Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham Khảo:
Tâm trạng buồn thương da diết của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích được diễn tả vô cùng xúc động qua tám câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Đoạn thơ là một đoạn tuyệt bút “tả cảnh ngụ tình” của thiên tài Nguyễn Du. Tám câu thơ với điệp ngữ “buồn trông” lặp đi lặp lại như một khúc hát buồn về cuộc đời cô gái họ Vương. Mỗi câu thơ là một âm hưởng, một giai điệu thấm đẫm tâm trạng nàng Kiều và mở ra một bức tranh tứ bình mới mẻ. Cảnh vật trong buổi chiều hôm “thấp thoáng cánh buồm xa xa” như vời vợi một nỗi nhớ cha mẹ, nhớ quê nhà. Kiều một mình “thui thủi quê người một thân” sao cho khỏi nỗi nhớ ấy. Cuộc đời Kiều như cánh hoa mỏng manh “man mác” giữa dòng cuốn cuộc đời, “ngọn nước mới sa” như mang bao nỗi niềm về thân phận bấp bênh, chìm nổi của người con gái trong xã hội xưa. Nơi “nội cỏ rầu rầu” kia xanh xanh mà sao cũng u buồn thế, đúng là “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Có thế ta mới hiểu, mới phục cái tài tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du đã đạt đến mức tuyệt bút. “Chân mây mặt đất một màu xanh xanh” gợi cho Kiều nỗi buồn chán, tủi thân về cuộc đời, lòng người lạnh lùng, vô vị. Ở cảnh cuối, thiên nhiên hiện lên thật dữ dội. Chung quanh Kiều là tiếng sóng như đang kêu gào, làm Kiều cảm thấy hãi hùng trước bão táp cuộc đời sắp ập đến. Câu thơ như một lời dự báo trước về cuộc đời đầy sóng gió, đố kị, ghen ghét, bon chen của nàng. Nàng như một cánh hoa bé nhỏ trôi giữa dòng nước rồi “biết là về đâu?”. Bốn cảnh, bốn bức tranh tứ bình được miêu tả theo trình tự từ xa đến gần, hình ảnh và màu sắc từ màu nhạt đến rõ nét, đậm đà, âm thanh từ tĩnh sang động, buồn man mác đến kinh sợ, hãi hùng. Biện pháp tả cảnh ngụ tình thấm đẫm trong từng cảnh vật. Qua đó ta thấy tài năng và lòng nhân ái, cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du lớn biết nhường nào.
Tham khảo:
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn trích lột tả sâu sắc tâm trạng của Thúy Kiều khi phải xa lầu Ngưng Bích lạnh lẽo. Đó là một tâm trạng đau đớn khi gia đình lâm biến, nỗi xót xa khi tình đôi lứa chia lìa và bản thân nàng từ chỗ một tiểu thư xinh đẹp khuê các phải sa chân vào chốn thanh lâu nhơ nhuốc. Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, tác giả Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng rất nhiều bút pháp điêu luyện nhưng nổi bật lên là tả cảnh, ẩn tình, lấy cảnh vật để nói lên nỗi lòng của con người, người và cảnh vì thế mà tâm đầu ý hợp hòa quyện vào nhau. “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh được vẽ lên với những màu sắc xám lạnh, gợi tả tâm trạng vô cùng sống động, nhưng nó cũng nhiều thê lương ai oán. Cảnh và người trong đoạn trích như hòa vào làm một nó thể hiện sự cô đơn, bẽ bàng, buồn tủi của Thúy Kiều trong cảnh đời éo le của mình, nhưng nó cũng thể hiện sự hiếu thuận, sắc son của Kiều đối với cha mẹ và Kim Trọng dù trong biến cố nhưng trong lòng Thúy Kiều vẫn luôn hướng về những người yêu thương.
Truyện Kiều là kiệt tác của văn học Việt Nam và văn học thế giới. Bao nhiêu tinh hoa của tư tưởng dân tộc đều qui tụ vào kiệt tác này. Thế nhưng do truyện Kiều được sáng tác dựa theo Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân nên phần nào là phần sáng tạo của Nguyễn Du, phần nào là phần vay mượn cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau.
Trong giới hạn bài này, chúng tôi sẽ so sánh đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích” giữa Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, góp phần làm sáng tỏ vấn đề trên.
Trước hết cần xác định ngay, mục đích của văn học so sánh là tìm sự giống và khác giữa các tác giả, các tác phẩm văn học, các trào lưu văn học, các dòng văn học và các giai đoạn văn học, chứ không phải truy tìm sự hơn kém. Các công trình nghiên cứu theo phương pháp so sánh từ trước đến nay vì không xác định mục đích so sánh nên dẫn đến tình trạng là so sánh để thấy được sự hơn kém mà không phải là tìm sự giống và khác. Kiểu so sánh này thường là hạ thấp tác phẩm Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và ca ngợi Truyện Kiều của Nguyễn Du. Chúng ta có thể thấy điều này ở Vũ Hạnh trong Đọc Lại Truyện Kiều, Lê Đình Kỵ trong Truyện Kiều và Chủ Nghĩa Hiện Thực của Nguyễn Du, Phan Ngọc trong Tìm Hiểu Phong Cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, các công trình nghiên cứu của Đặng Thanh Lê, Trọng Lai, Nguyễn Trung Hiếu . . . Còn Nguyễn Hữu Sơn trong Truyện Kiều của Nguyễn Du trong Sự So Sánh với Truyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân thì cho rằng, nhiều cái chúng ta cho là của Nguyễn Du thì đều đã có đầy đủ trong Truyện Kim Vân Kiều.
Theo Nguyễn Văn Dân, so sánh như vậy là chủ quan, kì thị và bất ổn. Do đó, hướng so sánh của bài này sẽ theo đúng mục đích của văn học so sánh, tìm ra phần nào là phần Nguyễn Du vay mượn của Thanh Tâm Tài Nhân, phần nào là sáng tạo của ông.
Như chúng ta đã biết, mối quan hệ tương giao giữa Truyện Kiều và Kim Vân Kiều Truyện là mốiquan hệ giao lưu ảnh hưởng. Theo giáo sư Thạch Giang thì trong 214 trang của Kim Vân Kiều Truyện thì Nguyễn Du đã loại bỏ 142 trang. Ông chỉ sử dụng có 72 trang để viết nên nên 1.313 câu trong tổng số 3.256 câu Truyện Kiều. 1.914 câu còn lại là sáng tạo của Nguyễn Du.
Vậy Nguyễn Du vay mượn gì ở Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và đã có những sáng tạo gì?
Thứ nhất, Nguyễn Du lấy toàn bộ cốt truyện, hệ thống nhân vật, tên nhân vật của Kim Vân Kiều Truyện. Điều đó cho thấy cốt truyện của Kim Vân Kiều phải thú vị như thế nào đó Nguyễn Du mới lấy cốt truyện này để sáng tạo tác phẩm cho mình. Hơn nữa, mỗi nhân vật trong Kim Vân Kiều Truyện đều có cá tính riêng nên Nguyễn Du mới giữ nguyên hệ thống nhân vật này trong tác phẩm của mình.
Thứ hai, về tư tưởng, Nguyễn Du đã tiếp thu thuyết tài mệnh tương đố của Kim Vân KiềuTruyện. Tuy nhiên, ông đã phát triển mở rộng thêm và có những đề xuất mới cho thuyết này. Ta hãy đọc và suy ngẫm mấy vần thơ sau đây trong Truyện Kiều sẽ thấy rõ điều ấy: Cũng liều nhắm mắt đưa chân / mà xem con tạo xoay vần đến đâu! / Kiếp xưa đã vụng đường tu / kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi! Rõ ràng, Nguyễn Du đã đưa thêm thuyết Nghiệp của Phật giáo vào để bổ sung cho thuyết Tài mệnh tương đố. Bởi nếu chỉ y cứ vào thuyết Tài mệnh tương đố, nỗi đoạn trường thống khổ của con người sẽ không thể giải quyết. Tất cả nỗi khổ niềm đau của con người đều do chính Tâm họ gây ra thì bây giờ cũng chính Tâm này tiêu diệt nó đi, không thể nhờ một thế lực bên ngoài nào khác tiêu diệt giúp được.
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Hơn nữa, tư tưởng định mệnh không phải là tư tưởng chính, xuyên suốt của Kim Vân Kiều Truyện. Kiều trong Kim Vân Kiều truyện là chủ động. Kiều trong Truyện Kiều là thụ động. Nguyễn Du đã để cho mọi chuyện đến với Kiều một cách ngẫu nhiên.
Thứ ba, về tinh thần nhân đạo, Kim Vân Kiều Truyện ra đời trong bối cảnh xã hội đầy bất công, tăm tối đối với con người. Nguyễn Du đã kế thừa tinh thần này.
Ba điều trên là nguồn tư liệu để cho Nguyễn Du sáng tạo nên tác phẩm của mình. Chúng ta thấy, Nguyễn Du có kế thừa và có sáng tạo. Nhưng sáng tạo của Nguyễn Du mới là điểm chính yếu làm nên giá trị Truyện Kiều.
Về thể loại truyện, Truyện Kiều của Nguyễn Du là đối lập với Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Nguyễn Du dùng thể thơ truyền thống của dân tộc là Lục bát để viết Truyện Kiều.Thanh Tâm tài Nhân dùng văn xuôi để viết Kim Vân Kiều Truyện.
Kiều của Nguyễn Du khác Kiều của thanh tâm tài Nhân. Nguyễn Du xây dựng nhân vật Kiều theo tinh thần sáng tạo của ông. Kiều mang định mệnh, mang thân phận của người dân Việt Nam, của phụ nữ Việt Nam trong một thời đại xã hội có nhiều biến động, đã đưa người phụ nữ tài sắc như Kiều phải: “Thanh y hai lượt thanh lâu hai lần”; đồng thời xã hội ấy buộc con người phải chừa bỏ cả sự trong trắng của mình: “Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa”. Và như vậy, phần nào đó, Kiều mang tâm sự của chính Nguyễn Du.
Vậy dù có vay mượn, kế thừa của Thanh Tâm Tài Nhân nhưng trong qúa trình xây dựng tác phẩm, Nguyễn Du có những sáng tạo nghệ thuật độc lập.
Ngoài ra, Nguyễn Du còn vay mượn rất nhiều yếu tố trong văn học cổ Việt Nam, văn học dân gian (ca dao, dân ca, tục ngữ, lời ăn tiếng nói hàng ngày . . .), tư tưởng dân tộc Việt Nam (Phật, Nho, Lão), văn chương Trung Hoa và đặc biệt là vốn sống của chính ông khi viết truyện Kiều. Và đây mới là phần cốt yếu làm nên thiên tài Nguyễn Du và làm nên kiệt tác Truyện Kiều.
Trong đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, Thanh Tâm Tài Nhân trước nhất miêu tả về thiên nhiên quanh lầu: Ngôi lầu này từ phía đông trông ra biển xanh, phía bắc nhìn lên Kinh kỳ, phía nam ngó lại Kim Lăng, phía tây trông ra dãy núi Kỳ Sơn.
Nguyễn Du đã giữ nguyên nội dung miêu tả thiên nhiên này trong Truyện Kiều:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bùi hồng dặm kia.
