K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

22 tháng 4

Tôi biết sông Cầu từ thuở còn tắm trần với tụi trẻ con cùng xóm ngõ. Rồi ngày kháng chiến chống Pháp, tôi theo mẹ tản cư lên Phú Bình, Thái Nguyên lại gặp sông Cầu bởi gia đình tôi ở nhờ nhà bà cô ruột lấy chồng trên đó. Nhà cô tôi có một soi quýt rộng trên chục mẫu chạy dài ven theo sông Cầu, tre bao bọc xung quanh, có lối đi xuống sông tắm giặt lát đá xanh. Tôi và thằng em con cô tôi tung hoành khắp soi, bắt dế, phá tổ chim, nướng khoai, rủ tụi con gái hàng xóm ăn cùng. Và nướng trứng nữa. Nhặt lá quýt, lá tre khô, đốt lấy tro nóng, phủ lên một cái hố nhỏ, bỏ vài quả trứng vào, lại đốt lá lấy tro phủ lên trên và xung quanh, tiếp tục đốt lá, nhưng phải đốt từ từ, háu ăn đốt lửa to, trứng bục thì chỉ có ăn tro. Trứng chín là nhờ ủ tro nóng chứ không phải chín bằng lửa. Được quả nào thằng em tôi liền chia ngay cho tụi con gái mà lại chia cho chúng phần nhiều. Tôi chờ đến lượt, thèm rỏ rãi. Trứng nướng chín, bửa đôi ra, lòng trứng vàng rộm, ăn vào thấy hương vị thơm ngon đậm đà, quên cả chết.

Năm hòa bình đầu tiên sau hơn ba ngàn ngày chống Pháp thắng lợi, gia đình tôi trở về quê, một làng ven sông Cầu, huyện Yên Phong, Bắc Ninh. Ngày ngày, tôi ra sông tắm, nhảy tõm từ cành đa xuống. Mát ơi là mát. Rồi hò hét, chửi tục, thách đố đuổi bắt, dìm nhau. Không để đâu cho hết vui. Lúc ấy tôi vừa ở tuổi rời chiếc khăn quàng đỏ thân thương của tuổi thiếu niên và mới đủ khôn để nhận ra rằng cái bến tôi tắm hiện nay chính là đoạn dưới của con sông Cầu mà trước đây không lâu anh em chúng tôi đã từng tắm và nướng trứng ăn cùng với tụi con gái ngây thơ mắt đen như mắt thỏ ngọc.

Khác với rất nhiều con sông bạn bè, từ chỗ khởi nguồn đến nơi đổ ra biển, sông Cầu nằm gọn trong lòng đất nước, ôm lấy những bờ tre gốc lúa lầm lụi quê mùa, có lẽ vì thế mà nó hiền lành, êm đềm. Sóng của nó lăn tăn ánh bạc đêm trăng, dòng trôi của nó lững lờ như thật như mơ dưới bóng những lũy tre xanh. Phải chăng vì thế mà một nghệ nhân quan họ say mê nó đã làm ra một bài quan họ nổi tiếng với cái tên mơ màng: "Sông Cầu nước chảy lơ thơ". Sông Cầu phát nguyên từ những cánh rừng sâu, những ngọn núi cao trùng điệp, nơi địa đầu của tỉnh Bắc Cạn giáp với một nước láng giềng lớn vài trăm cây số đường biên. Những khu rừng cổ nguyên sinh, những dãy núi tai mèo sắc nhọn ngạo nghễ vùng biên giới, chắt chiu từng giọt nước từ tâm can sâu thẳm tạo nên nhiều dòng suối nhỏ âm thầm nghìn năm, vạn năm luồn lách trong những vùng núi đá sừng sững, cổ thụ um tùm, chụm lại thành dòng suối to hơn, to hơn nữa để cuối cùng tạo nên sông Cầu. Bởi vậy tính chất sông Cầu không chỉ mềm mại, thong dong mà còn kiên cường, bền bỉ. Chính vì thế mà kẻ thù phương bắc liền kề nước ta một đôi lần định vượt sông Cầu vào chiếm Thăng Long mà không qua nổi, mặc dù đã huy động đến thiên binh vạn mã.

Khi kết thúc sứ mệnh của mình, sông Cầu cũng thực hiện điều ấy ngay trong lòng đất mẹ tại Lục Đầu Giang. Đây là nơi hợp lưu của sáu con sông: sông Cầu - dài hai trăm chín cây số, sông Thương - dài tám mươi cây số, sông Lục Nam - dài hơn hai trăm cây số, sông Đuống, sông Kinh Thầy và sông Thái Bình. Lục Đầu Giang này là ngã sáu đường thủy duy nhất ở Việt Nam, sáu con sông dồn nước về tạo nên một vùng nước mênh mông tưới cho đồng ruộng tốt tươi và là nơi dìm đắm quân thù khi chúng hỗn xược xâm lược. Trên thế giới tôi chưa biết có trường hợp nào sáu con sông gặp nhau tương tự như vậy. Sông Cầu còn có điểm đặc biệt lý thú nữa là tại nơi phát nguyên của nó sát kề với nước hàng xóm lớn, những kẻ đại bá đứng đầu nước ấy thường hay nhòm ngó, nhũng nhiễu, xâm chiếm đất đai của ta một cách quỷ quyệt từ trong lịch sử xa xôi thì ở nơi hợp lưu với các con sông khác, chính những kẻ đi cướp đất ấy đã bị người anh hùng dân tộc của chúng ta hạ “đo ván” trong trận thủy chiến lẫy lừng mà trọng tài thời gian đếm đến mấy trăm năm chúng vẫn còn khiếp sợ, không dám mon men dòm ngó. Và khi về nơi vĩnh hằng, người anh hùng ấy lại xin với trời đất, tổ tiên cho nằm ở ngay quả đồi cao nhìn xuống Lục Đầu Giang để canh chừng kẻ thù cho con cháu. Riêng ở thời Lý, trước chiến thắng sông Như Nguyệt vua Tống chỉ phong cho Lý Nhân Tông là “Giao Chỉ quận vương” nhưng sau chiến thắng này nhà Tống đã phải phong cho vua ta là “An Nam quốc vương”.
 



Một góc sông Cầu (ảnh Internet)

Ngày trước giao thông chưa phát triển, đường thủy là quan trọng, sông Cầu là con đường huyết mạch từ miền thượng du xuôi xuống đồng bằng. Những chiếc thuyền đinh, thuyền buồm cột cao nghễu nghện chở hàng hóa xuôi ngược đi như mắc cửi, những chiếc bè dài vài mươi con sào đủng đỉnh chở gỗ đinh, lim, sến, táu về miền xuôi làm nhà, bắc cầu. Tháng chạp lại chở thêm củ nâu, lá dong, nấm, mộc nhĩ cho bà con dưới xuôi nhuộm quần áo trẻ em, người già diện tết, cho mâm cỗ cúng tổ tiên thêm nhiều hương vị và thêm cả chiếc bánh trưng xanh rờn màu lá thương du. Sông Cầu đã bào mòn cơ thể mình tạo nên hàng triệu triệu tấn phù sa đem lai mầu mỡ cho biết bao cánh đồng ở hạ lưu thuộc hai tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh tạo nên vùng văn minh sông Cầu. Dân cư sinh sống dọc hai bờ con sông này từ nghìn năm nay đã biết làm nông nghiệp trồng lúa, trồng ngô, chăn tằm, dệt vải, làm chum vại, đồ sành sứ phục vụ cho đời sống ấm no của làng mình, huyện mình, tỉnh mình và cả các vùng miền lân cận, xa xôi. Nhiều sản vật của vùng này nổi tiếng khắp nơi như rượu làng Vân, gốm Thổ Hà, sứ Lãng Ngâm, nếp cái hoa vàng Đại Lâm, Vạn An, Hữu Chấp... Rượu Làng Vân đem tiến vua được vua phong là “Vân hương mỹ tửu”, nổi tiếng cả nước cho đến ngày nay. Vùng hạ lưu sông Cầu này còn là cái nôi của sản phẩm văn hóa phi vật thể nổi tiếng. Khoảng một nghìn năm trước đây, quan họ nảy sinh đầu tiên là ở một làng ven sông Cầu là làng Diềm, Hữu Chấp. Sau đó lan sang các làng Quả Cảm, Phấn Động, Khúc Toại và đến các làng thuộc huyện Tiên Du, Từ Sơn, Thuận Thành… tỉnh Bắc Ninh. Tổng cộng là bốn chín làng được gọi là quan họ gốc mà UNESCO đã công nhận là sản phẩm văn hóa phi vật thể. Sau này, Bắc Giang có bảy làng quan họ cũng được công nhận là sản phẩm văn hóa phi vật thể. Riêng Bắc Ninh còn có thêm ca trù được UNESCO công nhận là sản phẩm văn hóa phi vật thể cần được bảo tồn khẩn cấp.

Sông Cầu có một niềm kiêu hãnh lớn xứng đáng là dòng sông anh hùng vì trên dòng sông Cầu này có hàng nghìn, hàng vạn giặc Tống đã bị quân ta đánh cho tan tác, chết mất xác. Vào tháng chạp năm 1076, vua Tống Thần Tông Trung Hoa nghe theo lời tể tướng Vương An Thạch cho quân sang xâm chiếm nước ta. Họ định chia lại quận huyện hòng khôi phục uy danh của thiên triều trước nước Kim, nước Liêu, nước Hạ đã xâu xé, cướp một nửa vùng trung nguyên màu mỡ của đại quốc. Kinh đô nhà Tống phải từ Biện Kinh rời về Nam Kinh. Theo lệnh vua, Quách Quỳ thống lĩnh ba mươi vạn quân, một vạn ngựa, hai mươi vạn phu vận chuyển lương thực gồm cả đàn bà, con gái đi theo để phục dịch, hôi của, đã luồn lách vượt qua được Quỷ Môn Quan. Đây chính là một cửa ải khủng khiếp đối với kẻ thù phương Bắc. Chính tướng nhà Hán Hầu Nhân Bảo sang ăn cướp nước ta cách đó hơn chín mươi năm đã bị rơi đầu bởi một viên tướng dũng mãnh của vua Lê Đại Hành, thua nhục nhã. Với một lực lượng hùng hậu như vậy, Quách Quỳ tưởng có thể ăn tươi nuốt sống nước ta. Quỳ cho quân của chúng đóng dày đặc phía bắc sông Cầu từ Mai Đình, Hiệp Hòa qua Trúc, Lát, Quang Lâm qua chân dãy núi Nham Biền đến tận Vạn Xuân tức Vạn Kiếp. Khu vực đóng quân của chúng dài hơn năm mươi cây số, tưởng như con kiến chui không lọt. Nhưng, sau hơn ba tháng không vượt qua được sông Cầu để vào Thăng Long, tuy đoạn đường chỉ còn khoảng hơn mười cây số theo đường chim bay, chúng đã bị đại tướng quân, tể chấp Lý Thường Kiệt đánh cho tơi bời, xác chết đầy trên cánh đồng. Khi thua chạy về nước, quân số của chúng chỉ còn non một nửa. Thật là đau đớn cho vua tôi tham tàn nhà Tống.

Hiện nay ở ven hai phía sông Cầu cả bờ nam lẫn bờ bắc đều có nhiều cánh đồng mang tên là Đồng Xác. Nhân dân lưu truyền rằng, xác ở đây là xác quân Tàu, chúng sang ăn cướp nước ta, bị quan quân triều đình đánh chúng chết như ngả rạ, chết nhiều vô kể. Ở xã Mai Đình đã xảy ra trận đánh rất lớn, chết hàng vạn quân Tống, nên cánh Đồng Xác cũng lớn hơn cả và ở giữa cánh đồng ấy còn có một Gò Xác, chắc hẳn đó là nơi chôn vùi xác của hàng vạn tên giặc. Tại đây, nhân dân đã xây một ngôi cũng gọi là chùa “Xác” hay còn gọi là “An Lạc Tự” để hương khói cho những tên giặc Tống được an bình nơi cực lạc, để đừng bao giờ đi ăn cướp nước người. Trên bờ phía nam có những cánh Đồng Xác thuộc các xã Tam Giang, Thụy Hòa, Dũng Liệt và một vài địa danh khác trong huyện Yên Phong. Riêng tại xã Yên Phụ lại có cánh đồng “Mả Tầu”. Tại địa phận giữa làng Phương La Đông và làng Như Nguyệt có “Đồng Bờ Xác”. Đó chính là những địa danh chôn vùi xác và mộng tưởng cướp nước ta của quan quân nhà Tống. Tại các nơi này nhân dân ta đều có lập những miếu, chùa dùng vào việc hương khói cho họ, được gọi là Chùa Âm Hồn hoặc An Lạc Tự. Những ngôi chùa này cái còn, cái mất do sự tàn phá của thời gian và thiên nhiên hoặc do những thay đổi nhận thức xã hội. Nhưng ý nghĩa của việc xây những ngôi chùa ấy thật lớn lao, lòng nhân ái của nhân dân ta thật đáng nể trọng. Nếu tôi là người có quyền, tôi sẽ mời những người đang lãnh đạo đất nước đại bá kia sang thăm những cánh “Đồng Xác” dọc hai phía sông Cầu để họ thấy nhân dân nước Đại Việt có một tinh thần bao dung, độ lượng biết bao. Và liệu họ còn dám mở miệng nói rằng nơi nào có hài cốt người Hán, nơi ấy là đất đai của Trung Quốc như họ đã nói về hòn đảo nào đó ở biển đông. Và nếu họ có thì giờ, xin mời họ luôn thể ghé thăm Gò Đống Đa, gần nơi tôi đang sống, ở đó có hàng vạn nắm xương gốc Hán chính hiệu, không cần thử ADN vẫn có thể nhận biết vì lịch sử nước họ cũng đã thừa nhận bị bại trận ở Đống Đa.

Con sông Cầu từ Bắc Cạn về đến Thái Nguyên được sử sách Trung Quốc đặt tên là Phú Lương và cũng có sách ghi là Nam Định, với hàm ý vượt qua sông này xuôi về đến Thăng Long là lấy được nhiều của cải vật chất, bình định được phương nam… Nhưng Quách Quỳ cùng các phó tướng là Triệu Tiết, Miêu Lý và tướng Yên Đạt thấy rằng nếu để cánh quân nhập Giao Chỉ từ Cao Bằng qua Bình Gia, Bắc Sơn xuống và vượt sông Cầu - (thời đó dân ta gọi là sông Như Nguyệt) ở Nam Định- Phú Lương thì không khó, nhưng đoạn đường từ đó về Thăng Long là con đường độc đạo, dài gần một trăm cây số, quân của chúng thế nào cũng bị phục kích. Chúng bèn cho cánh quân này về Mai Đình lập đại bản doanh để vượt sông Cầu ở bến sông Như Nguyệt, nơi ấy lòng sông rộng nhiều chiến thuyền, bè mảng có thể cùng sang một lúc. Từ đây, chúng sẽ đánh chiếm đại bản doanh của Lý Thường Kiệt đặt tại Yên Phụ rồi qua ba làng Mịn, chín làng Chờ, qua Đông Yên về Chèm, vượt sông Hồng chỉ khoảng mười lăm cây số. Như vậy, Mai Đình trở thành điểm khởi đầu của chiến tuyến sông Như Nguyệt.

 

Theo binh pháp Tôn Tử, quân thù từ xa đến đang mỏi mệt nên đánh ngay, nhưng Lý Thường Kiệt muốn cho sự huyênh hoang, kiêu ngạo, điều tối kị ở một viên tướng, cứ tăng lên đi và nhuệ khí của quân sĩ giảm xuống thì đánh cũng chưa muộn và đánh càng dễ. Sở dĩ ông biết hắn huyênh hoang vì khi nhận chức chủ tướng Tổng hành doanh chinh phục An Nam, hắn đã bẻm mép nói với vua Tống rằng thu phục Giao Chỉ dễ như trở bàn tay. Hơn nữa, ông còn muốn cắt đoạn tuyệt mối liên hệ giữa Quách Quỳ và Dương Tùng Tiên là viên tướng thống lĩnh thủy quân sang đánh An Nam và tiêu diệt thủy quân của chúng trước.

Sau khoảng ba tuần chờ thủy quân vào để chở quân sĩ vượt sông và phối hợp, đánh vào Thăng Long mà biệt vô âm tín, Quách Quỳ quyết định bắc cầu phao cho hàng trăm chiến thuyền, bè, mảng nhiều như lá tre, ào ạt bơi trên sông, tiến sang bờ nam ở bến sông Như Nguyệt. Lý Thường Kiệt ra lệnh cho tiền quân đánh mạnh những tên quân từ dưới nước leo lên chiến lũy cao hơn hai mét dàì vài chục cây số mà ông đã cho đắp kỳ công từ nhiều tháng trước. Trung quân phục ở đằng sau diệt những tên quân vượt được lên mặt đất. Hậu quân giữ đại bản doanh và tiếp ứng khi có lệnh. Sau hơn một canh giờ, hàng vạn quân Tống đã lên được trên bờ. Trận đánh giáp lá cà dài vài dặm diễn ra trên nhiều cánh đồng, xác chết chồng lên nhau ngổn ngang khắp mọi nơi. Quân Tống bị đánh bật trở lại. Chúng rút chạy xuống bờ sông, đứng như rừng cây trên bãi cát, chờ và đổ xô, tranh nhau, chen chúc nhau lên cầu phao. Giữa lúc đó có tiếng thét kinh hoàng của những tên giặc Tống: “Cầu phao đã bị cắt”. Tiếng thét đó khiến cho quân Tống có mặt ở bờ sông hoặc đang cầm cự ở trên các cánh đồng rã rời chân tay, chỉ tìm cách chạy thoát thân. Những tên giặc Tống đã xuống được bờ sông chờ để về bờ bắc trở thành mồi của những quân cung nỏ của Lý Thường Kiệt từ trên chiến lũy bắn xuống. Trận tấn công của quân Tống do Triệu Tiết, Miêu Lý chỉ huy bị thất bại thảm hại. Người chỉ huy đoàn quân phá cầu phao ở đây bằng một trận thủy chiến một chọi mười không hề đơn giản là công chúa Nguyệt Sinh. Nàng là một cô gái đầy cá tính. Năm mười tuổi thân hình nổi trội so với chị em cùng lứa ở trong cung, Nguyệt Sinh đã xin với vua cha cho đi theo nghiệp võ, bỏ qua những việc khâu vá thêu thùa tẻ nhạt và các loại kinh sách khó hiểu, nặng đầu. Kịp đến tuổi dậy thì nàng được chọn gả cho hoàng tử Chăm sang cầu hôn, nhưng nàng từ chối vì đã trót gá nghĩa với một võ tướng trẻ họ Chu, người truyền thụ võ nghệ cho nàng từ mấy năm nay. Vua cha tức giận cô con gái lỗi đạo hiếu nghĩa, dám trái ý vua cha, đáng tội chết, nhưng vua thương tình con gái tính cách mạnh mẽ, nên giáng cho làm thường dân. Nàng bèn về quê chồng ở làng Vọng Nguyệt, Yên Phong, Bắc Ninh làm nghề canh cửi, tằm tơ. Sau này, nàng được phong làm tổ nghề của làng. Khi Lý Thường Kiệt vâng mệnh vua đi xây dựng chiến tuyến sông Cầu và tổ chức dân binh ở các hương thôn Yên Phong để chống quân Tống, Nguyệt Sinh đã tìm đến, xin ông cho đảm nhiệm một công việc đánh giặc. Ông đã giao cho Nguyệt Sinh trông coi xây dựng toàn bộ dân binh ở các hương dọc chiến tuyến sông Như Nguyệt. Đồng thời, nhà vua cũng đã nể tình Lý Thường Kiệt, chấp nhận lời thỉnh cầu của ông, khi ông xin cho Nguyệt Sinh được nhận lại tước hiệu công chúa và còn sắc phong cho Chu Đình Dự, chồng nàng là phò mã. Hai người đội ơn ông vô vàn.

Năm ngoái, trong một dịp đi tìm hiểu chiến tuyến sông Như Nguyệt, ngồi nói chuyện với những người khai thác cát ở ven sông Cầu, một bác chừng bốn mươi tuổi cho tôi biết rằng toán thợ của họ đã đào được ở giữa lòng sông một chiếc cọc gỗ lim dài khoảng chín, mười mét hai đầu bịt sắt nhọn. Tôi giật mình nghĩ tại sao ở đây lại có cọc gỗ giống kiểu của sông Bạch Đằng chống quân Nam Hán. Tôi hỏi họ hiện chiếc cọc đó có còn không, ở đâu, hay đã bán cho hàng đồng nát rồi. May quá, họ trả lời rằng đã nộp cho xã, hiện vẫn đang để trong đình làng “Quả Cảm”. Tên của làng này đã là nỗi ám ảnh của tôi từ sau ngày hòa bình chống Pháp thắng lợi. Tại sao nó lại có cái tên giống kiểu đật tên thể hiện tinh thần chiến đấu thời chống Pháp như “Quyết Tâm”, “Dũng Liệt”, “Chiến Thắng”, “Đồng Tiến”, “Vinh Quang”... đến như thế. Té ra, cái tên “Quả Cảm” này là do Lý Thường Kiệt đặt. Dưới thời Lý, làng có tên là “Kẻ Cởm” nghĩa là ăn cắp vì nhiều người làng này hay đi trộm gà bắt chó của dân làng mình và cả làng khác. Sau khi đọc những tài liệu điền dã và nghe cán bộ, nhân dân địa phương, tôi mới biết rằng, vào thời gian Lý Thường Kiệt chống Tống, ở quãng sông làng này đã diễn ra một trận chiến đấu ác liệt giữa hai bên. Trước đó, phó tướng Lưu Khánh Đàm đã từng sang đánh Ung Châu cùng Lý Thường Kiệt, được cử đến làng Kẻ Cởm xây dựng đội dân binh, xây hầm chứa lương thực và có ngách cho voi tạm trú trước khi chuyển lên vùng Lạng Giang cho Thân Cảnh Phúc để sử dụng phá kho lương thực và những trận đánh tập hậu. Hầm này rất dài, bề rộng hai mét rưỡi, chiều cao hai mét, chạy sâu vào trong lòng núi. Khi Quách Quỳ sang, phát hiện ra núi Kẻ Cởm là một kho lương thực lớn, đã sai phó tướng Miêu Lý dùng thuyền chiến, bè lớn, mỗi chiếc chở được năm trăm quân, nửa đêm tập kích chiếm kho lương thực. Chúng không biết có hàng đàn voi đang ở bên trong. Lưu Khánh Đàm cho đánh cầm chừng, dử chúng lên lưng chừng núi mới cho quân cung nỏ bắn tên tẩm dầu xuống, thả dàn voi ra cùng với quân đao, kiếm đâm chém địch tới tấp. Quân Tống bị vỡ trận. Hơn một nửa quân số của Miêu Lý bị voi dày và tên lửa diệt chết. Trong trận chiến đấu ấy dân binh Kẻ Cởm phối hợp với quân triều đình, giết được nhiềù giặc, bảo vệ được tổng kho lương thực. Khi bình công trạng của các hương dọc tuyến sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt đã tâu lên vua cho “Kẻ Cởm” được mang tên mới là “Quả Cảm”. Vua chuẩn y lập tức. Chiếc cọc vừa tìm thấy là một chứng cớ minh họa cho một trận chiến mà Lý Thường Kiệt đã kế thừa mưu kế của Ngô Quyền, ông tổ sáu đời của Ngô Tuấn tức Lý Thường Kiệt. Đúng là hổ phụ sinh hổ tử.

Tập tài liệu của làng Phấn Động, xã Tam Đa, huyện Yên Phong gửi Bộ Văn hóa xin công nhận đền, chùa làng “Phấn Động” là di tích chiến tuyến sông Như Nguyệt - (tức sông Cầu) trong cuộc kháng chiến chống Tống cho biết rằng, Lý Thường Kiệt đã về đây xây dựng đội dân binh, lập trại ngựa. Ông Cả Mai, hương trưởng được Lý Thường Kiệt cử đứng đầu đội dân binh. Trại ngựa đông vô kể, không biết là bao nhiêu con, chỉ biết là phân ngựa thải ra đầy đường làng, ngõ xóm; khắp nơi, trong làng, ngoài đồng, phân ngựa chất thành đống lớn đống nhỏ, không biết chứa vào đâu cho hết. Trại ngựa Phấn Đông này chỉ cách đê sông Như Nguyệt gần một trăm mét. Sau ngày đánh đuổi được giặc Tống rồi làng được gọi là Phẩn Động để ghi nhớ đóng góp và công tích của dân làng đối với công cuộc chống giặc Tống. “Phẩn” tức là phần cái tên này duy trì liền bảy tám trăm năm, đến đời vua Gia Long mới xin cải lại thành “Phấn Động” cho bớt phần thô lậu và giữ đến tân ngày nay. Trại ngựa ấy chắc phải có khoảng dăm bảy nghìn con vì vua Tống cho Quách Quỳ đem theo một vạn ngựa thì ta ít nhất cũng phải có khoảng đó mới đủ sức chống lại nó. Thấy trại ngựa là một hiểm họa cho quân lính mình, phó tướng Triệu Tiết cho quân sang cướp phá, hãm hiếp đàn bà, trẻ em, bắt đi rất nhiều ngựa. Trong trận chống trả quân Tống, ông Cả Mai cưỡi ngựa tay đao tay kiếm, động viên mọi người hăng hái giết giặc: “Đàn ông gậy tầy, gậy mấu/ Đàn bà bị trấu, bị tro/ Ra trước cửa Ngò đánh nhau với giặc”. Dân gian kể lại, theo sáng kiến của ông Cả Mai, quân Tống muốn lên được bờ nam, chúng phải từ mép nước leo lên chiến lũy, đàn bà con gái ở trên bờ dùng trấu, dùng tro tung vào mắt chúng, cản, không cho chúng nhanh chóng lên được bờ và chúng sẽ bị gươm giáo của dân binh, quân lính triều đình đâm chém. Trong trận chiến không cân sức ấy, ông Cả Mai đã hy sinh. Ông được dân làng phụng thờ nghiêm cẩn cho đến ngày nay. Trong tài liệu xin chứng nhận di tích chiến tuyến sông Như Nguyệt vẫn sáng chói tên ông. Ngày nay, vào dịp lễ hội Phấn Động, dân làng bao giờ cũng nhớ đặt bị trấu, bị tro ở nơi tế lễ.

Theo cuốn Địa Chí Yên Phong do Nhà xuất bản Thanh niên ấn hành năm 2002, vào cuối tháng hai năm 1077 vua Lý Nhân Tông, Thái phi nhiếp chính Ỷ Lan đã đi thị sát chiến tuyến sông Như Nguyệt, xem xét tình hình chiến sự, úy lạo tướng sĩ. Nhà vua có đưa cho Lý Thường Kiệt một bản hịch động viên quân sĩ dốc lòng đánh giặc lập công, phò vua, cứu nước. Và ông được phép thay mặt nhà vua đọc bài hịch trước ba quân trong trận tấn công quyết định ngày mai. Đêm ấy ông tập hợp đầy đủ quân sĩ, đọc bài hịch của vua, gây khí thế cho khắp ba quân. Bài hịch ấy được những quân thường trực đang gác trên mỗi vọng canh, đọc truyền cho vọng canh sau, cách nhau một dặm cho đến vọng gác cuối cùng ở Vạn Xuân, tạo nên khí thế bừng bừng khắp chiến tuyến. Bài hịch ấy kết thúc bầng bốn câu thơ: “Nam quốc sơn hà nam đế cư ... ” dễ thuộc, dễ nhớ, cho nên, về sau các vọng canh chỉ đọc bốn câu thơ mà thôi. Quân Tống nghe quân Đại Việt đọc thơ, hô hào diệt chúng tơi bời, đâm ra hoang mang. Giữa lúc đó hàng nghìn bó đuốc sáng rực chiếu sáng cho quân ta vượt sông đánh chúng khắp tuyến sông. Đến gần sáng bất thần xuất hiện kỵ binh, tượng binh của Thân Cảnh Phúc từ Lạng Giang xuống đánh tập hậu. Quách Quỳ thấy bốn phía đều bị tấn công, lương thực đã cạn, phải thịt ngựa ăn, quân bị chết bệnh, chết trận đã đến một nửa, tình thế ngàn cân treo sợi tóc, bèn ra lệnh lui binh, về nước chịu tội với vua Tống.

Vào một ngày giữa mùa xuân năm nay tại đền Xà nơi thờ Trương Hống, Trương Hát, những vị thần đã giúp Lý Thường Kiệt phá tan giặc Tống trên sông Như Nguyệt, đã có một buổi lễ long trọng do các nhà sư cử hành. Nội dung của buổi tế lễ, cầu siêu này là nhằm tưởng nhớ công lao của vị anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt và các tướng sĩ của ông trong công cuộc chống ngoại xâm thời nhà Lý tại chính nơi họ đã chiến đấu và hy sinh. Đây là một chiến công vĩ đại trong lịch sử của dân tộc ta, có thể sánh ngang những chiến thắng trên sông Bạch Đằng và Điên Biên Phủ. Nếu tách riêng có thể coi chiến thắng chống Tống trên sông Như Nguyệt là Điện Biên Phủ thời Lý. Hàng vạn người từ các làng “Tam Giang”, “Như Nguyệt”, “Vọng Nguyệt” và xa hơn nữa là các làng “Quả Cảm”, “Phấn Động”, “Thọ Đức” và một số địa phương trong và ngoài tỉnh đã đến dự. Đó là những địa phương đã gắn liền với chiến tuyến sông Cầu cách đây gần một nghìn năm. Lòng biết ơn đối với những người đã hy sinh vì dân, vì nước đã thể hiện rõ trong buổi lễ trọng thể này. Những người đứng ra tổ chức buổi lễ là những người dân, cán bộ chính quyền địa phương, một vị tướng của viện nghiên cứu khoa học, những hòa thượng của tổ chức Phật giáo. Họ bàn nhau tôn tạo những di tích đã có, xây mới tượng đài, nơi thờ cúng vị anh hùng dân tộc chống Tống mà sự vinh danh ông đôi lúc còn chưa xứng tầm. Tiền của để làm những việc đó đã huy động được rồi. Chỉ còn chờ một ngày đẹp trời nào đấy, khi mọi điều kiện khác hội tụ đầy dủ là khởi công.

Chiến công trên dòng sông Như Nguyệt cách đây trên chín trăm năm vẫn được ghi nhớ, vẫn sống trong lòng nhân dân. Trong buổi lễ cầu siêu ở đây không ai nói đến lòng hận thù nhưng tận nơi sâu thẳm trong lòng không tránh khỏi những suy tưởng về tội ác của những kẻ thù của dân tộc. Nhưng với tấm lòng nhân hậu, trong lễ cầu siêu này người dân trên chiến tuyến sông Như Nguyệt dành một phần nghi lễ cho những tên giặc Tống đã chết ở đây. Còn tôi, xin nói rằng dòng sông Cầu nước chảy lơ thơ, muôn đời nay như vậy, giống người dân Việt hiền hòa, nhưng vào những lúc thời thế giông bão nó cũng có thể nhấn chìm những kẻ đi xâm lược xuống lòng sông. Ở biển đông, những kẻ đang hầm hè, lăm le xâm chiếm lãnh thổ, gây tội ác hãy dè chừng, đừng làm điều càn rỡ để người dân vùng chiến tuyến sông Như Nguyệt, những vị hòa thượng cao niên phải vượt sóng vượt gió để ra biển làm lễ cầu siêu cho họ./.

trên gg có mà bạn, tui viết dài,tự chịu

 

22 tháng 4

1.Câu ca dao "Sông Cầu nước chảy lơ thơ Đôi ta thương nhớ bảo giờ cho xuôi" khiến em nhớ đến vẻ đẹp huyền bí và bình dị của quê hương. Sông Cầu - dòng nước êm đềm, chảy lơ thơ, như một biểu tượng cho sự êm đềm và bình yên của cuộc sống quê nhà. Hình ảnh này gợi lên trong em cảm giác ấm áp và thanh bình. Câu ca dao cũng thể hiện sự nhớ nhung và tình cảm thương yêu của người dân với quê hương, với những kỷ niệm và người thân thương đã từng ở bên bờ sông này. Bằng cách thể hiện sự nhớ mong, câu ca dao gợi lên trong em một tâm trạng hoài niệm và sâu lắng về quê hương, về những người thân yêu đã từng chia sẻ bên bờ sông Cầu. Nó cũng đề cao ý thức về việc trân trọng khoảnh khắc hiện tại và giữ gìn những kỷ niệm đẹp đẽ, để không phải hối tiếc sau này. Đồng thời, câu ca dao cũng khơi gợi trong em sự hi vọng và mong muốn cho một tương lai tươi sáng và hạnh phúc, nơi mọi điều tốt lành sẽ đến với đôi ta, như dòng nước của sông Cầu vẫn chảy mãi về phía trước.

 

 

 

2.Câu ca dao "Sông Cầu nước chảy lơ thơ Đôi ta thương nhớ bảo giờ cho xuôi" chứa đựng biết bao cảm xúc và ý nghĩa sâu sắc về tình yêu thương và quê hương. Sông Cầu, với dòng nước chảy êm đềm, lơ thơ, là biểu tượng của sự bình yên và thanh tịnh, đồng thời là kí ức về quê hương thanh bình và yên bình. Trong câu ca dao này, việc nhắc nhở về việc "đôi ta thương nhớ bảo giờ cho xuôi" là một lời nhắc nhở về việc trân trọng những khoảnh khắc hiện tại và giữ gìn những kỷ niệm đẹp đẽ. Đồng thời, câu ca dao cũng gợi lên trong em một tâm trạng hoài niệm và sự nhớ mong về quê hương, về những người thân yêu đã từng ở bên bờ sông Cầu. Nó cũng là lời chúc phúc, hy vọng cho một tương lai tươi sáng và hạnh phúc, khi mọi điều tốt lành sẽ đến với đôi ta, giống như dòng nước của sông Cầu vẫn chảy mãi về phía trước, không ngừng, không dừng lại.

1 tháng 11 2021

Em tham khảo:

      Non sông, Tổ quốc ta thật đẹp. Bài ca dao đã phác họa rõ nét các địa danh có đặc điểm lịch sử, văn hóa nổi bật thông qua hình thức đối đáp phổ biến trong ca dao, dân ca. Các địa điểm lịch sử được khéo léo đưa vào một cách gần gũi, thân thuộc với từng con người: thành Hà Nội, sông Lục Đầu, sông Thương, núi Đức Thánh Tản, đền Sòng, trải dài trên mọi miền đất nước. Phần đầu là lời hỏi của chàng trai và phần sau là lời đáp của cô gái, đây là hình thức để trai gái thử tài nhau. Chàng trai đã lựa những nét tiêu biểu để hỏi, cô gái biết rất rõ câu trả lời và trả lời đúng ý người hỏi. Đó là một cách thức chia sẻ sự hiểu biết cũng như niềm tự hào, tình yêu đối với quê hương đất nước. Những chàng trai, cô gái hiểu ý nhau như thế, cùng chung những tình cảm như thế, họ hiểu nhau và cùng yêu quê hương tổ quốc. Có thể nói, bên cạnh tình yêu trai gái đơn thuần giờ đây đã lan tỏa thành tình yêu đối với quê hương, với những người xung quanh. Nó trở thành một tình yêu to lớn, vĩ đại và bền chặt.

3 tháng 8 2021

Chúng ta được sinh ra và lớn lên trong dòng sữa của mẹ tình cảm yêu thương của cha mẹ dành cho chúng ta.Ca dao là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn con người từ thuở ấu thơ. Nhịp võng đưa và tiếng du hời qua những làn điệu ca dao đã đưa tâm hồn trẻ thơ đi cùng quê hương, đất nước, hướng về cội nguồn dân tộc. Một trong những câu ca dao đã khắc sâu vào kí ức tôi.

Công cha như núi ngất trời

Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông.

Công cha được ví như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ sánh với nước trong nguồn. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả dân gian mượn hình ảnh núi Thái Sơn và nước trong nguồn vô tận để so sánh với công lao cha mẹ. Bởi lẽ cha mẹ sinh thành ra ta và nuôi dưỡng ta khôn lớn nên người. Công lao của cha mẹ thật lớn, nó sánh với núi cao biển thẳm. Núi Thái Sơn không chỉ hoành tráng về hình dạng, chiều cao mà là biểu tượng của sự bất diệt thiêng liêng. Vì thế, còn nhỏ thì phải biết giúp cha mẹ những công việc vừa sức mình. Khi lớn thì phải báo đáp tình cảm bằng cách hiếu thuận với cha mẹ.

3 tháng 8 2021

Bạn tham khảo nha

Đời người có 3 thứ tình ai cũng có và phải biết quý trọng và nâng niu, đó là tình bạn, tình yêu và đặc biệt là tình thân (tình mẫu tử, tình phụ tử, tình anh em), trong đó cha mẹ là người đã sinh ta ra, nuôi dưỡng và dạy bảo ta nên người, vì vậy ta phải biết ơn và bảo vệ thứ tình cảm ấy. Ca dao, tục ngữ Việt Nam có câu:

“Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra””

Câu ca dao nói về lòng biết ơn của mình đối những bậc sinh thành đã chăm lo và nuôi dưỡng ta nên người.

Chúng ta cùng nhau tìm hiểu câu ca dao này để biết được ý nghĩa sâu sắc mà ông bà ta để lại cho con cháu.

Để tìm hiểu rõ hơn về điều đó chúng ta cùng nhau phân tích những cụm từ, từ ngữ trong câu: “núi Thái Sơn”, là ngọn núi cao lớn và vững chắc nhất của đất nước Trung Quốc, tác giả dân gian ví công lao to lớn của cha mẹ giống như sự đồ sộ, to lớn của ngọn núi đã đi vào lịch sử này. “nước trong nguồn” là nước được chảy ở trong nguồn ra, tinh khiết, mát mẻ và trong lành, dạt dào và chưa bao giờ vơi, để nói về tình mẹ với con cái của mình, lúc nào cũng nhẹ nhàng, dịu dàng và tinh khiết như giọt nước trong nguồn, ca ngợi đức hy sinh của cha mẹ dành cho con cái mà tác gải chỉ có thể sử dụng những hình ảnh to lớn nhất, vĩ đại nhất để so sánh. Để từ đó khuyên nhủ chúng ta cần phải biết quý trọng và biết ơn bố mẹ, phải phụng dưỡng và chăm sóc họ thật tốt khi ốm đau hay già yếu.

Không có từ ngữ nào, hình ảnh nào để nói lên được công lao to lớn của cha mẹ, sử dụng ngọn núi Thái Sơn và nước trong nguồn, là những gì vĩ đại nhất, thiêng liêng nhất, mà tác giả biết đến để nói lên công lao to lớn của các bậc sinh thành, họ chăm lo cho chúng ta từ khi con trong bụng mẹ, đến khi chào đời rồi chúng ta lớn lên, trưởng thành, đó là cả một quá trình lâu dài phải mất hàng chục năm mới xây dựng và dạy dỗ chúng ta nên người được. Cha mẹ không nhưng lo cho chúng ta từ miêng cơm manh áo mà con dạy chúng ta biết cái nào là đúng, cái nào trái, dạy ta cách ứng xử, giao tiếp trong cuộc sống này.

Chúng ta những người con đã làm cho bố mẹ của mình vất vả, hy sinh quá nhiều vì mình. Vậy ta nên làm gì để có thể đền đáp công lao to lớn ấy. Chúng ta đang trong độ tuổi học vì thế điều đơn giản nhất mà chúng ta có thể báo bố mẹ ngay bây giờ đó là ngoan ngoãn, vâng lời ông bà cha mẹ, trở thành con ngoan trò giỏi, biết yêu thương và chia sẻ với mọi người, chỉ cần như thế thôi cũng đủ để làm bố mẹ chúng ta cảm ấm lòng như thế mới xứng đáng với những gì mà bố mẹ đã hy si nh cho chúng ta.

Xin được mượn lời của bài hát “đạo làm con” của nhạc sĩ Quách Been để có thể diễn tả hết cảm xúc của con cái đối với cha mẹ của mình:

“Khi đấng sinh thành sinh ta ra đời,

Cảm ơn ông trời cho ta kiếp người,

Phải sống thế nào: để Cha đừng buồn,

Phải sống thế nào: để Mẹ được vui,

Tình Cha bao la như núi cao ngang trời,

Tình Mẹ rộng lớn như biển cả mênh mông,

Chỉ mong cho ta lớn khôn nên người,

Chỉ mong nhìn thấy nụ cười của ta,

Dù Cha ra sao cũng luôn là đấng sinh thành,

Dù Mẹ làm sao cũng luôn mang nặng đẻ đau,

… Chỉ một giây thôi … nhắm mắt quên cuộc đời, hãy nghĩ suy lại những việc làm của ta.

… Chỉ một giây thôi … nhắm mắt quên tất cả, nghĩ tới Cha Mẹ vẫn đang đong đầy yêu thương.

… Chỉ một giây thôi… nhắm mắt quên cuộc đời, hãy nghĩ suy lại ta tìm mẹ nơi đâu

… Chỉ một giây thôi…nghĩ đến cha một lần, dấu vết chân chim vẫn đang từng ngày mong ta”

Bài hát chính là tất cả những cảm xúc và tình cảm mà con cái dành cho bố mẹ, xin bố mẹ yên tâm vì bố vì mẹ con sẽ cố gắng học hành, chăm ngoan, nghe lời ông bà cha mẹ, dù bố mẹ như thế nào cũng là đấng sinh thành của mình đừng vì họ già yếu, lẩm cẩm mà bỏ rơi bố mẹ của mình, như thế là bất hiếu, là tội đồ.

Thời đại nay thật sự buồn, khi có quá nhiều trường hợp xảy ra hết sức đau lòng, khi con đánh cha mẹ, hành hạ cha mẹ cho tới chết do tính tình nóng nảy, do đua đòi, ham chơi thiếu tiền sinh ra các tệ nạn xã hội, đây là vấn đề ngày càng trở nên nhức nhối và đáng báo động.

Câu ca dao như một lần nữa nhắc nhở và khuyên bảo con cái hãy yêu thương và quý trọng bố mẹ lúc họ còn trên cõi đời này, đừng để đến lúc họ chết đi thì hối cũng không kịp.

24 tháng 3 2022

giúp vs ạ

 

1 tháng 11 2021

bạn tham khảo nhé:

Yêu nước và tự hào dân tộc là một trong những tình cảm thiêng liêng nhất của mỗi người dân Việt Nam. Tình cảm ấy thấm đẫm trong tâm hồn dân tộc và dạt dào lai láng trên những trang thơ văn.Nam quốc sơn hà (Sông núi nước Nam) là một áng thơ như thế!Sông núi nước Nam là của người Nam, đó là tư tưởng của hai câu thơ đầu của bài thơ. Tư tưởng này đối với chúng ta ngày nay tự nhiên như cơm ăn, nước uống. Nhưng ngày ấy, cái thời mà bọn phong kiến phương Bắc đã từng biến nước ta thành quận huyện và đang cố sức khôi phục lại địa vị thống trị, thì tư tưởng ấy mới thực sự thiêng liêng và có ý nghĩa biết chừng nào! Lòng tự tôn dân tộc hun đúc qua mấy mươi thế kỉ đã hoá thành tư thế đứng thẳng làm người, mặt đối mặt với kẻ thù. Đọc câu thơ, lòng ta không khỏi rưng rưng xúc động.Dám đánh và quyết tâm đánh thắng giặc thù. Đó chính là biểu hiện tập trung nhất, cao độ nhất của lòng yêu nước trong hoàn cảnh lúc bấy giờ.Sau này, trong văn chương nước nhà, ta còn bắt gặp không ít những áng thơ văn dạt dào sâu lắng tình yêu quê hương đất nước mình như thế trong đó Sông núi nước Nam mãi xứng đáng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất về lòng yêu nước và tự hào dân tộc.

18 tháng 11 2021

Tham khảo!

Đề 1:

   Bài thơ "Bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương đã để lại trong em niềm xúc động sâu sắc. Với ngôn ngữ bình dị, gần gũi và thể thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn, hàm súc, giàu hình tượng, bài thơ đã mượn hình ảnh chiếc bánh trôi nước - một món ăn bình dị, quen thuộc của dân tộc để nói lên thân phận, cuộc đời của người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ thật đẹp “vừa trắng lại vừa tròn” nhưng số phận lại hẩm hiu, lận đận “bảy nổi ba chìm” và phải sống cuộc đời phụ thuộc, không có quyền tự quyết số phận của mình thật đáng thương. Nhưng vượt lên trên số phận hẩm hiu, người phụ nữ luôn giữ vững phẩm hạnh sắt son, chung thủy của mình “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”. Họ như những đóa hoa sen thơm ngát vươn lên tỏa hương giữa chốn bùn lầy. Bài thơ cho em cảm nhận sự thương cảm, trân trọng sâu sắc của Hồ Xuân Hương đối với người phụ nữ thời bấy giờ. Đồng thời giúp em hiểu hơn về số phận, cuộc đời người phụ nữ trong xã hội cũ. Em thật hạnh phúc được sống trong xã hội bình đẳng, công bằng, văn minh.
Đề 2:

Bài ca dao trên làm xúc động lòng người khi đã gợi lên công ơn trời bể của cha mẹ đối với những đứa con của mình. Mở đầu bài ca dao, tác giả nhắc đến công cha, nghĩa mẹ. Đó là ơn nghĩa mang nặng đẻ đau và những yêu thương mẹ dành cả cho con. Ví “công cha”, “nghĩa mẹ” như núi ngất trời, như nước ở ngoài biển Đông là lấy cái trừu tượng của tình phụ tử, tình mẫu tử so sánh với cái mênh mông, vĩnh hằng, vô hạn của trời đất, thiên nhiên. Ví công cha với “ núi ngất trời " là khẳng định sự lớn lao, ví nghĩa mẹ như “ nước biển Đông " là để khẳng định chiều sâu và sự dạt dào của tình mẹ. Đây cũng là một nét riêng trong tâm thức của người Việt, hình ảnh người cha rắn rỏi, mạnh mẽ, cha như trụ cột trong gia đình. Hình ảnh người mẹ không lớn lao, kì vĩ nhưng sâu xa, rộng mở và dạt dào cảm xúc hơn, cách ví von làm hình ảnh được tôn cao thêm, trở nên sâu sắc và lớn lao. Bởi vậy, kết lại bài ca dao, tác giả dân gian đưa ra lời nhắn nhủ “cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!” là nhắc tới công lao to lớn của cha mẹ, thiết tha nhắn gửi những người con ghi lòng công ơn ấy. Tiếng “ơi” vang lên thể hiện tình cảm tha thiết, mong muốn chân thành cảm động của tác giả dân gian. Bài ca dao để lại trong lòng người đọc niềm xúc động thiêng liêng về công ơn trời bể của những đấng sinh thành. Và hơn thế là định hướng về cách sống, cách bày tỏ lòng biết ơn dành cho cha mẹ của mỗi con người.

giúp mk các đề này nhanh nha!!! mai mk thi HKI rùi T^TDựa vào văn bản "Cổng trường mở ra" của Lý Lan, em hãy viết một đoạn văn khoảng 10 câu nêu cảm nghĩ của em về buổi khai trườngDựa vào văn bản "Cổng trường mở ra" của Lý Lan, em hãy viết một đoạn văn khoảng 10 câu nêu lên vai trò của nhà trườngDựa vào văn bản "Mẹ tôi" của Ét-môn-đô đơ A-mi-xi, em hãy viết một đoạn văn khoảng 10...
Đọc tiếp

giúp mk các đề này nhanh nha!!! mai mk thi HKI rùi T^T

  1. Dựa vào văn bản "Cổng trường mở ra" của Lý Lan, em hãy viết một đoạn văn khoảng 10 câu nêu cảm nghĩ của em về buổi khai trường
  2. Dựa vào văn bản "Cổng trường mở ra" của Lý Lan, em hãy viết một đoạn văn khoảng 10 câu nêu lên vai trò của nhà trường
  3. Dựa vào văn bản "Mẹ tôi" của Ét-môn-đô đơ A-mi-xi, em hãy viết một đoạn văn khoảng 10 câu nêu lên vai trò của người mẹ
  4. Dựa vào những câu ca dao dân ca - những câu hát về tình cảm gia đình, em hãy viết một đoạn văn khoảng 10 câu nêu vai trò của đạo làm con
  5. Dựa vào ca dao dân ca - những câu hát về tình cảm gia đình (sgk/35), em hãy viết đoạn văn nêu lên vai trò của gia đình
  6. Dựa vào bài Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người, em hãy viết đoạn văn khoảng 10 câu nói về tình yêu quê hương đất nước

Ai rảnh ko giúp mk điiiiii

 

6
20 tháng 12 2016

1)

Thu về mang cho bầu trời bộ áo mới trong xanh, gửi một chút se lạnh trong làn gió và những tia nắng vàng màu hoa cúc. Như bao bạn học sinh khác, hôm nay em dậy sớm để đến trường dự lễ khai giảng năm học mới. Con đường đất đỏ thân quen hôm nay vui hẳn lên bởi tiếng cười nói của các bạn học sinh mang màu áo trắng tinh khôi. Hương hoa sữa hòa quyện vào mùi cỏ đồng nội thơm lạ kì. Những vòng quay xe đạp đưa em đến trường bằng niềm vui và lòng háo hức...Ồ! Em chợt nhận ra ngôi trường thân yêu của mình nằm giữa những ngôi nhà mái bằng san sát nhau.. Sau ba tháng hè, trường em như khoác trên mình một bộ áo mới: nào là cờ hoa, băng rôn,... Trên cổng chính là dòng chữ đỏ chói “NHIỆT LIỆT CHÀO MỪNG NĂM HỌC MỚI 2012- 2013”. Cánh cổng hôm nay mở rộng đón chào các bạn học sinh vào năm học mới. Bước vào sân trường là không khí náo nức, rộn rã ngày khai giảng chợt ùa vào trong tim. Sân trường hôm nay như nhỏ hơn bởi những dòng người cùng niềm vui, niềm háo hức ngày khai trường về dự lễ. Đây là những bạn học sinh mới bước chân vào ngôi trường THCS với sự hồi hộp và lạ lẫm. Kia là các bạn lớp trên đang vui mừng quàng vai bá cổ nhau sau ba tháng hè dài... Khắp sân trường tràn ngập tiếng nói cười...

2)

Công bằng mà nói, giáo dục đạo đức trong nhà trường chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng môi trường sư phạm không phải là “ốc đảo” trong xã hội ta, một xã hội có bộ phận không nhỏ bị thoái hóa, biến chất, sống theo lối sống thực dụng, vô cảm. Mặt trái của kinh tế thị trường đã và đang tấn công như vũ bão vào văn hóa truyền thống tốt đẹp của chúng ta. Bước ra khỏi cổng trường, học sinh phải đối mặt với rất nhiều tệ nạn xã hội như cảnh dòng người chen chúc hỗn độn trên đường lúc tan tầm, cảnh đánh chửi nhau như cơm bữa trên hè phố...Và cách đây chưa lâu trẻ em được tận mắt chứng kiến cảnh người lớn phá tan tành phố hoa xuân của Hà Nội.
Khi về nhà, không ít học sinh tận mắt chứng kiến cảnh bố mẹ cãi chửi, thậm chí đánh nhau, được nghe bố mẹ bàn về những mánh lới làm ăn, nghe bố mẹ than phiền những bức xúc ở cơ quan với hàng loạt chuyện ghen ăn, tức ở, chuyện hối lộ, chạy chức chạy quyền...Tất cả những yếu tố trên đã ảnh hưởng đến sự hình thành văn hóa học đường trong nhà trường hiện nay.
Văn hóa học đường được tạo dựng nên bởi nhiều yếu tố nhưng quan trọng nhất, quyết định nhất theo tôi là ba yếu tố. Đó là nhà trường, đội ngũ thầy cô giáo và vai trò của cha mẹ học sinh.

20 tháng 12 2016

3)

Mẹ không chỉ là người đã cho con một hình hài và nuôi dưỡng con nên người mà mẹ còn là cô giáo đầu đời của con.Mẹ đã phải dành rất nhiều thời gian luôn bên con để cùng con đọc sách, nói chuyện, cười đùa, mẹ dạy con học chữ, dạy con học hát, dạy con đạo lí làm người. Với tâm tình dịu hiền, đảm đang, người mẹ dạy con mình nên người, biết sống theo đạo lí với bản chất lương thiện. Niềm hạnh phúc của người mẹ là mong muốn được nhìn thấy con mình trở thành những người hữu ích cho gia đình, quê hương và xã hội.Trong gia đình, thường thì người cha giáo dục con cái về chí hướng, sự nghiệp và nghị lực; còn người mẹ thường thiên về bồi dưỡng tâm hồn và tình cảm cho con. Nhờ công lao sinh thành, dưỡng dục của những người mẹ hiền, nhiều người con đã thành đạt, hiển vinh, nhiều người con đã thành những anh hùng, thậm chí đã trở thành thiên tài. Một văn hào đã từng nói: “ Không có phụ nữ thì không có người mẹ. Không có người mẹ thì không có các anh hùng”.Một gia đình có nề nếp, gia phong thì cha mẹ là tấm gương cho con cái noi theo. Trong đó, vai trò giáo dục con cái vẫn thuộc về người mẹ đúng như câu tục ngữ mà dân gian vẫn lưu truyền: “Phúc đức tại mẫu”. Dù trong mọi hoàn cảnh nào, mẹ vẫn luôn là người bao dung, che chở, dõi theo bước con đi. Trên bước đường thành công của ***** luôn là hậu phương, là chỗ dựa vững chắc nhất của con về mọi mặt. Mẹ luôn là bờ vai ấm áp để cho con tựa vào, mỗi lúc con vui mẹ vui cùng con, lúc buồn con sà vào lòng mẹ để được mẹ ôm ấp, vỗ về, động viên: ***** hãy mạnh mẽ lên và tiếp bước trên con đường tương lai. Những gì mẹ dành cho con, những gì mẹ dạy cho con sẽ là hành trang con mang theo suốt cuộc đời. Mẹ là người thầy đầu tiên và cũng là người thầy suốt đời của con.Ngày nay, vai trò của người mẹ càng được đề cao. Mẹ không chỉ là người mẹ hiền đảm đang, gìn giữ hạnh phúc gia đình mà còn là những nhà khoa học, những vị lãnh đạo, những cán bộ có năng lực…Chính vì thế, ảnh hưởng của người mẹ đối với việc giáo dục con cái cũng thay đổi theo chiều hướng tích cực.

4)Sống ở đời, ai cũng hiếu, con người ta sinh ra, lớn lên và trưởng thành là nhờ có cha mẹ. Không có cha mẹ sẽ không có chúng ta. Ngay từ khi sinh ra, ta đã phải chịu ơn mẹ mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày. Theo thời gian, ta lớn lên là nhờ có dòng sữa ngọt ngào và miếng cơm manh áo mà cha mẹ đã phải đổ mồ hỏi sôi nước mắt mới mang lại được. Suốt tuổi thơ của ta, ta được cha mẹ nâng niu, chiều chuộng. Những bài học đầu tiên của cha và những lời ru của mẹ đã khiến cho tuổi thơ của ta trôi qua êm đềm. Ngay cừ những bước đi đầu tiên, mới chập chừng vào đời, ta đã có cha mẹ dìu dắt. Cha mẹ là những ngọn đèn mà suốt cuộc đời họ soi sáng con đường cho chung ta đi. Ngày ta thực sự trưởng thành có lẽ chính là ngày vui nhất trong đời cha mẹ. Mặc cho tuổi xuân của mình vùn vụt trôi qua, cha mẹ đã hi sinh cả cuộc đời mình cho con cái, để đánh đổi lấy những sợi tóc bạc ngày một nhiều thêm. Chính vì vậy mà để ghi nhớ đền đáp công lao to lớn của cha mẹ, ta luôn luôn phải hiếu thảo và vâng lời cha mẹ. Khi ở gần cha mẹ, ta phải làm cho cha mẹ vui lòng để bù đắp lại những ngày tháng vất vả mà cha mẹ đã nuôi nâng dạy dỗ ta. Suốt cuộc đời của mình, không lúc nào ta không kính trọng, biết ơn và thương yêu cha mẹ. Khi còn nhỏ, ta phải học tập chăm chỉ, ngoan ngoãn, không để cha mẹ buồn lòng. Khi cha mẹ đau ốm, ta sẽ luôn ở bên cha mọ và tận tình chăm sóc. Khi trưởng thành dù có di đâu, ta cũng luôn nhớ về cha mẹ, và ta phải giáo dục con cháu ta sau này luôn luôn ghi nhớ công ơn của ông bà. Có vậy thì ta mới thực sự là một người con hiếu thảo.