K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

16 tháng 10 2018

bạn nên lên Wikipedia tìm hiểu nhé ! Chứ nước ta có quá trời vua (mình thích lịch sử triều Trần) lần sao dc hả bạn?

16 tháng 10 2018

Vua triều đại Ngô , Đinh Tiền lê , Hậu lê , trần , nguyễn , .. vì em mới học lớp 5

16 tháng 10 2018

Bạn tham khảo tạm nhé!

http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/tin-tuc-su-kien/item/14701902-.html

21 tháng 10 2018

bạn có thể lên tham khảo ở nick này nha:

https://h.vn để hỏi đáp tốt hơn.

Chúc bạn học giỏi!!!

Triều đại nhà Nguyễn

10/10/2016 by Lịch Sử Việt Nam

Triều đại nhà Nguyễn (1802 – 1945)

Đầu thế kỉ XIX, khi thế giới tư bản đang phát triển cực thịnh với những thể chế chính trị mang tính chất dân chủ hơn thời trung cổ, thì ở Việt Nam, một nhà nước phong kiến đã ra đời. Đây là vương triều cuối cùng trong lịch sử quân chủ chuyên chế Việt Nam – triều đại nhà Nguyễn.

Ra đời trong bối cảnh đặc biệt, nhà Nguyễn đã trải qua rất nhiều biến cố trong khoảng thời gian tồn tại,  mang nhiều thị phi như cầu viện ngoại bang, làm mất nước vào tay Pháp quốc và cũng có nhiều công lao trong việc thống nhất đất nước mở mang lãnh thổ, phát triển kinh tế. Nên khi nhìn nhận về triều đại này cần những đánh giá công tâm, khách quan vai trò của nó trong lịch sử nước Việt

Tựu trung lại, khi nhìn lại sự phát triển của triều đại nhà Nguyễn đến khi sụp đổ, chúng ta có thể thấy hai giai đoạn rõ rệt: giai đoạn độc lập tự chủ và giai đoạn mất quyền tự chủ khi bị đế quốc Pháp xâm lăng áp đặt quyền bảo hộ

Mục Lục [đóng lại]

  • 1 Giai đoạn độc lập tự chủ của nhà Nguyễn (1802 – 1858)
    • 1.1 Vua Gia Long lên ngôi lập ra nhà Nguyễn
    • 1.2 Bộ máy Nhà nước
      • 1.2.1 Tổ chức chính quyền
      • 1.2.2 Phân chia hành chính đất nước
      • 1.2.3 Kỵ húy dưới thời nhà Nguyễn
      • 1.2.4 Quân đội nhà Nguyễn
      • 1.2.5 Chế độ thuế khóa – lao dịch
      • 1.2.6 Luật pháp trong nước
    • 1.3 Ngoại giao
      • 1.3.1 Với các nước láng giềng
      • 1.3.2 Với Tây phương
    • 1.4 Kinh tế
    • 1.5 Văn hóa và giáo dục
    • 1.6 Khoa học, kỹ thuật
    • 1.7 Các phong trào chống triều đình
  • 2 Giai đoạn mất quyền tự chủ
    • 2.1 Cuộc chiến chống Pháp xâm lăng
    • 2.2 Những ngày đầu anh dũng chống trả
    • 2.3 Chính quyền thực dân nửa phong kiến
  • 3 Nhà Nguyễn sụp đổ chấm dứt 143 năm tồn tại
    • 3.1 Di sản để lại
  • 4 Nhận xét về vai trò của nhà Nguyễn
    • 4.1 Nhà Nguyễn có thể canh tân đất nước để giữ chủ quyền không?
    • 4.2 Trách nhiệm của nhà Nguyễn trong vấn đề để mất nước
    • 4.3 Vai trò của nhà Nguyễn trong lịch sử dân tộc 
  • 5 Các vị vua triều đại Nhà Nguyễn
    • 5.1 xem thêm
    • 5.2 Bình Luận

Giai đoạn độc lập tự chủ của nhà Nguyễn (1802 – 1858)

Giai đoạn này kéo dài trong tộng cộng 56 năm bắt đầu từ khi vua Gia Long lên ngôi vào năm 1802 trải qua 4 đời vua. đến năm 1858 thời vua Tự Đức

Vua Gia Long lên ngôi lập ra nhà Nguyễn

Triều Nguyễn đặc biệt ngay từ sự ra đời – hành trình giành lại chính quyền đầy gian truân của Vương tử Nguyễn Phúc Ánh – tức vua Gia Long sau này.

