Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Yếu tố thuyết minh, tự sự, miêu tả giúp cho các văn bản nghị luận trở nên hấp dẫn, rõ nét và thuyết phục người đọc, người nghe hơn.
- Tác giả đã lồng ghép yếu tố miêu tả và biểu cảm ở nhiều đoạn. Chẳng hạn, yếu tố biểu cảm thể hiện ngay tên các tiêu mục (chỗ nước trời lẫn sắc miền Bắc; đầu sóng ngọn gió miền Trung; những đảo ngọc miền Nam), ở sự liên tưởng tới câu thơ của Chế Lan Viên, ở những từ ngữ thể hiện tình cảm, thái độ của du khách khi đến những vùng đảo,... yếu tố miêu tả thể hiện ở những đoạn giới thiệu vị trí địa lí của những hòn đảo trải dài từ Bắc vào Nam. Bên cạnh đó, yếu tố tự sự cũng được sử dụng khi giới thiệu về sự xuất hiện của cư dân đảo.
- Việc lồng ghép yếu tố miêu tả, biểu cảm, tự sự giúp cho thông tin được chuyển tải đến người đọc một cách sinh động, hấp dẫn, thể hiện tình yêu và niềm tự hào của tác giả về biển đảo Việt Nam.
- Văn bản đã lồng ghép tất cả các yếu tố miêu tả, tự sự, biểu cảm, nghị luận trong văn bản thuyết minh:
+ Yếu tố tự sự để nói về nội dung câu chuyện được đề cập trong tác phẩm.
+ Yếu tố miêu tả để nói về những vẻ đẹp của tác phẩm và sự đón nhận của công chúng.
+ Yếu tố biểu cảm để nói về những vẻ đẹp/ thành công của tác phẩm, tác giả sử dụng yếu tố biểu cảm.
+ Yếu tố nghị luận để bày tỏ quan điểm của mình về những khía cạnh, những vấn đề trong tác phẩm.
- Cách người viết lồng ghép các yếu tố trên trong văn bản được kết hợp một cách hài hòa và sắp xếp theo trình tự hợp lí; giúp thông tin cụ thể, thuyết phục, hấp dẫn hơn.
Mở đầu | Xác định và nêu được đúng đối tượng đề bài yêu cầu |
Nội dung | - Miêu tả bao quát đối tượng - Miêu tả cụ thể từng phương diện của đối tượng theo trình tự hợp lý - Giới thiệu được một số nổi bật của đối tượng - Chỉ ra vai trò, ý nghĩa, giá trị của đối tượng |
Cách trình bày và diễn đạt | - Các câu văn, đoạn văn cần có sự liên kết với nhau. - Nội dung viết mạch lạc, rõ ràng, ngắn gọn, súc tích, dễ tiếp cận người đọc. - Lồng ghép yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị luận để làm tăng hiệu quả thuyết minh - Sử dụng các phương tiện phi ngôn ngữ để làm cho bài viết cụ thể, sinh động, người đọc dễ hình dung về đối tượng thuyết minh - Không sử dụng những thuật ngữ chuyên ngành, những từ ngữ địa phương, không sai chính tả, lỗi dùng từ... |
Kết thúc | Tổng kết lại vấn đề, đánh giá chung và nêu cảm nhận về đối tượng. |
Bài viết tham khảo:
Hình ảnh những người lính hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn đã trở nên quen thuộc với mỗi người Việt Nam. Họ là những anh hùng của dân tộc những người không sợ hy sinh để chiến đấu bảo vệ hòa bình cho đất nước. Công lao to lớn ấy mà họ đã trở thành hình tượng cao đẹp cho các văn nghệ sĩ mà Phạm Tiến Duật cũng thế. Gắn liền với tên tuổi của ông là bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
Phạm Tiến Duật sinh năm 1941 mất năm 2007 quê ở huyện Thanh Ba tỉnh Phú Thọ. Năm 1946 ông gia nhập vào quân đội hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Hai hình tượng nổi bật trong thơ của Phạm Tiến Duật là người lính và những cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Thơ của ông có giọng điệu sôi nổi trẻ trung ngang tàn tinh nghịch giàu chất lính.
Bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính được viết vào năm 1969 trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra gay go ác liệt. Bài thơ được in trong tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” của tác giả được tặng giải nhất cuộc thi thơ của báo văn nghệ năm 1969.
Khi phân tích bài thơ ta có thể chia làm 3 phần. Phần thứ nhất gồm hai khổ thơ đầu với nội dung là tư thế hiên ngang ra trận của người lính, phần thứ hai gồm bốn khổ thơ tiếp theo nêu lên tinh thần dũng cảm lạc quan và phần thứ ba là khổ thơ cuối cùng nêu lên ý chí chiến đấu. Bên cạnh đó cũng có thể chia thành hai ý chính để phân tích là hình ảnh những chiếc xe không kính và người lính lái xe Trường Sơn xuyên suốt bài thơ.
Về nội dung qua hình ảnh độc đáo những chiếc xe không kính bài thơ đã khắc họa nổi bật hình ảnh người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kỳ chống Mỹ với tư thế hiên ngang tinh thần lạc quan dũng cảm bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Để xây dựng thành công nội dung cũng không thể không kể đến sự góp mặt của những nét nghệ thuật đặc sắc. đó là thể thơ tự do ngôn ngữ thơ ngang tàn tinh nghịch giàu tính khẩu ngữ tự nhiên khỏe khoắn và việc sử dụng một loạt các biện pháp nghệ thuật như so sánh nhân hóa hoán dụ điệp từ liệt kê đối lập đảo ngữ động từ mạnh và điệp cấu trúc.
Năm tháng dần trôi những công lao to lớn của các anh đã được ghi chép đầy đủ trong kho tàng lịch sử nước nhà cũng như trong thơ ca. Đọc Bài thơ về tiểu đội xe không kính càng khơi dậy trong em niềm tự hào về những vị anh hùng của dân tộc đã hi sinh xương máu của mình đến ngày nay chúng ta có được một cuộc sống yên bình và tươi đẹp.
Bảng 1: Văn bản thuyết minh về một đối tượng hoặc quy trình hoạt động có lồng ghép một hay nhiều yếu tố như miêu tả, tự sự, biểu cảm, nghị luận và báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên hoặc xã hội
So sánh | Văn bản thuyết minh về một đối tượng hoặc quy trình hoạt động có lồng ghép một hay nhiều yếu tố như miêu tả, tự sự, biểu cảm, nghị luận | Báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên hoặc xã hội |
Điểm tương đồng | Đều phải giới thiệu được đối tượng, vấn đề và dùng ngôn ngữ chính xác, sử dụng hợp lí hiệu quả các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ và diễn đạt rõ ràng, trong sáng, khách quan. | |
Điểm khác biệt | - Miêu tả đối tượng/quy trình và trình bày phương diện của đối tượng/quy trình. - Tập trung giới thiệu một vài điểm đặc sắc và làm rõ vai trò, giá trị, ý nghĩa của đối tượng, quy trình. | - Tóm tắt nội dung và có từ khóa, cơ sở lý thuyết và kết quả nghiên cứu và tài liệu tham khảo. - Các đề mục được trình bày dựa trên quá trình nghiên cứu và nêu được lý do chọn đề tài, nhiệm vụ, mục đích và phạm vi nghiên cứu |
Bảng 2: Báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên hoặc xã hội và văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội
So sánh | Báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên hoặc xã hội | Văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội |
Điểm tương đồng | Đều phải giới thiệu được đối tượng, vấn đề và dùng ngôn ngữ chính xác, sử dụng hợp lí hiệu quả các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ và diễn đạt rõ ràng, trong sáng, khách quan. | |
Điểm khác biệt | - Giải thích vấn đề cần bàn luận và trình bày được hệ thống luận điểm quan điểm của người viết. - Lập luận đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng đầy đủ, khách quan, chính xác để làm rõ những luận điểm đã nêu. - Đưa ra một số ý kiến trái chiều và làm rõ những ý kiến → Làm nổi bật hơn sự đúng đắn của những luận điểm đã đưa ra. | - Tóm tắt nội dung và có từ khóa, cơ sở lý thuyết và kết quả nghiên cứu và tài liệu tham khảo. - Các đề mục được trình bày dựa trên quá trình nghiên cứu và nêu được lý do chọn đề tài, nhiệm vụ, mục đích và phạm vi nghiên cứu |
Tham khảo
Nếu nói bánh Chưng là biểu trưng cho ngày Tết miền Bắc thì bánh Tét chính là linh hồn Tết của miền Nam. Mặc dù ở mỗi địa phương lại có loại bánh Tét khác nhau nhưng nhìn chung bánh Tét Nam Bộ đều chung một khuôn mẫu, chung một quy trình cách thức và đều mang ý nghĩa sâu sắc.
Bàn về nguồn gốc của bánh Tét, có rất nhiều những thông tin khác nhau được đưa ra. Có nghiên cứu chỉ ra rằng nguồn gốc bánh Tét là từ sự giao lưu văn hóa Việt - Chăm-pa, cũng có truyền thuyết nói rằng bánh Tét có từ thời vua Quang Trung Nguyễn Huệ đánh quân Thanh. Khi vua cho quân nghỉ chân ăn Tết năm 1789, vua thấy anh lính mang mời một món bánh rất ngon liền ra lệnh mọi người gói bánh này ăn Tết, đặt tên là bánh Tết, lâu ngày tên bánh chuyển thành bánh Tét.
Bánh Chưng có hình vuông tượng trưng cho trời, đất thì bánh Tét có hình trụ dài tượng trưng cho những cột chống trời, đứng giữa trời và đất mở ra không gian cho con người sinh hoạt và lao động sản xuất. Chính vì hình dáng trụ dài này nên bánh Tét còn được gọi với tên thân thuộc là những đòn bánh Tét. Thuở xa xưa khi đời sống còn khó khăn, bánh Chưng hay bánh Tét chỉ được gói vào dịp đặc biệt quan trọng như Tết nguyên đán, ngày nay bánh tét cũng được gói vào dịp này, tuy nhiên cũng có thể gói để bán vào mọi thời điểm trong năm. Mọi người gói bánh vào dịp trước Tết để vào ngày Tết có cặp bánh tét để trên bàn thờ dâng tổ tiên.
Bánh tét được gói bằng là chuối hoặc lá dong với nhân là gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn. Có nhiều loại bánh tét phụ thuộc vào nhân của nó nhưng nhìn chung có hai loại là bánh tét mặn và bánh tét ngọt. Bánh tét mặn nhân thịt còn bánh tét ngọt nhân các loại đỗ đen, đỗ đỏ, hạt điều, làm nên sự phong phú của món ăn này. Từng địa phương ở Nam bộ lại làm ra những món bánh tét mang hương vị khác nhau, mỗi nơi lại cố gắng mang hương vị đặc trưng của địa phương vào chiếc bánh. Điển hình như Bến Tre còn có bánh tét không nhân, bánh chỉ có gạo nếp trộn cũng đậu và nước cốt dừa ăn rất lạ. Trước khi gói bánh cần có khâu chuẩn bị nguyên liệu: rửa sạch lá dong, ngâm gạo, vo rửa gạo và đậu xanh thật kỹ, thái và ướp thịt hoặc chuẩn bị các loại nhân. Nguyên liệu phải hoàn toàn tự nhiên và tươi ngon nhất, màu xanh của gạo có được nhờ trộn với nước lá rau ngót hoặc lá dứa, gạo nếp thơm dẻo có độ xốp nhất định. Một chiếc bánh tét được xem là gói khéo nhất khi bánh tròn đều, lạt buộc chắc tay và khi cắt ra nhân bánh có hình tam giác.
Quá trình luộc bánh rất quan trọng, nó quyết định đến độ thơm ngon, dẻo đẹp và bắt mắt của chiếc bánh. Bánh sau khi gói xong được dựng thẳng đứng vào trong nồi, đổ ngập nước và luộc sôi trong 6 đến 8 tiếng tùy vào số lượng và kích thước của bánh. Lúc vớt bánh ra người ta thường đem bánh rửa trong nước lạnh để bánh sạch sẽ không bị mốc, nước lạnh giúp bánh cứng chắc và giữ dáng hơn. Khi thưởng thức bánh tét, cách ngon nhất là dùng lạt để cắt, một tay cầm bánh, một tay cầm đầu dây lạt, một đầu dùng răng cắn rồi nhẹ nhàng kéo để cắt ra một khoanh bánh tét. Ăn đến đâu sẽ lột vỏ và cắt bánh đến đó, như vậy sẽ giữ được bánh lâu hơn và bảo quản tốt hơn. Bánh tét có nhiều cách ăn cùng các món ăn khác, thông thường đối với bánh tét mặn sẽ được ăn kèm với các loại dưa hành, dưa kiệu, dưa củ quả còn các loại bánh tét ngọt sẽ được ăn với hoa quả như chuối.
Là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết của người dân Nam bộ, bánh tét mang ý nghĩa nhân sinh cao cả, tượng trưng cho hình ảnh người mẹ bao bọc con cái, lớp vỏ bánh bao quanh lớp nhân bên trong giống như sự đùm bọc, bảo vệ nhau, yêu thương nhau giữa mọi người. Bánh tét làm từ những nguyên liệu xuất phát từ quá trình lao động của con người vì thế nó còn mang ý nghĩa tượng trưng cho đất trời, mùa màng, chăn nuôi, sức lao động của con người. Sự có mặt của bánh tét trong ngày Tết mang đến sự ấm cúng, sum vầy, không khí ấm áp hạnh phúc trong mọi gia đình.
Bánh tét là một món ăn nhưng hơn cả ý nghĩa của một món ăn, nó mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp, nó thể hiện được bản sắc văn hóa, đời sống tình cảm cũng như lối sống của người dân Nam Bộ. Từ những khoanh bánh tét trên mâm cơm ngày Tết người ta gợi ra những câu chuyện, trao nhau những tình cảm và răn dạy nhau nhiều điều trong cuộc sống.
* Bài viết tham khảo:
Tết Trung thu, phải nói đến chiếc bánh nướng, bánh dẻo kì diệu, cũng giống như chiếc bánh chưng trong những ngày Tết Nguyên Đán.
Bánh dẻo có hai phần: Phần áo và phần nhân. Áo bánh phải chọn gạo nếp vàng, vùng Trôi hoặc vùng Bắc Ninh, Bắc Giang. Gạo được rang rồi xay, hoặc giã nhỏ mịn, nhào với nước đường thắng ngan ngát một mùi hương bưởi. Tất cả những công đoạn kể trên đều phải do một bàn tay thợ có “nghề” đã được “hạ sơn” đảm nhiệm. Người thợ không được sai sót một khâu nào. Sai một ly đi một dặm. Lúc ra khuôn, cái bánh hiện rõ những hoa văn chìm nổi của một bông hoa nở 8 cánh hoặc 10 cánh. Khuôn mặt áo bánh dẻo mịn, bánh ngọt đậm, thơm dịu. Phần nhân bánh nhất thiết phải do thợ cả quán xuyến với những khâu quan trọng đầy bí quyết nhà nghề như: rang vừng, ủ vừng, xử lí mứt bí khẩu, mứt sen, hạt dưa, hạnh nhân, ướp nhân, tạo hương cho nhân…
Nhân của bánh dẻo chay tịnh, nặng mùi hương đồng gió nội. Mãi về sau này, người ta mới phá cách cho thêm lạp sườn vào. Nhân bánh nướng được cải tiến với nhiều sáng kiến. Mỗi hiệu bánh đều muốn có phần độc đáo của mình. Vả lại bánh nướng là “em” của bánh dẻo. Nó sinh sau đẻ muộn, mới xuất hiện từ năm 1930 nên lắm trò hơn. Ngoài mứt bí, hạt dưa, nhân bánh nướng còn có thêm cả ruột quả trứng ở giữa hoặc thịt lợn quay, gà quay, lạp sườn…gọi là nhân thập cẩm… Bánh nướng cũng có loại nhân chay bằng đậu xanh mịn, dừa sợi, hạt sen.
Người thợ làm cả cái việc tạo hình trên chiếc bánh. Bánh dẻo, bánh nướng Trung thu nói lên cái tài hoa của người thợ. Ngay cả ở các hiệu lớn của người Hoa trước đây, thợ Việt Nam cũng chiếm 70-90%. Hằng năm, cứ đến gần Tết Trung thu là các hiệu lại rộn rã cho người về các vùng lân cận, đón các phường thợ làm bánh nổi tiếng ra Hà Nội vào mùa. Các chủ hiệu ưu ái họ lắm, mỗi người được chủ hiệu phát một áo choàng trắng, mũ trắng và một đôi guốc mộc. Các cửa hàng lấy làm hãnh diện đã mời được ông Toán làng Bưởi, các ông Ba Thiện xã Cào ở tỉnh Sờn, ông Quế Xuân Tảo Sở, hoặc ông Lý Bắc Ninh.
Tết Trung thu, nhà nào cũng phải có bánh dẻo. Người nghèo cũng cố mua cho con cái một vài cái bánh dẻo. Không có bánh dẻo tức là không có Tết. Người ta làm quà cho ân nhân, khách quý, bạn thân…bằng bánh Trung thu. Chiếc bánh dẻo tròn, gợi hình mặt trăng thể hiện sự tròn đầy, viên mãn.
Yếu tố thuyết minh, miêu tả, tự sự, biểu cảm được sử dụng trong văn bản nghị luận có tác dụng tăng sức thuyết phục cho văn bản nghị luận.
- Thuyết minh trong văn bản nghị luận có tác dụng giải thích, cung cấp những thông tin cơ bản xung quanh một vấn đề, khái niệm, đối tượng nào đó, làm cho việc luận bàn trở nên xác thực.
- Miêu tả được dùng để tái hiện rõ nét, sinh động hơn những đối tượng có liên quan.
- Tự sự đảm nhiệm việc kể câu chuyện làm bằng chứng cho luận điểm mà người viết nêu lên.
- Biểu cảm giúp người viết bộc lộ cảm xúc, tình cảm làm cho văn bản có thêm sức lôi cuốn, thuyết phục.