẩn núp sau khôn khéo. Ai che giấu lỗi, thế nào cũng phải hối về sau. Mong cho các chị mọi điều thịnh vượng.
VUA PHÁP – Ta ra thôi, nàng Cor-đê-li-a mỹ lệ.
(Vua Pháp và Cor-đê-li-a vào.)
GÔ-RƠ-NIN – Em này, chị có nhiều điều rất cần bàn với em, quan hệ đến cả hai chị em ta! Chị chắc tối nay cha chúng ta lên đường.
RÊ-GAN – Đúng rồi, cha đi với chị đấy. Tháng sau thì đến lượt cha sang em.
GÔ-RƠ-NIN – Em xem, tuổi già tính nết cha đổi thay như thế đấy. Những điều trông thấy vừa đây không phải là chuyện nhỏ. Ông cụ vẫn yêu con Cor-đê-li-a hơn cả, vậy mà, đùng một cái, ruồng bỏ nó, đủ biết ông cụ thiếu suy nghĩ biết chừng nào?
RÊ-GAN – Bệnh não tuổi già! Với lại thực ra ông cụ cũng chẳng bao giờ biết giữ mình một tý gọi là có.
GÔ-RƠ-NIN – Thời ông cụ tỉnh táo phương cương nhất, cũng đã thường sinh ra cơn trận đùng đùng. Bây giờ, già rồi, bọn mình coi chừng không những rồi phải chịu đựng cái cố tật đã kinh niên mà còn phải tính đến cả những lúc dở chứng thất thường của cái tuổi khật khừ đâm cắm cảu.
RÊ-GAN – Thế nào rồi chúng mình chẳng bị ông cụ thình lình giáng cho những vố đáo để, như việc phóng trục lão Ken vừa rồi?
GÔ-RƠ-NIN – Lúc này ông cụ đang dở cuộc tiễn biệt nhà vua Pháp. Chị em ta hội ý với nhau ngay đi. Nếu cứ với tình trạng thế kia mà ông cụ vẫn nắm vững uy quyền thì chuyện tự ý thoái vị mới đây đối với chúng ta có thể trở thành một mối hậu họa.
RÊ-GAN – Chúng ta sẽ nghĩ kỹ vấn đề này.
GÔ-RƠ-NIN – Phải tính cách nào, càng sớm càng tốt.
(Trích Vua Lia, Uy-li-am Sếch-xpia)
Tóm tắt: Vua Lia là vở bi kịch năm hồi của Sếch-xpia. Nội dung vở kịch như sau:
Vua Lia nước Anh đã già, có ba cô con gái là Gô-rơ-nin, Rê-gan và Cor-đê-ni-a. Nhà vua định chia vương quốc cho các con gái làm của hồi môn, rút lui khỏi công việc triều chính. Ông hỏi các con xem ai yêu mình nhất để quyết định việc phân chia. Sau khi quyết định việc phân chia xong xuôi, vua Lia lần lượt đến ở với hai công chúa. Nhưng không được bao lâu, họ trở mặt, thậm chí là can tâm đẩy ông ra khỏi nhà trong một đêm giông bão. Quá sốc trước sự bội phản của hai cô con gái, vua Lia đã hóa điên.
Bá tước Glô-xtơ có hai người con trai là Eđ-ga (con chính thức) và Eđ-mơn (con ngoài giá thú). Bá tước bị Eđ-mơn lừa gạt, hiểu nhầm rằng Eđ-ga phản bội để chiếm hết gia tài của mình. Ông cho người truy lùng Eđ-ga khắp nơi khiến chàng phải cải trang, chạy trốn. Trong khi đó, Eđ-mơn phản bội bá tước, khiến ông bị Cor-nê-uôn móc mắt.
Quân Pháp kéo đến trả thù cho vua Lia nhưng bại trận. Vua Lia và Cor-đê-li-a bị bắt. Eđ-mơn bí mật cho người đến sát hại hai cha con họ. Trong khi đó, Gô-rơ-nin, Rê-gan cùng muốn tằng tịu với Eđ-mơn. Gô-rơ-nin viết thư bày cho Eđ-mơn chồng cô là An-ba-ni để mình được tự do. Bức thư bị Eđ-ga bắt được và chuyển cho An-ba-ni. Eđ-mơn bị Eđ-ga trừng trị. Trước khi chết, Eđ-mơn kêu mọi người đi cứu vua Lia và Cor-đê-li-a, nhưng không kịp. Cor-đê-li-a bị tên lính thắt cổ chết. Nhà vua giết tên lính, ôm xác con gái, quá đau đớn, ông cũng từ giã cõi đời trong tiếng kèn lâm khốc.
Hướng dẫn giải:
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn (0.25 điểm)
– Xác định đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 200 chữ) của đoạn văn.
– Thí sinh có thể trình bày theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0.25 điểm)
Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Phân tích hai nhân vật Gô-rơ-nin và Rê-gan trong đoạn trích.
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận (0.5 điểm)
– Xác định được các ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận, sau đây là một số gợi ý:
+ Trước khi được vua Lia chia cho vương quốc: Cả hai công chúa đều thể hiện một tình yêu rất dối trá với vua cha:
++ Thưa phụ vương, lòng con yêu phụ vương thực không lời nào tả xiết, con yêu phụ vương thiết tha hơn cả yêu ánh sáng, yêu vũ trụ, yêu tự do, yêu trên hết mọi vật quý giá nhất đời; yêu như yêu sự sống đầy duyên, đầy sức, đầy nhan sắc, đầy vinh quang; yêu như chưa có con yêu cha nào bằng, yêu như chưa có cha nào được con yêu đến thế; yêu tới mức không còn hơi sức nữa và yêu tới độ lời lẽ hóa nghèo nàn; con yêu cha thực vượt xa mọi bờ bến.
++ Con với chị con đều đúc nên cùng một chất và so với chị, con biết mình con nào có kém chị? Nghe trong trái tim chân thật của con, con thấy lời chị con vừa thốt ra chính là tiếng của lòng con yêu kính đó; có điều lời ấy còn xa mới đạt tới độ nồng nàn. Con nói thực, con thù ghét mọi sinh thú ở đời, duy nhất chỉ thấy được hạnh phúc trong tấm tình con yêu đấng phụ vương rất tôn kính.
+ Thế nhưng sau khi được vua Lia trao cho quyền quản lí vương quốc, hai công chúa đều lộ rõ bản chất.
++ Họ bàn tính cách để đối phó với chính người cha ruột của mình, người cho họ sinh mệnh, cuộc sống giàu có, sung túc, hạnh phúc. (HS trích dẫn lời thoại thể hiện sự bàn tính của hai công chúa.)
++ Thậm chí, sau khi đã nắm giữ mọi quyền lực trong tay, họ đã trở mặt, can tâm đẩy vua Lia ra khỏi nhà trong một đêm giông bão, khiến ông hóa điên.
=> Qua hình tượng hai nhân vật trên, người đọc không khỏi xót xa cho hoàn cảnh của vua Lia. Nhưng nguyên nhân một phần cũng là do sự nóng nảy, thiếu sáng suốt của nhà vua khi phân chia vương quốc cho các công chúa. Bên cạnh đó, văn bản còn lên án, phê phán sự thống trị của sự dối trá và sự lên ngôi của cái ác, được thể hiện qua hai nhân vật Gô-rơ-nin và Rê-gan.
– Sắp xếp được hệ thống ý phù hợp theo đặc điểm của kiểu văn bản.
d. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu sau (0.5 điểm)
– Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.
– Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các ý.
– Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: Lí lẽ xác đáng, bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng.
đ. Diễn đạt (0.25 điểm)
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn.
e. Sáng tạo (0.25 điểm)
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.