Vua Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh) vị vua sáng lập nên triều đại nhà Nguyễn

Năm 1771, phong trào nông dân Tây Sơn bùng nổ. Đối tượng đầu tiên mà cuộc khởi nghĩa này hướng tới chính là chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong đang bị quyền thần Trương Phúc Loan thao túng. Cả gia tộc chúa Nguyễn phải bỏ mạng, duy chỉ có một người hậu duệ mới 15 tuổi sống sót, chạy ra đảo Thổ Chu năm 1777. Đó chính là Nguyễn Phúc Ánh.

Năm 1778, chàng thiếu niên đã quay về, được tôn làm Đại nguyên súy, Nhiếp quốc chính. Nguyễn Ánh đã tập hợp lực lượng, tái chiếm Gia Định rồi xưng vương năm 1780. Trong sự nghiệp trung hưng dòng họ, Nguyễn Ánh liên tiếp nhận những thất bại trước quân đội Tây Sơn đầy binh hùng, tướng giỏi.

Một trong những thất bại gây ra hệ lụy xấu của Nguyễn Ánh xuất phát từ trận thủy chiến ở sông Ngã Bảy, cửa Cần Giờ năm 1782 với quân Tây Sơn. Dù thuyền của chúa Nguyễn tân tiến và áp đảo, nhưng lại thua trước tài thao lược của Nguyễn Huệ, lòng can đảm của nghĩa quân. Nguyễn Ánh bỏ chạy về Ba Giồng, rồi có khi trốn sang tận rừng Romdoul, Chân Lạp. Nguyễn Nhạc tuy chiếm được Nam bộ nhưng người Hoa ở đây lại ủng hộ Nguyễn Ánh, cộng thêm cái chết của tướng Đô đốc Phạm Ngạn , cùng tình trạng binh lính thương vong nhiều, nên Hoàng đế Trung ương đã hạ lệnh tàn sát Hoa kiều, đốt phá nhà cửa để trả thù, thiệt hại nhất là vùng Cù Lao Phố. Việc này đã cản chân Tây Sơn trong việc truy bắt Nguyễn Ánh, tạo cơ hội cho Nguyễn Ánh quay trở về Giồng Lữ, đoạt được 80 thuyền từ Nguyễn Học, một vị Đô đốc Tây Sơn. Chúa Nguyễn định kéo về giành lại Gia Định nhưng Nguyễn Huệ đã kịp dàn binh và đánh bật Nguyễn Ánh.  Chúa Nguyễn phải chạy trốn ra Phú Quốc, và sai Nguyễn Hữu Thụy sang Xiêm La cầu viện. Tuy nhiên, Xiêm La đã nhân cớ đó để xâm lược Việt Nam, rồi chuốc lấy thất bại nhục nhã trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút (tháng 1 năm 1785). Nguyễn Ánh cũng vì đó mà mang tiếng “cõng rắn cắn gà nhà”.

Vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) kẻ thù không đội trời chung của Nguyễn Ánh

Năm 1792, vua Quang Trung đột nhiên băng hà. Quang Toản  nhỏ dại lên nối ngôi, niên hiệu Cảnh Thịnh. Các sĩ phu Bắc Hà, cựu thần nhà Lê tôn Lê Duy Cận làm minh chủ, kết hợp với Nguyễn Ánh ở Gia Định, cùng tấn công Tây Sơn, tuy liên quân này bại trận nhưng cũng khiến nhà Tây Sơn nhanh chóng suy yếu. Không những thế, triều chính Tây Sơn bị nhũng loạn bởi bàn tay Thái sự Bùi Đắc Tuyên. Nội bộ Tây Sơn cũng rơi vào lục đục, “nồi da xáo thịt”.

Nhân tình hình này, Nguyễn Ánh liên tiếp mở các cuộc phản công. Năm 1793, quân Nguyễn công thành Quy Nhơn của Thái Đức – Nguyễn Nhạc. Chính quyền Quy Nhơn phải cầu cứu Phú Xuân và đã đẩy lùi quân Nguyễn Ánh, nhưng rồi Nguyễn Nhạc cũng qua đời sau đó không lâu.

Trong thế dùng dằng một thời gian, Nguyễn Ánh kéo quân giao chiến dữ dội với Tây Sơn ở cửa Tư Dung; rồi đụng Quang Toản ở cửa Eo, Quang Toản thua trận bỏ chạy ra Bắc và Nguyễn Ánh giành được Phú Xuân (3/5/1801).

Đầu năm 1802, Trần Quang Diệu hạ được thành Quy Nhơn. Tướng Võ Tánh của chúa Nguyễn  tự vẫn để xin tha mạng cho lính tráng. Trần Quang Diệu đồng ý, rồi bỏ thành Quy Nhơn; cùng Vũ Văn Dũng mang quân cứu viện ra Nghệ An, bị quân Nguyễn bắt sống. Bà Bùi Thị Xuân, vợ Trần Quang Diệu giải cứu không được, cũng bị bắt và áp giải.

Cũng trong năm này, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, chính thức khôi phục quyền lực dòng họ, thống nhất đất nước sau nhiều thập kỉ chia cắt. Ông lấy niên hiệu là Gia Long, “Gia trong Gia Định,  “Long” trong Thăng Long. Sau đó Gia Long tổ chức lễ Hiến phù, trả thù Tây Sơn một cách man rợn, như một hành động “đáp lại” những gì mà Tây Sơn đã gây ra cho gia tộc, cũng như năm tháng chui lủi, lưu vong của vị tân vương.

Bộ máy Nhà nước

Tổ chức chính quyền

Sau khi lập ra triều Nguyễn, Gia Long đã xây dựng, kiện toàn hệ thống hành chính cũng như quan chế cho chính quyền mới. Về cơ bản hệ thống quan chế và cơ cấu chính quyền trung ương của triều đại này giống như các triều đại trước đó: Vua vẫn có quyền tối thượng. Có các cơ quan trợ giúp cho vua như có Văn thư phòng (năm 1829 đổi là Nội các), chuyên về giấy tờ, văn thư và ghi chép . Tứ trụ Đại thần, đảm đương những việc quân cơ đại sự, tới năm 1834 gọi là viện Cơ mật. Bên cạnh đó còn có Tông nhân phủ lãnh nhiệm các công việc của Hoàng tộc.

Cơ mật viện này nay là trụ sở của Trung tâm bảo tồn di tích Cố đô Huế

Bên dưới, triều đình lập ra Lục bộ là Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công. Thượng Thư đứng đầu mỗi bộ, có vai trò chỉ đạo các công việc chung của Nhà nước.  Đô sát viện (tức là Ngự sử đài bao gồm 6 khoa) mang trọng trách thanh tra quan lại, Hàn lâm viện phụ trách các sắc dụ, công văn, 5 Tự phụ trách một số sự vụ, phủ Nội vụ trông coi các kho tàng, Quốc tử giám quản lí mảng giáo dục, Thái y viện thực hiện việc chữa bệnh và thuốc thang,… cùng với một số Ti và Cục khác.

Với cơ cấu bộ máy chính quyền như vậy, khi có việc quan trọng, vua sẽ giao cho triều thần cùng nhau bàn xét. Quan lại dù phẩm hàm như nào đều được quyền đưa ra ý kiến. Mọi việc phải có sự chuẩn  của vua mới được thi hành. Hoàng đế tuy ở ngôi vị cao nhất nhưng không được phép làm điều sai trái. Các quan Giám Sát Ngự Sử có quyền can gián khi vua mắc phải sai lầm. Quan chức của triều đình chỉ chạm tới phủ huyện, từ tổng trở xuống do dân tự trị. Người dân tự lựa chọn lấy người của mình mà cử ra quản trị mọi việc ở địa bàn sinh sống. Tổng gồm có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng.

Quan phục thời nhà Nguyễn quan văn bên trái, quan võ bên phải

Quan lại được phân ra  ban văn, ban võ. Minh Mạng đã xác định rõ rệt giai chế phẩm trật từ cửu phẩm tới nhất phẩm, mỗi phẩm chia ra chánh và tòng 2 bậc. Lúc đất nước ổn định quan võ phải dưới quan văn cùng phẩm với mình; còn khi có binh biến thì ngược lại. Quan Tổng đốc (văn) vừa cai trị tỉnh vừa chỉ huy quân lính của tỉnh. Lương bổng của quan lại tương đối ít nhưng họ được hưởng nhiều phúc lợi, phụ thân không phải đi lính, miễn sưu thuế dựa theo ngạch (văn/võ), và phẩm hàm. Không những vậy, con cái các quan còn được hưởng tập ấm, tức là hưởng phúc cha ông để lại, có thể là được bạn đất đai, chức quan.  Bộ máy quan lại không quá nặng nề, nhưng nhà Nguyễn vẫn đau đầu bởi nạn tham nhũng.

Phân chia hành chính đất nước

Năm 1802, trong khi đã quyết định Phú Xuân là quốc đô, Nguyễn Ánh vẫn tạm đặt 11 trấn phía Bắc (tương đương khu vực Bắc Bộ ngày nay) thành một Tổng trấn với tên cũ Bắc Thành, do một Tổng trấn đứng đầu.

Kinh thành Huế ngày nay

Đến thời Minh Mạng,không thể bỏ sót cuộc cải cách hành chính của ông trong các năm từ 1831 đến1832. Vua quy đổi các tổng trấn, các dinh, trấn hợp nhất trong đơn vị  tỉnh. Năm 1831, Minh Mạng đổi các trấn từ Quảng Trị trở ra thành 18 tỉnh, và vùng còn lại ở phía Nam được chia làm 12 tỉnh. Thừa Thiên, thủ phủ của kinh đô Phú Xuân, trực thuộc Trung ương. Toàn quốc bao gồm 30 tỉnh và phủ Thừa Thiên.

Tổng đốc đứng đầu tỉnh (mỗi người phụ trách 2-3 tỉnh và chuyên trách 1 tỉnh) và Tuần phủ (dưới Tổng đốc, phụ trách chỉ 1 tỉnh). Có các cơ quan hỗ trợ như Bố chánh sứ ti lo về thuế khóa, hộ khẩu, hành chính; Án sát sứ ti lo về an ninh, lu...

2. 

Nhà Lý dời đô về Thăng Long vì:

- Kinh đô Hoa Lư với địa thế hiểm trở, thích hợp trong thời chiến và khi thế lực quốc gia còn yếu.

- Nay, khi đất nước đã thái bình, yêu cầu đặt ra là phải lựa chọn một nơi có địa thế thích hợp nhất để làm căn cứ đóng đô, ổn định về kinh trị làm cơ sở để phát triển kinh tế, đưa đất nước đi lên.

- Thăng Long là nơi có vị trí thích hợp nhất “xem khắp đất Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương. Đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời”.

=> Vì vậy, năm 1010, Lý Công Uẩn quyết định rời đô về Đại La (nay là Hà Nội), đổi tên thành Thăng Long (có nghĩa là rồng bay lên)

22 tháng 11 2019

Câu 1 :

Đinh Tiên Hoàng đã có những công lao lớn là :

- Dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhât đất nước

- Người đặt nền móng sáng lập Nhà nước Đại cồ Việt

16 tháng 10 2018

-Trong trận đánh của triều đại nhà ngô, Đinh Tiền Lê, Lý, em thích nhất là trận chiến trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền

a, Nguyên nhân

-Năm 938, quân Nam Hán xâm lược nước ta lần thứ 2.

b, Diễn biến

-Cuối năm 938, đoàn thuyền chiến của quân Nam Hán do Lưu Hoằng Tháo chỉ huy đã tiến vào vùng biển nước ta.

-Ngô Quyền đã cho một đoàn thuyền nhẹ ra khiêu chiến, nhử địch, tiển sâu vào bãi cọc ngầm.

-Nước triều rút, Ngô Quyền dốc toàn lực lượng, đánh quật trở lại

c, Kết Quả

-Trận chiến trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền kết thúc hoàn toàn thắng lợi

d, Ý nghĩa

-Kết thúc hơn 1000 năm phong kiếm phương Bắc đô hộ, khẳng định lền đọc lập lâu dài của tổ quốc.

k cho mik nha. Chúc bạn học tốt!

16 tháng 4 2018

Đánh giá công lao của Quang Trung đối với sự nghiệp giữ nước chống ngoại xâm và xây dựng đất nước.
- Lật đổ chính quyền Trịnh – Nguyễn, thống nhất đất nước.
- Đánh tan quân xâm lược Xiêm - Thanh
- Viết tiếp trang sử vẻ vang về ý chí tự cường, chống ngoại xâm của dân tộc.
- Phục hồi kinh tế đất nước, ổn định trật tự xã hội, phát triển nền văn hóa dân tộc, tăng cường quốc phòng và ngoại giao bảo vệ đất nước....

16 tháng 4 2018

Là người góp công chính trong việc đánh đổ các thế lực phong kiến thống trị: Nguyễn, Trịnh, Lê.

- Đánh tan cuộc xâm lược của quân Xiêm ở Gia Định.

- Đánh tan cuộc xâm lược của 29 vạn quân Thanh, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.

- Góp phần tạo điều kiện cơ bản cho việc thống nhất lại đất nước sau gần 200 năm bị chia cắt.

- Đề ra những chính sách tiến bộ về kinh tế, văn hoá, giáo dục….

15 tháng 10 2018

Em thích trận đánh ở triều đại nhà Ngô. (trận chiến Bạch Đằng giang)

nguyên nhân: năm 931, Dương Đình Nghệ đánh đuổi quân Nam Hán, giành lại quyền từ chủ cho người Việt ở Tĩnh hải quân,từ xưng là Tiết độ sứ. Năm 937, Đình Nghệ bị nha tướng Kiều Công Tiễn giết hạ để cướp ngôi Tiết độ sứ. Con rể và một tướng khác của Đình Nghệ là Ngô Quyền bèn tập hợp lực lượng ra đánh Công Tiễn để trị tội phản chủ.Kiều Công Tiễn sợ hãi bèn sang cầu cứu nhà Nam Hán. Vua Nam Hán là Lưu Nghiễm nhân cơ hội đó bèn quyết định đánh Tĩnh hải quân lần thứ 2.Lưu Nghiễm cho rằng Dương Đình Nghệ qua đời thì Tĩnh hải quân không còn tướng giỏi,bèn phong con trai thứ chín là Lưu Hoằng Tháo làm "Bình Hải tướng quân" và "Giao chỉ vương" thống lĩnh thủy quân cuộc chiến từ đây mà bắt đầu.

Diễn biến:Vào một ngày cuối mùa đông năm 938,trên sông Bạch Đằng, vùng cửa biển và hạ lưu, cả một đoàn binh thuyền do Hoằng Tháo chỉ huy vừa vượt biển tiến vào cửa ngõ Bạch Đằng. Quân Nam Hán thấy quân Ngô Quyền chỉ có thuyền nhẹ, quân ít tưởng có thể ăn tươi nuốt sống liền hùng hổ tiến vào.Ngô Quyền ra lệnh cho quân bỏ chạy lên thượng lưu,quân Nam Hán đuổi theo.Đợi đến khi thủy triều xuống,ông mới hạ lệnh cho quân sĩ đổ ra đánh.Thuyền chiến lớn của Nam Hán bị mắc cạn và lần lượt bị cọc đâm thủng gần hết.Lúc đó Ngô Quyền mới tung quân ra tấn công dữ dội.

Kết quả:Quân ta thắng lớn

Ý nghĩa:Đánh dấu sự chấm dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc của Việt Nam,nối lại quốc thống cho dân tộc.

HOK TỐT

9 tháng 9 2019

ko đăng  linh tinh nha bạn