Điểm khác ở đây là, Nguyễn Du đã vận dụng ngữ pháp tiếng Việt để tạo nên những vần thơ tả cảnh đặc sắc. Hình ảnh trong những câu thơ trên rất đẹp. Có tương phản: xa-gần, cát vàng- bụi hồng, cồn nọ- dặm kia và có kết hợp: ở chung. Có động: cát- bụi và có tĩnh: non- trăng. Cái hay của Đoạn thơ còn thể hiện ở cách ngắt nhịp. Thay vì ngắt ở chữ thứ tư ở những câu tám thông thường trong Lục bát (ví dụ: cát vàng cồn nọ/ bụi hồng dặm kia) thì nhịp được ngắt ở chữ thứ ba và thứ sáu: Vẻ non xa/ tấm trăng gần / ở chung. Hơi thơ, vì vậy, khác thường, không đều đều một điệu.
Tâm trạng của Kiều khi ở lầu Ngưng Bích trong Kim Vân Kiều Truyện là buồn bã, nhớ người yêu. Truyện Kiều của nguyễn Du cũng giữ nguyên nội dung này. Nhưng trong truyện Kiều, ngoài nhớ người yêu, Kiều còn nhớ đến cha mẹ. Điểm khác nữa là Nguyễn Du đã bỏ mười bài Chẳng cùng nhau và bài thơ của Kiều. Cái buồn của Kiều chỉ được Thanh Tâm Tài Nhân miêu tả đại lược bằng mấy dòng: Thúy Kiều đối cảnh buồn bã, nhớ lại cái ngày cùng chàng Kim trao lời thề thốt, thân thiết biết chừng nào, mà nay vắng bặt tăm hơi, thê lương biết là dường nào. Cái buồn của Kiều qua những câu thơ Nguyễn Du thì thật là sắt se, thấm thía thể hiện qua sự lập lại bốn lần của từ buồn trông. Tâm người ngắm cảnh tràn vào cảnh, khoác lên cảnh cái sắc thái xa xa, man mác, dàu dàu, bàng bạc trong những câu thơ tài tình:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu.
Buồn trông nội cỏ dàu dàu
Chân mây mặt đất một màu xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi.
Đoạn Kiều bị Sở Khanh lừa, Nguyễn Du giữ nguyên ý của Thanh Tâm Tài nhân nhưng ông lược bỏ bớt một số chi tiết không quan trọng. Tối đó, trước khi Sở Khanh đến cùng Kiều thì Tú Bà lên lầu chuốt rượu mời Kiều đến khuya và chi tiết Kiều cùng Sở Khanh lên giường chung giấc mộng Vu Sơn Nguyễn Du đã lược bỏ đi. Nội dung bức thư Kiều gởi cho Sở Khanh và những lời thề thốt Nguyễn Du cũng lược bỏ.
Sau khi Kiều cùng Sở Khanh bỏ trốn, trong Kim Vân Kiền Truyện, lúc Tú Bà đuổi kịp thì lại quát mắng om sòm, chửi Kiều một trận rồi mới áp giải về nhà đánh đập. Còn trong Truyện Kiều thì khi Tú Bà bắt được Kiều liền áp điệu một hơi lại nhà:
Một đoàn đổ đến trước sau,
Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời
Tú Bà tốc thẳng đến nơi,
Hăm hăm áp điệu một hơi lại nhà.
So đoạn này của Kim Vân Kiều Truyện với Truyện Kiều thì Kim Vân Kiều Truyện do thể loại văn xuôi của nó nên dài dòng, tỉ mỉ, nhiều khi sự tỉ mỉ đó không góp phần gì vào việc làm rõ tính cách nhân vật. Còn Nguyễn Du, ông có những câu thơ thật hàm súc nhưng vẫn chuyên chở được tất cả những gì ông cần nói. Những chi tiết ông lược bỏ không gây phương hại gì đến nội dung cần diễn đạt và tính cách nhân vật. Theo giáo sư Thạch Giang, “điều này có một ý nghĩa rất hay là một mặt làm cho ta không phải khó chịu vì cái lối sính thơ của nhân vật, mà trái lại dẫn ta vào một địa hạt mông lung về cái ‘tài’ và cái ‘tình’ của nhân vật, đặt biệt là Thúy Kiều. Do đó, ấn tượng về cái mà Mộng Liên Đường chủ nhân gọi là ‘cái thông lụy’ xưa nay của kẻ giai nhân tài tử nên xót xa, đánh thức ở ta những biểu tượng về lí tưởng, làm cho ta khao khát mọi cái gì đẹp hơn, làm cho ta bất bình đến phát khóc với cái gì đã phũ phàng lên cái ‘tài’; cái ‘tình’ của con người.”
Hơn nữa, cũng theo giáo sư Thạch Giang, bỏ tất cả những bài thơ, những lời thề thốt là, Nguyễn Du muốn vượt lên cách kết cấu thường thấy của các truyện Nôm ta xưa mà xây dựng cho mình một phong cách độc đáo hơn, hoàn thiện hơn về kết cấu, bố cục.
Để sáng tỏ thêm, ta xét chi tiết Kiều thảo thư gởi Sở Khanh và Sở Khanh phúc đáp. Thanh Tâm Tài Nhân tả là Kiều viết thư xong định ném qua cửa sổ nhưng không tiện. Đang ngần ngại ra ngoài dạo chơi thì gặp chú bé nhà Sở Khanh đi gánh nước. Kiều bèn nhờ nó gởi giúp thư. Hôm sau thì có thư phúc đáp. Trong thư chỉ đề hai chữ Tích Việt. Kiều ngẫm nghĩ hồi lâu thì biết là giờ Tuất, ngày hai mươi mốt sẽ gặp. Đại ý là như vậy. Nhưng Thanh Tâm Tài Nhân Viết khoảng một trang sách. Nguyễn Du chỉ có 11 câu thơ là đủ, không thừa, không thiếu:
Mảnh tiên kể hết xa gần
Nỗi nhà báo đáp, nỗi thân lạc loài.
Tan sương vừa rạng ngày mai,
Tiện hồng nàng mới nhắn lời gởi sang.
Trời tây lãng đãng bóng vàng
Phục thư đã thấy tin chàng đến nơi.
Mở xem một bức tiên mai,
Rành rành TÍCH VIỆT có hai chữ đề.
Lấy trong ý tứ mà suy:
“Ngày hai mươi mốt, tuất thì phải chăng?”
Tất nhiên, đây không phải là chê Thanh Tâm Tài Nhân, khen Nguyễn Du mà so sánh như vậy để thấy sự khác nhau giữa hai thể loại thơ và văn xuôi. Đồng thời cũng thấy được cái tài của Nguyễn Du là, ông có thể thâu tóm sự việc trong một số câu thơ hàm súc và đồng thời nêu bật được tính cách nhân vật như trên đã thấy.
Trong Kim Vân Kiều truyện, lúc Sở Khanh bỏ trốn còn một mình Thúy Kiều, Thanh Tâm Tài Nhân chỉ thuần thuật lại sự việc, không nói lên nỗi niềm chia sẻ của mình đối với người con gái đêm khuya một mình trong rừng, sau lưng có một đoàn người đuổi theo. Còn Nguyễn Du, ông đau xót cho Kiều:
Hóa nhi thật có nỡ lòng,
Làm chi giày tía vò hồng lắm nau!
Đặc biệt trong đoạn này, Nguyễn Du có hai câu thơ rất hay chứng minh cho sự phát triển tư tưởng tài mệnh tương đố của ông:
Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Mà xem con tạo xoay vần đến đâu.
Hai câu này thực ra là một lời cảnh cáo. Không bao giờ nên làm một cái gì mà mình chưa suy nghĩ kỹ càng. Phải đem hết tất cả trí tuệ của mình mà quan sát. Chỉ khi nào thấy rằng giải pháp đó là hay nhất, không có con đường nào bằng thì mình mới làm mà thôi. Trông vào may rủi là không nên.
Lọt trở lại vào tay Tú Bà, Kiều bị đánh một trận tơi bời chỉ vì tội đi trốn. Về nội dung đoạn này, Kim Vân Kiều Truyện và Truyện Kiều là giống nhau. Có điều, cũng như đoạn trên, Nguyễn Du lược bớt một số chi tiết không cần thiết.
Về sự chua xót, đau đớn của Kiều khi bị Tú Bà hành hạ đánh đập thì những câu thơ của Nguyễn Du lột tả được cái vẻ tàn khốc, chua chát rất nhiều:
Thân lươn bao quản lấm đầu
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa
Đây là hai câu thơ cay đắng, chua xót và đau đớn nhất trong Truyện Kiều. Chừa những thói hư tật xấu như tham lam, nóng nảy, kiêu kăng thì goị là chừa. Nhưng lòng trinh bạch mà phải chừa thì là một bản án rất lớn của số phận đè lên con người. Đó là bi kịch lớn của loài người. Tất cả những độc giả lớn của Nguyễn Du khi đọc đến câu này đều phẫn uất. Phẫn uất cho người, phẫn uất cho xã hội. Một xã hội mà trong đó cô thiếu nữ phải hứa là sẽ chừa đi cái trong sạch và trinh trắng của mình!
Đây chính là điểm sáng tạo độc đáo của Nguyễn Du. Và đây cũng chính là chỗ ông khác với Thanh Tâm Tài Nhân.
Từ việc thuật lại sự đánh đập dã man của Tú Bà đối với Kiều củaThanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du đã nâng nó lên thành một bản án tố cáo xã hội gay gắt.
Sau trận đòn chí tử, Kiều thân thể rã rời và sốt cao. Tú Bà vào thăm và khuyên Kiều uống thuốc. Lành bịnh rồi muốn ở làm ăn thì sẽ biệt đãi còn không muốn thì sẽ tìm chỗ nào đó bán đi. Lúc đó, Kiều trả lời: bình đã vỡ rồi, đi với người chi bằng ở với người cũ. Từ nay con xin theo mẹ làm ăn.Ở đây không có sự than trách, cũng không phải sẵn sàng chấp nhận thực tại mà đánh liều: Đã ra nông nỗi này thì biết làm sao bây giờ!
Với Nguyễn Du thì việc tiếp tục ở lại làm việc cho Tú Bà là có lí do. Kiều đặt câu hỏi có phải sanh ra kiếp hồng nhan ở cõi trần này là khổ mãi hay không? “Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru?”Rồi nàng tự trả lời không phải thế. Sở dĩ bây giờ mình đau khổ là vì:
Kiếp xưa đã vụng đường tu,
Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi!
Bây giờ mình đau khổ như thế này là vì kiếp trước mình đã không vun bồi đức hạnh, trí tuệ. Vì vậy, đừng than thở nữa, hãy sửa đổi những lỗi lầm trong qúa khứ. Ở đây Kiều nghĩ rằng mình phải chấp nhận tiếp khách để trả cái nợ mình đã mắc trong tiền kiếp.
Tại đây ta thấy có sự khác nhau giữa tư tưởng Nguyễn Du và Thanh Tâm Tài Nhân. Thanh Tâm Tài Nhân thì dường như cho mọi việc xảy ra theo quyết định tức thời. Còn Nguyên Du thì thấy có nhân có quả.
Qua phân tích đoạn trích trên giữa hai tác phẩm Kim Vân Kiều Truyện và Truyện Kiều, chúng ta thấy quan niệm so sánh để tìm sự hơn kém là cực đoan.
Cho rằng vay mượn là tất cả là duy nhất là một cực đoan. Vay mượn là điều tất nhiên và cần thiết nhưng không phải là tất cà và duy nhất. Trên thế giới, những kiệt tác hay nhất thường bắt nguồn từ một cốt truyện trước nó làm chất liệu để sáng tác nên những kiệt tác mới. Vay mượn không những diễn ra trong nội bộ của văn học dân tộc mà cả văn học thế giới như Hamlet, Othello của Shakespeare, Faust của Goethe, Truyện Kiều của Nguyên Du . . . Ở đây, rõ ràng tài hoa của người nghệ sĩ mới là quan trọng. Có chất liệu tốt mà đưa cho một bàn tay vụng về thì cũng trở nên vô dụng. Ngược lại, một chất liệu bình thường qua một bàn tay tài hoa thì thành ra món đồ qúy giá vô cùng. Song cũng có những kiệt tác người ta không cần phải vay mượn một cốt truyện nào cả như Chiến tranh và hòa bình của Lep Tolxtoi, Moby Dick của Herman Melville, Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn . . .
Còn quan niệm cho rằng ảnh hưởng hầu như không có giá trị gì cũng lại là một cực đoan khác. Giao lưu ảnh hưởng luôn luôn là một trong những nhân tố làm chất liệu cho sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ. Bởi người nghệ sĩ không thể nào sáng tạo trên mây trên gió mà bao giờ cũng sáng tạo trên cơ sở nhiều yếu tố. Trong số những yếu tố đó thì yếu tố giao lưu ảnh hưởng cũng không kém phần quan trọng. Trong lịch sử văn học thế giới, chúng ta đã từng biết sự ảnh hưởng của nhà văn này đối với nhà văn khác như: Pushkin ảnh hưởng Byron, Dante ảnh hưởng Virgile, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử ảnh hưởng Baudelaire . . . Đó là chưa kể có những giao lưu ảnh hưởng tập thể như sự ảnh hưởng của văn học Hy Lạp, sự ảnh hưởng của văn học Phục Hưng Ý, Sự ảnh hưởng của văn học cổ điển Pháp thế kỷ XVII, của Chủ nghĩa Lãng mạn Đức v. v . . .
Như vậy, theo chúng tôi thì việc giao lưu ảnh hưởng, vay mượn là cần thiết và nên có. Nhưng nó không phải là duy nhất và quyết định đến sự thành công và thất bại của nhà văn và tác phẩm. Thành công hay thất bại là ở tài năng của người nghệ sĩ. Còn bản thân chất liệu mà người nghệ sĩ vay mượn chỉ là yếu tố để họ sáng tạo mà thôi. Tất nhiên, không có yếu tố này người ta tìm yếu tố khác. Song yếu tố mà người nghệ sĩ chọn làm chất liệu sáng tạo phải gây được cho họ cảm xúc gì đó họ mới chọn chứ không phải bất kì thứ gì cũng chọn. Nguyễn Du chọn Kim vân Kiều Truyện để làm chất liệu sáng tạo nghệ thuật cho mình chắc chắn Kim Vân Kiều Truyện cũng gây cho ông sự thích thú gì đó ông mới chọn chứ không phải ngẫu nhiên. Nhưng sự sáng tạo của Nguyễn Du mới là yếu tố chính làm nên kiệt tác Đoạn Trường Tân Thanh.
Viết đoạn văn phân tích tâm trạng của Thúy Kiều qua đoạn trích " Kiều ở lầu Ngưng Bích "
Bài làm :
Tác phẩm “Truyện Kiều” là một tuyệt phẩm của tác giả Nguyễn Du. Ông đã đóng góp cho nên thi ca Việt Nam cổ đại một tác phẩm tuyệt vời có sức sáng tao, vang xa tới nhiều thế hệ sau.
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn trích hay nó đã lột tả được tâm trạng của Thúy Kiều khi phải xa Kim Trọng mối tình đầu thơ mộng, tâm trạng đau đớn khi gia đình lâm biến và bản thân nàng từ chỗ một tiểu thư xinh đẹp khuê các phải sa chân vào chốn thanh lâu nhơ nhuốc.
Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” tác giả Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng rất nhiều bút pháp điêu luyện nhưng nổi bật lên là tả cảnh, ẩn tình, lấy cảnh vật để nói lên nỗi lòng của con người, người và cảnh vì thế mà tâm đầu ý hợp hòa quyện vào nhau.
Sau khi gia đình lâm biến và bị Mã Giám Sinh dùng mưu hèn kế bẩn, gạ gẫm lừa tình rồi bị bán vào thanh lâu, Thúy Kiều đã định tự kết liễu đời mình, nhưng kế hoạch của nàng không thanh công. Tú Bà thấy Thúy Kiều cương quyết sợ nàng lại tự tử lần nữa chết thật thì bà ta mất tiền oan, nên ra sức lấy lòng Thúy Kiều, ngọt nhạt để Thúy Kiều nghe lời mình mà chấp nhận tiếp khách.
Đây là tâm trạng của Kiều những ngày đầu ở lầu Ngưng Bích, một tâm trạng sống không bằng chết, cô đơn chán nản cuộc đời và mất lòng tin ở con người.
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”
“Khóa xuân” hai từ này đã gợi lên trong lòng người đọc rất nhiều cảm xúc chua chát. Nó thể hiện sự giam cầm, mất tự do cả về thân thể lẫn tâm hồn của một người con gái đang xuân, đang ở cái tuổi đẹp nhất của đời người đầy mơ mộng, đầy ước mơ mà giờ đây bị nhốt đời mình ở chốn nhuốc nhơ này.
Không gian nên thơ, nhưng mênh mông rộng lớn càng khiến cho tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều trở nên cô liêu, hiu quạnh đến tang tóc buồn. Bốn bề thì bát ngát, thể hiện sự xa cách, không gian thì bao la những cồn cát, bụi hồng xa mờ khói bụi, làn sương thể hiện sự mờ ảo, mịt mù, không rõ bóng tối hay ánh sáng. Nó cũng như đời Thúy Kiều lúc này không biết tương lai ra sao, tất cả đều mịt mù tăm tối.
Không gian càng mênh mông tăm tối, mịt mù càng làm cho tâm trạng Thúy Kiều trở nên thê lương bi đát hơn bao giờ hết. Một cuộc sống bị giam cầm tù đày cả về tâm hồn, lẫn thể xác.
“ Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Hai từ “bẽ bàng” đã lột tả được mọi sự ê chề, đau đớn của Thúy Kiều,khi cô vừa bị Mã Giám Sinh lừa tình, rồi lại còn bị bán vào lầu xanh. Vừa thất tiết vừa tủi nhục, vừa oán hận, vừa thê thương. Tâm trạng tủi hổ vì sự ngu dốt, mê muội tin nhầm người của nàng đã được hai từ “bẽ bàng” nói hộ .
“ Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” con người và cảnh vật đã thật sự hòa nhập vào làm một. Cảnh vật cũng như người đều mang cảnh u sầu, trống trải, cô đơn khắc khoải…Tất cả khiến cho bức tranh thiên nhiên và con người trở nên xám xịt, mịt mù…
Trong những câu thơ tiếp theo tác giả đưa nhịp bài thơ trở nên nhanh hơn, chuyển hướng tâm trạng của Thúy Kiều hồi tưởng lại những ngày xưa bình yên hạnh phúc.
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Trong sự ê chề, bẽ bàng, tủi nhục này người nàng nhớ về đầu tiên chính là chàng Kim Trọng, nhớ người đã thề hẹn ước nguyện với nàng. Nhưng nay lời thề hẹn không thể nào giữ được nữa, nên nàng nhớ về Kim cũng là điều dễ hiểu. Nhưng càng nhớ về Kim Trọng thì tâm trạng nàng lại càng đau đớn khi nghĩ tới hiện tại của mình. Có lẽ việc quay lại như xưa là điều không thể nào còn thực hiện được.
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”
Nàng nghĩ về những người sinh thành ra mình, cảm thấy xót xa, khi nghĩ tới việc từ nay sẽ không còn được phụng dưỡng, hiếu kinh với cha mẹ, không được sống trong sự che chở cưu mang của những người thân thương ruột thịt nhất đời nàng. Nàng lo lắng, xót xa nhưng rồi lại tự suy nghĩ rằng sẽ có Thúy Vân và em trai nàng chăm sóc cho hai đấng sinh thành nên nàng tạn thời nguôi ngoai nỗi lòng.
Thúy kiều lại trở về với thực tại của đời mình, trở về với nỗi đau hiện thực:
“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông ngọn cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
Điệp từ “buồn trông” được nhắc đi nhắc lại trong khổ thơ. Nó như tâm trạng của Kiều lúc này, đúng là “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” nên nàng nhìn gì cũng cảm thấy buồn. Thúy Kiều cảm thấy đời mình nha phận bèo trôi, hoa rụng chả biết sẽ được dòng đời sô về đâu, rồi sẽ đến ngày hoa tàn nhụy héo. Câu thơ nói lên sự lênh đênh trên chặng đường đời nhiều sóng gió trước mặt Kiều. Nó nói lên sự phong ba, gập ghềnh mà Kiều sẽ phải đi qua:
“ Buồn trông song cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng song kêu quanh ghế ngồi”
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”là một bức tranh được vẽ lên với những màu sắc xám lạnh, gợi tả tâm trạng vô cùng sống động, nhưng nó cũng nhiều thê lương ai oán. Cảnh và người trong đoạn trích như hòa vào làm một nó thể hiện sự cô đơn, bẽ bàng, buồn tủi của Thúy Kiều trong cảnh đời éo le của mình, nhưng nó cũng thể hiện sự hiếu thuận, sắc son của Kiều đối với cha mẹ và Kim Trọng dù trong biến cố nhưng trong lòng Thúy Kiều vẫn luôn hướng về những người yêu thương.
Bài hơi dài nên bạn cố gắng chọn lọc ra nhé !!!
Hok tốt !
Đừng quan tâm ^^
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
(Nguyễn Du – Truyện Kiều)
Nguyễn Du đã nói lên mối quan hệ gắn bó, hoà nhập, đồng điệu giữa thiên nhiên và con người. Điều này được thể hiện rõ nét trong kiệt tác bất hủ Truyện Kiều. Ở đó, thiên nhiên và con người luôn hiện hữu trong sự đối sánh, giao hoà tuyệt đối, giữa cái vô tri và cái tâm thức, để hiện lên những bức tranh cảnh – tình đặc sắc nhất của văn học Việt Nam. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích thể hiện rõ nhất bút pháp tả cảnh ngụ tình bậc thầy của thi hào Nguyễn Du.
Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc hoạ thành công tâm trạng bi kịch của Thuý Kiều trong những bước gian truân đầu tiên của kiếp đời lung lạc. Những vần thơ mênh mang cứ day dứt, ám ảnh khôn nguôi, gieo vào lòng ta niềm xót xa về kiếp “hồng nhan bạc phận”.
Trong đoạn thơ mở đầu, tác giả không đi ngay vào việc miêu tả tâm trạng Thuý Kiều mà gợi ra khung cảnh thiên nhiên :
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Bốn câu thơ đầu hoàn toàn không có sự xuất hiện của con người mà chỉ thuần tuý thiên nhiên hay chính xác hơn là thiên nhiên hiện ra dưới mắt con người và con người ẩn mình sau dòng chữ, để cho thiên nhiên tự bộc lộ tiếng nói riêng của nó. Nhân vật trữ tình ấy chính là Thuý Kiều – người đang bị giam lỏng trong lầu Ngưng Bích. Chỉ có tâm hồn nàng được tự do, thoả sức hướng ra thiên nhiên như tìm một nơi chốn neo đậu, để xoa dịu đi nỗi đau đớn nhức nhối trong lòng, để tìm cảm giác giải thoát cho tâm linh tù túng, bế tắc.
Trong tâm trạng, tâm thế ấy, Thuý Kiểu hướng tầm mắt về thiên nhiên và sững sờ khi bắt gặp một bức tranh đẹp mê hồn :
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Khung cảnh như thực mà như mơ. Mơ là bởi “vẻ non xa” kia như một miền xa thẳm mịt mờ sương khói. Thực là bởi “tấm trăng gần”, như có thể đưa tay ra là với được. Vầng trăng ấy đã thân thuộc biết bao với Kiều. Cách đó không lâu người đã đến với trăng như tìm một chứng nhân cho tình yêu vĩnh cửu :
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai mặt một lời song song.
Giờ đây, ở cái nơi “Chân trời góc bể bơ vơ” thật bất ngờ, trăng đã tự tìm đến với người lẻ loi làm bầu bạn. Vầng trăng vô tri mà rất đỗi thuỷ chung ! Trong cảnh ngộ Kiều bị dồn vào thế chân tường, trăng đã đến bên nàng. Sự xuất hiện của trăng tựa như một chỗ dựa tâm linh nâng đỡ Kiều. Từ điểm tựa ấy, Thuý. Kiều hướng tầm mắt ra thiên nhiên, để cảm nhận rõ hơn thân phận, tình cảnh lẻ loi của mình :
Bốn bề bút ngát xa trông,
Cát vùng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Nhịp thơ đều đều, trầm bổng mà không hề đơn điệu, tạo cảm giác da diết, buồn thương. Nỗi niềm ấy chất chứa trong trái tim Kiều, được Nguyễn Du gói gọn trong từ “bẽ bàng” :
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
“Bẽ bàng” là tâm trạng của con người cảm thấy hổ thẹn vì lâm vào cảnh éo le. Cảnh ngộ của Kiểu chính là đang trong những cung bậc cảm xúc ấy. Hổ thẹn vì phụ lời thề ước với chàng Kim, vì đang ở chốn lầu xanh nhớp nhơ, vì số phận ngang trái trớ trêu,… Trong tình cảnh ấy, thiên nhiên như cũng thấu nỗi niềm của thân phận lỡ làng, nhẹ nhàng đến bên nàng như một điểm tựa tinh thần, hoà cùng khúc nhạc sầu thương :
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tình và cảnh tưởng chừng như tách biệt trong hai vế của câu thơ bởi từ “chia” nhưng thực ra là sự đồng điệu, thấu nhập tuyệt đối : cảnh chứa tình và tình phổ buồn vào cảnh. Vì thế mà nhìn cảnh, bao cung bậc sầu thương của Kiều mới được bộc lộ :
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Tại sao tâm trí Kiều lại hướng về Kim Trọng đầu tiên mà không phải là cha mẹ ? Nếu có ai vì điều này mà trách Kiều là bất hiếu thì thật là chưa hiểu nàng. Kiều hướng đến chàng Kim trước nhất vì vầng trăng trực diện đang gợi lòng người nhớ về cảnh cũ của đêm thề nguyền. Chính cảnh ấy đã gợi lòng người thiếu nữ nhớ về tình yêu. Hơn nữa, Kiều đã bán mình chuộc cha nên đối với song thân, cảm giác tội lỗi đã vơi đi ít nhiều. Còn đối với Kim Trọng, Kiều là người bội ước, là kẻ phá vỡ lời thề sắt son hôm nào. Điều đó khiến trái tim thiếu nữ lần đầu sống trong tình yêu luôn khắc khoải hình bóng tình nhân : “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”. Nỗi niềm nhớ thương da diết hoà cùng bức tranh cảnh càng khiến cho lòng người đau đớn khôn khuây. Càng đau vì nhớ người, vì sự khắc khoải ngóng trông của người yêu, Kiều càng cảm thương cho thân phận “bẽ bàng” của mình :
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Có sự đối lập về ý giữa “Tim sương luống những rày trông mai chờ” và “Bên trời góc bể bơ vớ” – sự ngóng trông trong mòn mỏi, vô vọng một người nơi xa xăm, mịt mù vô định. Kiểu tự ý thức được cảnh ngộ của mình, nên nỗi đau càng như xé gan ruột. Nhưng chính trong niềm đau ấy, ta nhận ra ở người con gái bé nhỏ mà kiên trinh ấy những phẩm chất cao quý :
Em tham khảo:
Truyện Kiều đã từ mấy trăm năm qua trở thành một phần giá trị tinh thần không thể thiếu được của dân tộc ta. Ở bất kì góc độ nào, đây luôn là một viên ngọc quý trong kho tàng văn học dân tộc.
Để tạo ra được một kiệt tác như vậy, điều quan trọng nhất mà Nguyễn Du đã thể hiện được là tấm lòng nhân đạo cao cả và tài năng bậc thầy về nghệ thuật. Một trong những phương diện nghệ thuật thể hiện rất rõ tài năng của Nguyễn Du đó là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” tài năng này được thấy rõ hơn cả, nhất là ở 8 câu thơ cuối được mở ra bằng “buồn trông”.
Không chịu nghe lời Tú Bà vào chốn thanh lâu, Kiều bị bắt giam lỏng ở lầu Ngưng Bích cao, xa xôi, bốn bề đẹp nhưng hoang vắng. Ngày nào nàng cũng đau khổ nhớ về gia đình và người yêu. Trong nỗi niềm đằng đẵng bao ngày, nàng nhìn ra phía xa nơi cửa bể vào lúc chiều hôm và thấy thấp thoáng cánh buồm nơi xa. Trong khói sóng hoàng hôn gợi buồn gợi mê, ai biết con thuyền kia là thực hay là ảo, mọi thứ mờ ảo và xa xôi đến mức chỉ có cánh buồm hiện lên. Ở đó có thể là một con thuyền thực nhưng cũng có thể chỉ là con thuyền trong nỗi mong mỏi giải thoát của Kiều. Nàng đang ước ao, mong chờ một con thuyền từ phương xa có thể tới đây, chở nàng về với gia đình thân yêu. Nhưng rồi càng mong lại càng tủi thân, con thuyền kia chỉ là ảo mộng, mà dù có là thực đi nữa lại khiến cho ai kia càng xót xa khi con thuyền cập bến còn mình vẫn còn chơi vơi. Nàng nhớ nhà, rồi nàng buồn. Từ hình ảnh nơi biển cả mông mênh rộng lớn gợi nỗi cô đơn, nàng trông ra đến ngọn nước mới sa, ngọn nước đã đục ngầu vì từng trận thác đổ xuống tung bọt lên trắng xóa.
Và ngay trên dòng nước ấy, có những cánh hoa mỏng manh đang trôi trong vô định, cứ dập dềnh chực chìm chực nổi. Phải chăng, Kiều đang thấy thân phận mình giống với đóa hoa tội nghiệp kia, cứ trên dòng đời trôi mãi trong sự vùi dập dày vò của bao nhiêu con sóng cuộc đời. Cánh hoa ở giữa dòng ấy rỗi sẽ trôi về đâu giống như số phận nàng hiện tại rồi sẽ đi về đâu. Câu hỏi tu từ đã bật lên một sự lo lắng cho một tương lai của một số phận mỏng manh vô định hình. Từ sự lo lắng này, tâm trạng của Kiều lại càng tiếp tục rơi vào sự vô định mông lung không biết đi đâu về đâu. Dường như đến đây, mọi cảnh vật trước mắt Kiều đã bị nhòe đi bởi một màn nước mắt, đến nội cỏ vô tri cũng trở nên rầu rĩ bởi tâm trạng con người không thể nhìn nó bằng con mắt khác.
Khung cảnh mênh mông đến rợn ngợp giờ đây trở nên càng mênh mông hơn khi mà từ chân mây đến mặt đất như không còn ranh giới, màu xanh ở đây không còn là màu xanh tươi của sự sống như ngày xuân xưa kia mà là một màu xanh đơn điệu, một bức tranh một màu không có chút sức sống giống y như cuộc sống lúc này của Kiều. Nhưng mọi thứ vẫn còn ở một mức tâm trạng buồn lo nhưng đến câu cặp lục bát cuối cùng. Từ những cảm xúc buồn, lo lắng, đến đây, ta thấy Kiều như rùng mình sợ hãi. Những cơn gió cuốn những cơn sóng ngoài biển tạo những âm thanh to như cơn bão khiến cho con người phải hãi hùng. Từ tượng thanh “ầm ầm” đặt ở đầu câu như nhấn mạnh sự bất ngờ hoảng hốt của Kiều nơi lầu cao khi con sóng lạnh lùng dữ dội xô vào chân lầu khiến người trên phải sợ hãi.
Đây có lẽ là sự dự đoán về một tương lai không mấy êm đềm sẽ đến với Kiều, và ngay sau đấy, sóng to gió lớn sẽ đổ lên cuộc đời Kiều làm cho nàng phải đau đớn, sợ hãi mà chao đảo. Bốn cặp lục bát mở đầu bằng “buồn trông” tạo nên một đoạn điệp khúc có nhạc tính tăng dần mức độ. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, hình ảnh được chọn từ mờ ảo, mông lung đến rõ ràng cụ thể, tâm trạng nhân vật trữ tình từ buồn, lo đến sợ hãi hoảng hốt. Nguyễn Du đã thật tài tình trong việc miêu tả rõ nét tâm trạng Thúy Kiều trong những ngày tháng dài bị giam nơi lầu Ngưng Bích, những ngày tháng mở đầu cho quãng thời gian mười lăm năm lưu lạc của Kiều. Kiều lúc này, càng buồn thì càng trông, càng trông thì càng buồn, chính Nguyễn Du đã hiểu được điều này và bộc lộ sự cảm thông từ ngòi bút.
Bốn cặp lục bát ngắn gọn mà chứa đựng được tài năng và tấm lòng nhân đạo bao la của đại thi hào Nguyễn Du. Đọc đến những dòng thơ ấy, người đọc không khỏi xót thương trước số phận Thúy Kiều đồng thời trân trọng biết bao tài năng cùng tấm lòng của thi sĩ họ Nguyễn.
1. Mở đoạn:
- Vị trí của đoạn thơ trong truyện.
- Đoạn thơ là bức tranh tâm tình, xúc động, biểu hiện tâm trạng Thuý Kiều.
2. Thân đoạn:
- Tâm trạng cô đơn, buồn tủi trước cảnh thiên nhiên rộng lớn bên lầu Ngưng Bích.
- Nỗi nhớ của Thuý Kiều:
+ Nỗi nhớ Kim Trọng, ân hận vì đã phụ thề.
+ Nỗi nhớ và xót thương cho cha, mẹ lúc già yếu, sớm chiều tựa cửa ngóng trông con.
- Nỗi buồn lo sợ trước những bão táp, tai biến ập đến, tấm thân sẽ không biết trôi dạt vào đâu trên dòng đời vô định.
3. Kết đoạn:
Khẳng định giá trị của đoạn thơ trong “Truyện Kiều”: là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc.