Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Đề tham khảo giữa học kì II - Đề số 3 SVIP
(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:
Chuyện ông Hoàng Cầm
Minh Chuyên
Có một sự kiện đã theo hàng triệu người lính ra trận trong suốt những năm chống Pháp, chống Mỹ. Nó trở nên nổi tiếng và thân thuộc với tất cả các đơn vị quân đội. Đó là sự kiện bếp Hoàng Cầm.
Cái bếp mang tên người sinh ra nó là một anh bộ đội tên là Hoàng Cầm, quê ở tỉnh Nam Định, nguyên chiến sĩ nuôi quân Sư đoàn 308, Đại đoàn Quân Tiên phong. Cái bếp kì diệu ấy đã cùng các đơn vị bộ đội tham gia chiến dịch Biên giới, Hoà Bình, Điện Biên Phủ và sau đó tiếp tục cùng các đơn vị thời chống Mỹ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Bếp Hoàng Cầm là một yếu tố tạo nên sự bất ngờ, bí mật cho bộ đội chiến thắng và biết bao người lính nhờ nó mà không phải đổ máu, hi sinh. Thời gian và năm tháng qua đi, nhiều người đã quên tên anh bộ đội Hoàng Cầm mà chỉ còn nhớ tên cái bếp Hoàng Cầm của anh. Cái bếp đã ăn sâu vào tiềm thức của bao người […].
Hoàng Cầm sinh ra và lớn lên ở làng Cát Nội, xã Trực Đại, tỉnh Nam Định. Sau này gia đình chuyển lên sinh sống tại làng Đồi Mây, nay là thị trấn Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Tháng 2 năm 1946, anh thanh niên Hoàng Cầm tình nguyện lên đường vào bộ đội chống Pháp. Trước khi vào quân ngũ, Hoàng Cầm có gần một năm đi làm thuê (làm đầu bếp) cho một gia đình ở Hà Nội. Có lẽ vì thế, Hoàng Cầm được cử làm chiến sĩ nuôi quân thuộc đơn vị quân y tiền phương Sư đoàn 308. Là anh nuôi, Hoàng Cầm luôn tận tâm, tận lực với công việc nấu ăn phục vụ bộ đội nhiều chiến dịch. Qua chiến dịch Hoàng Hoa Thám và chiến dịch Hoà Bình năm 1952, Hoàng Cầm nhận ra chiến tranh ngày càng khốc liệt. Bộ đội ta chiến đấu, hi sinh không chỉ ở mặt trận giáp mặt quân thù mà hi sinh, thương vong ngay cả khi về hậu cứ nghỉ ngơi, sinh hoạt. Nguyên nhân của việc mất mát ấy có một phần do việc nấu ăn. Khói lửa từ những cái bếp nuôi quân bốc lên, máy bay địch phát hiện đã trút bom đạn xuống. Tổ anh nuôi của Hoàng Cầm và nhiều đơn vị khác phòng tránh bằng cách chuyển sang nấu ăn ban đêm, khi máy bay địch tới thì dập lửa, dội nước, nhưng nhiều khi vẫn không tránh kịp tai hoạ. Đang đun, dập lửa, cơm thường bị khê, sống. Nấu ăn ban đêm, ban ngày cơm nguội lạnh. Bộ đội ăn cơm sống, khê, nguội lạnh, không đảm bảo sức khoẻ. Hoàng Cầm nhớ một lần, đồng chí thủ trưởng nhắc tổ quân nuôi quân:
– Các đồng chí cố gắng xem có cách nào khắc phục cái bếp. Để anh em thương vong, chết chóc ở ngay nơi đóng quân và nơi ăn uống khổ cực là mình có tội với nhân dân, với bộ đội đấy.
Đúng! Để bộ đội chết vì nấu ăn là mình có tội. Hoàng Cầm trăn trở ngày đêm suy nghĩ. Có buổi anh ngồi hàng giờ đồng hồ dưới tán cây rừng quan sát anh em nhóm bếp và đăm đăm nhìn ngọn lửa, nhìn làn khói xanh cuồn cuộn bay lên.
Trong bản tự thuật quá trình mày mò, sáng chế kiểu bếp mới, Hoàng Cầm kể: “Một đêm nằm nghĩ miên man, tôi chợt nhớ đến cách nấu cám lợn ở vùng Nam Định quê tôi. Hồi đó bếp thường đắp bằng đất sét kín chung quanh chỉ để một lỗ thoát hơi phía sau, nên lửa cháy tập trung, ít bốc ra ngoài. Nhưng làm thế nào để bếp đun không có khói? Suy nghĩ mãi đến hơn nửa tháng sau, tôi mới nghĩ ra cảnh mình từng đi hun chuột ngoài đồng. Đào cửa hang sâu xuống đất, chất rạ đốt, hầu như khói hút cả vào trong hang. Tôi mừng quá, nếu áp dụng cải tiến thành bếp nuôi quân kiểu mới sẽ hạn chế được khói và lửa bốc cao.”.
Từ cơ sở đó, Hoàng Cầm miệt mài ngày đêm nghiên cứu, vẽ sơ đồ một số kiểu bếp. Ngày ngày anh tranh thủ trưa, tối, có khi cả buổi vác xẻng, đeo xoong nồi, trốn vào rừng đào bếp thử nghiệm. Không biết có thành công hay thất bại nhưng sợ anh em tốn sức, vất vả, anh giấu kín mọi người. Anh đào hàng chục cái bếp khác nhau, có nhiều nhánh dẫn khói như hang chuột. Làm xong anh đặt nồi lên từng cái bếp chất củi đun thử. Kết quả tạm được, nhưng lửa vẫn lộ, khói ra vẫn phảng phất bay lên. Lại hì hục đào hàng chục cái bếp khác nữa. Lần này Hoàng Cầm đào các đường dẫn khói chẽ ra nhiều nhánh và dài gấp đôi, trên rãnh dẫn khói rải cành cây rồi đổ đất san phẳng. Phía trước cửa bếp đào một hố sâu, trên lợp nilon hoặc lá vừa để đồ vừa che ánh lửa và có hầm chứa khói, hút lửa mạnh hơn.
Trong bản tự thuật, Hoàng Cầm viết: “Lần này, bếp có nhiều ưu điểm, đã giấu kín được ánh lửa, nhưng khói trên ống vẫn là lảng bảng bay lên ngọn cây. Nghĩ mãi, tôi chợt nhớ ngày ở quê, chiều chiều nấu cơm, gặp trời mưa, khói chui qua mái gianh ướt, bốc lên nhè nhẹ như sương mù. Tìm ra rồi, sướng quá, tôi lật hết cành cây khô lát trên đường ống dẫn rồi dùng cây chuối rừng chẻ ra lát lên trên, phủ đất san phẳng và dùng nước tưới đều lên rãnh dẫn khói. Quả nhiên, khi đun khói cứ là là, toả đều mặt đất, không bốc lên cao nữa.”.
[...] Cái bếp do Hoàng Cầm sáng tạo rất phù hợp với bộ đội thời chiến, kín lửa, khói không bốc cao, anh nuôi nấu ăn cả ngày, cả tối, không sợ máy bay địch phát hiện. Bộ đội có cơm nóng, canh ngọt. Mỗi khi ém sát địch, anh nuôi vẫn nổi lửa đêm ngày.
Tháng 10 năm 1952, đơn vị quyết định cái bếp được mang tên người chiến sĩ đã sáng tạo ra nó: bếp Hoàng Cầm. Anh chiến sĩ nuôi quân Hoàng Cầm được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng 3. Và năm đó, Hoàng Cầm được bầu là Chiến sĩ thi đua toàn quốc. Bếp Hoàng Cầm được phổ biến áp dụng trong toàn quân.
Từ đó, cái bếp theo bộ đội hết chiến dịch này đến chiến dịch khác. Kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, bếp Hoàng Cầm tiếp tục là bạn đồng hành của bộ đội nuôi quân suốt những năm chống Mỹ và nó đã đi vào lời bài hát làm cả triệu anh bộ đội xao xuyến khôn nguôi: “Nổi lửa lên em, đánh Mỹ đêm ngày… Đôi quang gánh nặng tình yêu đất nước. Hơi bếp Hoàng Cầm sưởi ấm khắp nơi nơi…” […].
Dẫu mai này, có thể người ta lại quên cái tên người chiến sĩ nuôi quân Hoàng Cầm. Nhưng cái bếp của ông, cái bếp đã đi vào lịch sử hay cuộc kháng chiến vệ quốc của dân tộc có thể sẽ trở thành cái bếp huyền thoại truyền mãi đến muôn đời.
Hà Nội – 2003
(Người lang thang không cô đơn, truyện kí, NXB Văn học, Hà Nội, 2018, trang 152 – 163)
Câu 1. Xác định những phương thức biểu đạt được sử dụng trong văn bản.
Câu 2. Văn bản kể về sự việc chính nào?
Câu 3. Phát biểu cảm hứng chủ đạo được tác giả thể hiện trong văn bản.
Câu 4. Nội dung của văn bản này là gì?
Câu 5. Em thấy ấn tượng với chi tiết nào trong văn bản? Vì sao?
Hướng dẫn giải:
Câu 1.
Những phương thức biểu đạt được sử dụng trong văn bản: Tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh.
Câu 2.
Sự việc chính: Người chiến sĩ Hoàng Cầm sáng tạo ra loại bếp mới để phục vụ cho bộ đội thời chiến.
Câu 3.
Qua quá trình kiên trì, nỗ lực của người chiến sĩ Hoàng Cầm, tác giả ca ngợi người chiến sĩ nuôi quân giàu lòng yêu nước, kiên trì và sáng tạo này.
Câu 4.
Nội dung của văn bản: Văn bản Chuyện ông Hoàng Cầm ca ngợi lòng yêu nước sâu sắc, sự sáng tạo, kiên trì và sự cống hiến âm thầm của người chiến sĩ nuôi quân Hoàng Cầm dành cho đất nước.
Câu 5.
HS chỉ ra chi tiết mà các em ấn tượng và đưa ra được lí giải hợp lí.
Câu 1. (2.0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích hình tượng nhân vật Hoàng Cầm ở phần Đọc hiểu.
Câu 2. (4.0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ của em về ý nghĩa của sự sáng tạo trong cuộc sống hiện đại.
Hướng dẫn giải:
Câu 1. (2 điểm)
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn
– Xác định đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 200 chữ) của đoạn văn.
– Thí sinh có thể trình bày theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Phân tích hình tượng nhân vật Hoàng Cầm ở phần Đọc hiểu.
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận
– Xác định được các ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận, sau đây là một số gợi ý:
+ Giới thiệu khái quát những thông tin cơ bản về người chiến sĩ nuôi quân Hoàng Cầm. (HS tóm tắt những thông tin cơ bản đã được cung cấp trong ngữ liệu ở phần Đọc hiểu.)
+ Phân tích, đánh giá hình tượng người chiến sĩ Hoàng Cầm:
++ Hoàng Cầm là một người giàu lòng yêu nước: Điều này được thể hiện qua những hành động âm thầm đóng góp của anh cho quân đội Việt Nam nói riêng, cho đất nước nói chung trong hoàn cảnh chiến đấu đầy khó khăn, gian khổ.
++ Hoàng Cầm là người giàu khả năng sáng tạo: Dựa trên bối cảnh thực tiễn và những trải nghiệm cá nhân trong quá khứ, anh đã sáng tạo ra bếp Hoàng Cầm, giúp cho quân đội Việt Nam giải quyết được khó khăn nan giải lúc bấy giờ. (HS có thể kể rõ quá trình Hoàng Cầm sáng tạo ra chiếc bếp cùng những khó khăn anh gặp phải,...)
++ Hoàng Cầm thể hiện rõ tính cách nhẫn nại, kiên trì: Quá trình sáng tạo ra chiếc bếp, anh đã thất bại không biết bao nhiêu lần. Nhưng bằng sự nhẫn nại, kiên trì, anh không ngừng điều chỉnh, cải tiến và cuối cùng là đạt được sự thành công.
=> HS tự rút ra nhận xét, đánh giá riêng về nhân vật.
d. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu sau
– Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.
– Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các ý.
– Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: Lí lẽ xác đáng, bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng.
đ. Diễn đạt
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn.
e. Sáng tạo
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.
Câu 2. (4 điểm)
a. Xác định được yêu cầu của kiểu bài
Xác định đúng yêu cầu của kiểu bài: Nghị luận xã hội.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Trình bày suy nghĩ của em về ý nghĩa của sự sáng tạo trong cuộc sống hiện đại.
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận
– Xác định được các ý chính của bài viết.
– Sắp xếp được các ý hợp lí theo bố cục 3 phần của bài văn nghị luận:
* Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận và nêu khái quát quan điểm của cá nhân về vấn đề.
* Thân bài: Triển khai vấn đề nghị luận:
– Sự sáng tạo là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội:
++ Về khoa học - công nghệ: Đèn điện, máy bay, trí tuệ nhân tạo AI đều là sản phẩm của sự sáng tạo. => Sự sáng tạo làm cho cuộc sống tiện nghi hơn, giúp con người giải quyết được nhiều khó khăn hơn.
++ Về kinh tế: Các sản phẩm mới, dịch vụ mới tạo ra các cơ hội kinh doanh mới, góp phân thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. => Kích thích sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, khiến họ không ngừng đổi mới, sáng tạo.
++ Về văn hóa - xã hội: Các tác phẩm nghệ thuật độc đáo lưu giữ hơi thở của từng thời đại; các hình thức giải trí mới đáp ứng được nhiều nhu cầu của con người.
– Sự sáng tạo là chìa khóa để giải quyết các vấn đề nan giải trong cuộc sống vì:
+ Giúp chúng ta tìm ra các biện pháp mới trong việc bảo vệ môi trường như năng lượng tái tạo, công nghệ xanh.
+ Giúp chúng ta đổi mới các phương pháp giáo dục, chăm sóc sức khỏe, xây dựng những mô hình cộng đồng bền vững.
+ ...
– Sự sáng tạo tạo ra những giá trị mới cho xã hội:
+ Tạo ra các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng, giá trị cao hơn.
+ Tăng cường năng suất lao động.
+ Làm giàu đời sống tinh thần của con người.
+ Góp phần xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ.
– Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội hiện nay, những sản phẩm của sự sáng tạo như trí tuệ nhân tạo AI đang khiến con người trở nên thụ động, ỷ lại, thui chột đi cá tính sáng tạo trong mỗi con người.
– Do đó, chúng ta cần:
+ Phổ cập về những hiểm họa mà AI có thể mang lại cho đời sống của con người nếu con người mất đi khả năng sáng tạo, tư duy.
+ Tạo ra một môi trường tôn trọng, đề cao, khuyến khích sự khác biệt để kích thích sự sáng tạo trong mỗi cá nhân.
* Kết bài: Khái quát vấn đề nghị luận.
d. Viết bài văn đảm bảo các yêu cầu sau
– Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.
– Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các ý.
– Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: Lí lẽ xác đáng, bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng.
đ. Diễn đạt
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết văn bản.
e. Sáng tạo
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.