Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Khám phá văn bản SVIP
HUYỆN TRÌA XỬ ÁN
I. THỰC HÀNH ĐỌC VÀ TÌM HIỂU CHUNG
1. Đọc
2. Tìm hiểu chung
a. Thể loại
b. Xuất xứ: Trích vở tuồng "Nghêu, Sò, Ốc, Hến".
c. Tóm tắt vở tuồng "Nghêu, Sò, Ốc, Hến"
Nghêu, Sò, Ốc, Hến (khuyết danh) là vở tuồng đặc sắc về nội dung và nghệ thuật, đậm chất dân gian, tiêu biểu cho tuồng đồ. Tác phầm gồm màn giáo đầu và 19 lớp, có thể tóm tắt như sau.
Trần Ốc, một gã kẻ trộm, nhờ thầy bói là Lữ Ngao gieo quẻ chỉ hướng vào ăn trộm nhà Trùm Sò - một trọc phú trong vùng. Ốc đem của trộm được bán cho Thị Hến, một gái goá trẻ đẹp, ma mãnh. Trùm Sò báo với lí trưởng (Lí Hà), thuê phù thuỷ dùng bùa phép tìm kẻ gian. Một tên gia đinh của Thị Hến, vì bất bình với cách đối xử cay nghiệt của Thị Hến, đã có lời nói hớ hênh, khiến tang vật do Ốc lấy cắp từ nhà Trùm Sò bị phát giác. Lí Hà giam giữ Thị Hến cùng tang vật. Đề Hầu xuất hiện, thấy Thị Hến xinh đẹp, có ý bênh vực thị. Sau đó, cả bọn bị giải lên huyện để quan xét xử. Thị Hến làm cho cả quan huyện (Huyện Trìa) lẫn Đề Hầu mê mệt nhan sắc của mình. Thị được tha bổng, Trùm Sò không lấy lại được tài sản mất cắp. Kết thúc vở tuồng là màn kịch khôi hài do Thị Hến bày ra, lần lượt đưa Thầy Nghêu, Huyện Trìa, Đề Hầu vào tròng, lật tẩy bản chất của gã thầy tu và thầy trò hai tên chức dịch mê gái.
Vở tuồng này có nhiều dị bản. Các dị bản khác nhau về tổng số lớp tuồng, về số nhân vật và vai trò hành động của các nhân vật trong tác phẩm. Chẳng hạn, bản in của Nhà hát tuồng Đào Tấn, 1967, chỉ có 15 lớp. Một số dị bản khác không có nhân vật Thầy Nghêu, và trong lớp kết thúc tác phẩm ba kẻ mắc lỡm Thị Hến là Lí Hà, Đề Hầu, Huyện Trìa, có màn xuất hiện của ba bà vợ táo tợn, hung dữ,...
Bản tóm tắt trên đây dựa vào văn bản in trong Tổng tập Văn học Việt Nam (trọn bộ 42 tập), tập 12, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, NXB Khoa học Xã hội, 2000.
Huyện Trìa xử án là lớp XIII trong Nghêu, Sò, Ốc, Hến. Nhan đề văn bản do người biên soạn đặt.
II. KHÁM PHÁ VĂN BẢN
1. Lời thoại và mâu thuẫn xung đột kịch trong văn bản tuồng đồ
a. Nêu ví dụ về lời đối thoại, độc thoại, bàng thoại của nhân vật:
Đối thoại |
Độc thoại |
Bàng thoại |
- Đế Hầu: Bắt tới chốn huyện nha, Xin ngài ra xử đoàn… - Huyện Trìa: Thôi, đây đã biết Lựa đó phải thưa |
Mụ đà nên tệ Ông Huyện cũng xằng Phen này ông bày thú mặt lang Huếch với mụ ắt râu trụi lủi . |
Tri huyện là mỗ Nội hạt tiếng khen khen ta: Cầm đường ngày tháng vào ra, Hoa nguyệt mai thong thả |
b. Lời thoại của nhân vật trong văn bản trên mang đặc điểm của thơ hoặc văn vần
Nội hạt tiếng khen khen ta Cầm đường ngày tháng vào ra Hoa nguyệt hôm mai thong thả. |
=> Gieo vần "a" (cách gieo vần đặc trưng trong thơ ca).
c. Trong lời thoại của nhân vật, một số từ ngữ được tách riêng ra hoặc đặt trong ngoặc đơn
- Lời thoại văn bản có các từ ngữ trong ngoặc đơn:
Đề Hầu: |
(Dạ, thưa quan bọn này) Trộm của Trùm Sò đêm trước Vu cho Thị Hến hôm qua Bắt tới chốn huyện nga, Xin ngài ra xử đoán. [...] |
-> Cách thêm ngoặc đơn là để tăng tính khẩu ngữ và mức độ thân mật trong lời Huyện Trìa với Thị Hến.
Huyện Trìa: |
Này Thị Hến! Việc phải, không, vốn ta chưa tỏ, Thấy đơn cô chút chạnh lòng thương. (Em) Phải năng lên hầu quan (Thời) Ai dám nói vu oan gieo họa. |
=> Chỉ có hai nhân vật nói một mình là Huyện và Đề. Đây như đoạn đệm chuyển lời trong tuồng, nâng cảm xúc của nhân vật lên cao.
2. Mâu thuẫn giữa các nhân vật
- Trước phiên toà, các mâu thuẫn nảy sinh chồng chéo, liên quan đến vụ bắt giữ, kiện tụng:
+ Mâu thuẫn giữa trộm Ốc, Lữ Ngao với vợ chồng Trùm Sò, Lê Hà [1].
+ Mâu thuẫn giữa vợ chồng Trùm Sò, Lí Hà với Thị Hến [2].
+ Mâu thuẫn giữa vợ chồng Trùm Sò, Lí Hà với Đề Hầu [3].
- Trong phiên toà, các mâu thuẫn cũ tiếp tục phát triển:
+ Mâu thuẫn giữa vợ chồng Trùm Sò, Lí Hà với Thị Hến [2].
+ Mâu thuẫn giữa vợ chồng Trùm Sò, Lí Hà với Đề Hầu [3].
Đồng thời nảy sinh thêm các mâu thuẫn mới:
+ Mâu thuẫn Huyện Trìa với Đề Hầu [4].
+ Mâu thuẫn Huyện Trìa với vợ chồng Trùm Sò [5].
3. Nhân vật Huyện Trìa, cung cách xử án và tiếng cười dân gian
a. Tính cách Huyện Trìa qua các loại lời thoại
Bàng thoại (Ví dụ; tác dụng)
|
Độc thoại |
Đối thoại |
Tri huyện Trìa là mỗ Luật không hay (thời ta) xử theo trí, Thẳng tay một mực ăn tiền Đơn từ già, trẻ, lạ quen, Nhắm mắt đánh đòn phát lạc Chỗ nào nhắm tốt tiến tốt bạc Lễ phù lưu hết mấy cũng lo, Quan ở trên dù cú, hay cò Đồ hành khiển nhiều mâm cũng đặng.
|
Đã biết mặt lão Đề hay nói bậy Còn giơ hàm chú Lại nói cò cưa Lưng cù chầy hình khéo bơ sờ, Mồm xà cáng vinh râu ngoe ngoét.
|
Này Thị Hến! Việc phải, không, vốn ta chưa tỏ, Thấy đơn cô chút chạnh lòng thương (Em) Phải năng lên hầu gần quan (Thời) Ai dám nói vụ oan gieo hoạ Nguyễn tang không phải đó, Tình trạng nghiệm là phi Ỷ phú gia hống hách, Hiếp quả phụ thân cô. Cứ lấy đúng pháp công, Tội cả vợ lẫn chồng (Thôi) Ta thứ liền ông, liền mụ. |
Tác dụng: Bàng thoại tự hoạ chân dung của Huyện Trìa: một viên quan sâu mọt với nhiều thói xấu. |
Tác dụng: Độc thoại tự bộc lộ tính cách hách dịch, đố kị của Huyện Trìa trong quan hệ với thuộc cấp (Đề Hầu). |
Tác dụng: Đối thoại, phân quyết phơi bày lối xưng hô thớ lợ, xử kiện thiên vị, bất minh với động cơ mở ám của Huyện Trìa. |
=> Nhận định chung về tính cách của Huyện Trìa
+ Qua lời những lời bàng thoại, độc thoại: Huyện Trìa là viên quan mang nhiều thói hư tật xấu như háo sắc, dại gái, sợ vợ; tham tiền; thích nhàn hạ hưởng thụ, chểnh mảng việc công; đội trên (lo lót quan trên) đạp dưới (mắng nhiếc thuộc cấp); xử án ăn tiền, bất cần luật lệ,...
+ Qua những lời đối thoại, phán quyết trong phiên toà:
Vì háo sắc, Huyện Trìa ngang nhiên biến công đường thành nơi tán tỉnh gái goá, xưng hô thớ lợ, xét xử thiên vị, tuỳ tiện, bất minh (không quan tâm đến sự thật ai đúng, ai sai, ai vô tội, ai có tội,...).
+ Màn kịch đã kết hợp và phát huy tác dụng của ngôn ngữ bàng thoại, độc thoại với đối thoại trong tuồng đồ để lột trần bản chất xấu xa, đen tối của nhân vật Huyện Trìa – một hình tượng biếm hoạ có ý nghĩa phê phán sâu sắc.
4. Tình cảm, cảm xúc của tác giả thể hiện qua ngôn ngữ kịch trong văn bản
- Các dấu hiệu, manh mối gián tiếp giúp nhận biết tình cảm, cảm xúc đối với sự việc, nhân vật của tác giả dân gian qua ngôn ngữ tuồng.
+ Tình cảm, cảm xúc của tác giả gián tiếp bộc lộ qua quan niệm, suy nghĩ, cách hành xử của Huyện Trìa đối với vai trò, chức trách "đèn trời soi xét" của mình và cung cách xử án của y trong vụ việc liên quan đến Trùm Sò - Thị Hến; cái tên Trìaa (bên cạnh những cái tên Hầu, Sò, Nghêu, Hán,..) mà tác giả đặt cho nhân vật này cũng là một cách thể hiện thái độ, tình cảm.
+ Đối thoại, độc thoại thể hiện thái độ, tình cảm, nhận xét của nhân vật Đề Hầu đối với Huyện Trìa hay của Huyện Tria đối với Đề Hầu.
=> Tình cảm, cảm xúc của tác giả thể hiện qua ngôn ngữ kịch trong Huyện Trìa xử án: Huyện Trìa – Đề Hầu, những kẻ "cầm cân nảy mực" thực thi công lí phê phán, cười cợt. Cách miêu tả các nét tính cách của Huyện Trìa qua bàng thoại, độc thoại, đối thoại cho thấy điều đó.
5. Đề tài, cảm hứng chủ đạo, phương thức sáng tác, lưu truyền
- Đề tài:
- Cảm hứng chủ đạo: phê phán, chế giễu cung cách xử án tuỳ tiện, bất chấp sự thật của những kẻ đại diện cho chính quyền nông thôn như Huyện Trìa, Đề Hầu.
- Nguồn gốc tích truyện: được xây dựng từ mô-tip truyện kể dân gian, ví dụ: mô-tip "mắc lỡm" các nhân vật nam háo sắc bị người nữ cài vào tình thế phải chui xuống gầm giường, chui vào bu nhốt gà, treo lên giả làm cái chuông (khi bị thử đánh thì kêu lên "Na-mô-boong!"),..
- Phương thức sáng tác, lưu truyền: truyền miệng nên có các dị bản.
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây