Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Bạn có thể kham khảo dàn ý của cô mình :
Xây dựng đoạn văn cảm nhận về:
+ Nhân vật quan phụ mẫu.
-Sống sang trọng xa hoa: Đồ sinh hoạt xa xỉ khi đi hộ đê (theo ống thuốc bạc, đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm…). Ăn của ngon vật lạ (yến hấp đường phèn).
- Sống nhàn nhã vương giả: uy nghi, chễm chệ ngồi (Quan dựa gối xếp, có lính gãi chân, có lính quạt hầu, có tên chực hầu điếu đóm như thần như thánh…)
- Ăn chơi bài bạc, thản nhiên ung dung: (Quan lớn ù thông, xơi yến, vuốt râu, rung đùi, mắt mải trông đĩa nọc…)
- Sống chết mặc bay: Đuổi cổ người nhà quê, xòe bài, cười lớn… trong khi đê vỡ.
- Nghệ thuật tương phản đã vạch trần và lên án thói vô trách nhiệm, nhẫn tâm, vô nhân đạo của bọn quan lại, coi thường tính mạng và đời sống nhân dân. Chúng chỉ lo chơi bời bài bạc, ăn chơi hưởng lạc, còn nhân dân thì “sống chết mặc bay”.
Sống chết mặc bay là tác phẩm đi đầu trong phong trào truyện ngắn hiện đại Việt Nam. Để đạt được thành công đó không thể thiếu đi linh hồn của truyện ngắn - nhân vật. Và trong tác phẩm này, nhân vật được tác giả khắc họa rõ nét nhất chính là quan phụ mẫu. Quan phụ mẫu - kẻ ăn bổng lộc triều đình để phụ trách việc đê điều, vậy mà khi nước dâng cuồn cuộn, mưa tầm mưa tã lại bỏ mặc con dân mà tận hưởng cuộc sống xa hoa, an nhàn. Đối lập với hình ảnh đó, là cảnh tượng người dân cơ cực, khốn đốn vật lộn với cơn lũ. Mà đâu phải các vị "phụ mẫu" ấy không biết, mà rõ rằng đình vững chãi vậy, đê có sập cũng chẳng hề gì nên mới mải mê cờ bạc từ khi đê "thẩm lậu" tới khi nước cuốn thành vực sâu. Qua nghệ thuật tăng cấp và tương phản, Phạm Duy Tốn đã khắc họa rõ nét bản chất xấu xa; không chỉ hách dịch mà còn vô trách nhiệm, vô nhân tính của tên quan phụ mẫu. Quan phụ mẫu chính là nhân vật đại diện cho tầng lớp quan lại trong xã hội phong kiến đương thời.
Qua tác phẩm Sống chết mặc bay tác giả Phạm Duy Tốn đã khác họa rõ nét và sâu sắc thái độ vô trách nhiệm , chủ quan củaquan phụ mẫu, xây dựng thành công hình ảnh độc ác , vô lương tâm của tên quan " lòng lang dạ thú ". Khi những nhân dân của mình đang trăm lo nghìn sợ, chân lấm tay bùn , đem thân thể yếu hèn đối với sức mưa to nước lớn. Trong lúc đó thì quan phụ mẫu - người đi hộ đê , nhân vật được mang trọng trách cao cả trong việc này lại đang say sưa trong những ván bài đỏ đen . Những ván bài , đồng tiền ấy còn quan trọng hơn những tính mạng , sinh linh nhỏ bé ngoài kia hay sao ? Hắn mang chức sắc phong kiến với bản chất ích kỉ, tàn nhẫn ko có trách nhiệm đối với cuộc sống của nhân dân. Mặc kệ con dân đang trong tình cảnh khốn khổ giữa "sức người và sức trời " .Điều đó đã làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo cho bông hoa đầu mùa của truyện ngắn hiện đại Việt Nam. . Có thể nói rằng Tác phẩm Sống chết mặc bay lên án 1 xã hội phong kiến thối nát đương thời .
Có dựa trên mạng 1 ít , có gì ko hay tự sửa lại nk
Tham khảo:
Quan phụ mẫu là người quản lí, chăm lo cho cuộc sống của những người nông dân, ngay chính cái tên "phụ mẫu" đã nói lên được vai trò, trách nhiệm to lớn ấy. Tuy nhiên, trong "Sống chết mặc bay"( Trạng ngữ ), thái độ và hành động của những viên quan phụ mẫu lại mang đến cho độc giả những cảm nhận vô cùng khác biệt. Đó không phải những vị quan biết chăm lo cho nhân dân mà là những kẻ máu lạnh, tàn nhẫn đến đáng sợ. Trước nguy cơ vỡ đê, khi nhân dân đang phải cong mình chống lũ thì những kẻ tự xưng là cha mẹ của nhân dân lại chìm đắm trong thú vui bài bạc. Thậm chí, khi có người bẩm báo về tình trạng đê điều khẩn cấp, chúng không những không quan tâm mà còn lớn tiếng chửi bới, đe dọa "Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng , thời ông bỏ tù .....! Có biết không?". Có thể nói Sống chết mặc bay đã mang đến cho người đọc những cảm nhận chân thực về nỗi khổ cực của người dân nghèo cũng như bộ mặt tàn nhẫn, vô lương tâm của giai cấp thống trị.
Hình ảnh của tên quan phụ mẫu lòng lang dạ sói, vô trách nhiệm, thờ ơ trước tính mạng của người dân đã được tác giả Phạm Duy Tốn thể hiện rất sinh động qua văn bản : "Sống chết mặc bay" (1). Là cha mẹ của dân, có trách nhiệm đi hộ đê giúp dân nhưng lại ngồi trong đình cao, vững chãi chơi tổ tôm (2). Trong đình đèn điện thắp sáng, kẻ hầu người hạ tấp nập cho ta thấy một bầu không khí nhộn nhịp để phục vụ quan ăn uống, nghỉ ngơi (3). Khi quan đánh bài, không khí trong đình bỗng yên tĩnh, ở đây tác giả đã sử dụng nghệ thuật đối lập giữa không khí ngoài đê và trong đình (4). Ngoài đê " mưa gió ầm ầm, nước trút xuống ngày một mãnh liệt, xoáy thúc con đê ngày một yếu " dù vậy trong đình " không khí thật trang nghiêm " không ai dám to tiếng ngoài quan phụ mẫu (5). Quan ngồi uy nghi, chệm chễn, tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra để cho tên người hầu quỳ dưới đất mà gãi (6). Quan đi hộ đê mà mang theo bao người hầu kẻ hạ, cả những đồ dùng xa hoa, đắt tiền : " tráp đồi mồi, ống vôi chạm, đồng hồ vàng, ngoáy tai,... (7). Phép liệt kê của tác giả đã giúp miêu tả được chi tiết các đồ dùng của quan đồng thời cho ta thấy sự ăn chơi hưởng lạc, cuộc sống xa hoa của quan (8). Quan tập trung mọi tâm trí vào việc chơi bài mà không hề để ý đến việc hộ đê cũng như cảnh mưa gió càng lúc càng dữ dội bên ngoài (9). Khi tên nhà quê vào bẩm báo đê vỡ, quan lại sẵn sàng rũ bỏ trách nhiệm, đổ lỗi cho dân "ông cách cổ chúng mày, ... bỏ tù chúng mày" (10). Quan còn đe dọa, không muốn nghe bất cứ tin gì liên quan đến đê vỡ, sai lính đuổi cổ người dân phu ra ngoài để không bị làm phiền (11). Rồi quan lại hướng sự chú ý của mình vào ván bài đang dở, dù đê vỡ, nhà trôi, dân có chết thì cũng không quan trọng bằng việc người ta có bốc đúng quân mà ngài cần hay không (12). Đỉnh điểm của sự vô nhân tính chính là tâm trạng vui sướng của quan khi ù ván bài to, ngài vỗ tay xuống sập rồi kêu to, vừa xòe bài, miện vừa cười nói hả hê (13). Như vậy, lúc nhân dân lâm vào tình cảnh thảm sầu thì cũng là lúc tên quan sung sướng nhất, thật tàn ác làm sao ! (14). Tác giả đã sử dụng phép tương phản và tăng cấp để bộc lộ sự căm phẫn đối với tên quan phụ mẫu vô trách nhiệm và sự thương xót, đồng cảm cho số phận bất hạnh của người dân (15).
Tham Khảo :
Tác phẩm lấy bối cảnh là mùa lũ về trên làng X. Giữa đêm đen nông dân cực nhọc chống chọi với mưa lũ để cứu đê: "Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng X thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đê thấm lâu rồi, không khéo thì vỡ mất". Tính mạng "con dân" cả vùng đang bị đe dọa nghiêm trọng. "Kẻ thì thuổng, người thì cuốc, người đội đất, kẻ vác tre" người nào người nấy lướt thướt nhu chuột lột. Là quan huyện của dân, đáng ra, quan phải sát cánh bên dân cùng dân chống đỡ. Hay chí ít ra là phải họp bàn với các chức sắc để bàn cách đối phó. Nhưng không, khi tất cả dân đen đang hối hả lo cho khúc đê thì quan đang chễm chệ trong đình. "Cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trong mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng chẳng việc gì", trong đình "đèn thắp sáng trưng", "nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại nhộn nhịp". Giữa cảnh vui vẻ, hoan lạc ấy, quan huyện trở thành trung tâm với phong thái đường bệ, kẻ cả: Quan phụ mẫu uy nghi chễm chệ ngồi". “Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên cầm quạt lông chốc chốc sẽ phẩy. Tên đứng khoanh tay trực hầu điếu đóm. Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, tráp đồi mồi, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng và cơ man những vật dụng quý phái sang trọng khác”. Quan như không hề hay biết đến tình trạng thảm thương của dân chúng. Sự vô trách nhiệm ấy khiến người đọc bất bình và không hiểu tại sao lại có kẻ vô tình đến vậy. Là một người thường vô tâm với cảnh ngộ bi đát của dân chúng đã không đành, huống chi, đây lại là bậc quan dân!
Bản chất vô nhân đạo, lối sống "sống chết mặc bay" của tên quan huyện đã dần lộ rõ. Mưa gió và sinh mạng hàng ngàn con người không được quan chú ý bằng một trăm hai mươi lá bài đen đỏ. Không khí trong đình vẫn tĩnh mịch y trang, chỉ đôi khi nghe tiếng quan gọi "điếu mày”, tiếng "dạ", tiếng "bốc", "Bát sách! Ăn", "Thất văn... phỗng"... Thú vui bài bạc, ma lực đỏ đen đã làm bọn quan lại đánh mất lương tri, nhân tính. "Nước sông dẫu nguy không bằng nước bài cao thấp", hình ảnh so sánh thể hiện sự táng tận hương tâm của lũ vô lại. Cuối cùng, đê vỡ. Quan đỏ mặt tía tai "đê vỡ rồi thời ông cách cổ chúng mày". Đoạn, lại bình thản quay mặt hỏi thầy đề: "Thầy bốc quan gì thế?". Ván bài "ù to". Quan sung sướng, cười hả hê, đắc chí và cũng chính lúc ấy "nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết"…
Sống chết mặc bay là tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn Phạm Duy Tốnvào những năm đầu thế kỷ 20. Là một truyện ngắn hiện đại mang những giá trị: hiện thực sâu sắc, tố cáo, lên án chế độ phong kiến lạc hậu, cũ nát, cùng lũ quan trên độc ác, tàn nhẫn, giẫm đạp lên cái khốn khổ của nhân dân để ăn chơi xa xỉ, vui hưởng lạc thú. Đồng thời tác phẩm còn là tiếng lòng thương cảm, xót xa cho số phận người nông dân thấp cổ bé họng dưới chế độ cũ, cuộc sống khổ cực lầm than, thiên tai lũ lụt ập đến liên miên, kêu trời trời không thấu, kêu đất đất cũng chịu làm thinh, đắng cay muôn vàn không kể hết.
tham khảo nha bạn
Trong truyện ngắn Sống chết mặc bay, nhà văn Phạm Duy Tốn đã thành công xây dựng nên hình ảnh một viên quan phụ mẫu khiến người đọc phải căm phẫn. Hắn là đại diện cho tầng lớp quan lại đã sa đọa đến tận cùng lúc bấy giờ của nước ta. Chúng được phong chức quan, hưởng bổng lộc là để lãnh đạo, dìu dắt nhân dân. Ấy thế mà khi muôn dân phải oằn mình dưới gió bão để níu giữ sự sống, của cải. Thì hắn ta lại ăn chơi hưởng lạc thay vì tìm cách ứng cứu. Hắn ngồi trên đình cao khô ráo, ấm cúng, chơi tổ tôm, hút thuốc phiện vô cùng sung sướng. Mặc tiếng dân kêu, dân than thở. Chao ôi, thật độc ác biết bao nhiêu. Càng xót xa hơn khi viên quan ấy không chỉ có 1 mà có ở khắp nơi, phủ X ấy cũng tồn tại ở nhiều nơi trên cả nước ta. Tình cảnh lầm than ấy khiến người đọc vô cùng căm ghét và lên án nặng nề những viên quan phụ mẫu giả dối.
bạn Hoàng Thị Bảo Ngọc ơi, bạn hỏi thầy / cô của bạn là có làm hơn một câu được ko nha nếu mà ko được thì bạn bỏ một câu nha.