K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

24 tháng 12 2021

Cô Tô hiện lên thật trong sáng, tinh khôi trong buổi sáng đẹp trời: Bầu trời trong sáng, cây thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc, đậm đà hơn hết cả mọi khi, và cát lại vàng giòn hơn nữa. Ngỡ như đất trời biển Cô Tô được rửa sạch, được tái tạo để hoá thành một cảnh sắc trong sáng tuyệt vời. Để “vẽ” được bức tranh toàn cảnh của đảo Cô Tô sau cơn bão, tác giả phải công phu lắm mới chọn được những hình ảnh tiêu biểu: Bầu trời, nước biển, cây trên đảo, bãi cát, và đi với những hình ảnh ấy là một loạt tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng: bầu trời thì trong trẻo, sáng sủa, cây trên biển thì xanh mượt, nước biển lam biếc, cát lại vàng giòn. Có được cảnh sắc đẹp như vậy là do nhà văn đã chọn được vị trí quan sát từ trên điểm cao trên nóc đồn để nhìn ra bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng, quay gót 180 độ mà ngắm, toàn cảnh đảo Cô Tô... mà càng thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng để ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây. Sau cơn bão, thiên nhiên ở đảo Cô Tô hiện lên thật là đẹp. Phải chăng bức tranh đảo Cô Tô đẹp bởi có tình người của Nguyễn Tuân

Bài 1: Qua bài kí Cô Tô, ta thấy được vẻ đẹp trong sáng của biển đảo Cô Tô sau khi trận bão đi qua. Em hãy viết một đoạn văn ngắn khoảng 6 đến 8 câu trình bày cảm nhận về vẻ đẹp toàn cảnh đảo Cô Tô sau khi cơn bão đi qua, trong đó có sử dụng một câu trần thuật đơn. (Gạch chân,chú thích) – Bắt buộc phải đánh số câu quy định ở sau mỗi câu.Bài 2: Viết một đoạn văn khoảng 8-10...
Đọc tiếp

Bài 1: Qua bài kí Cô Tô, ta thấy được vẻ đẹp trong sáng của biển đảo Cô Tô sau khi trận bão đi qua. Em hãy viết một đoạn văn ngắn khoảng 6 đến 8 câu trình bày cảm nhận về vẻ đẹp toàn cảnh đảo Cô Tô sau khi cơn bão đi qua, trong đó có sử dụng một câu trần thuật đơn. (Gạch chân,chú thích) – Bắt buộc phải đánh số câu quy định ở sau mỗi câu.

Bài 2: Viết một đoạn văn khoảng 8-10 câu trình bày cảm nhận của em về cảnh mặt trời mọc trên đảo Cô Tô sau khi cơn bão đi qua. Trong đó có sử dụng một câu trần thuật đơn có từ .( Gạch chân, chú thích) – Bắt buộc phải đánh số câu quy định ở sau mỗi câu.

Bài 3: Nằm bên bờ biển Đông, Việt Nam có vùng biển rộng hơn một triệu km² với bờ biển dài hơn 3260 km. Nhưng hiện nay, một số vùng biển đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Trước thực trạng đó, theo em, chúng ta cần phải làm gì để bảo vệ môi trường biển? Hãy trả lời câu hỏi trên bằng một đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu.Bài 1: Qua bài kí Cô Tô, ta thấy được vẻ đẹp trong sáng của biển đảo Cô Tô sau khi trận bão đi qua. Em hãy viết một đoạn văn ngắn khoảng 6 đến 8 câu trình bày cảm nhận về vẻ đẹp toàn cảnh đảo Cô Tô sau khi cơn bão đi qua, trong đó có sử dụng một câu trần thuật đơn. (Gạch chân,chú thích) – Bắt buộc phải đánh số câu quy định ở sau mỗi câu.

Bài 2: Viết một đoạn văn khoảng 8-10 câu trình bày cảm nhận của em về cảnh mặt trời mọc trên đảo Cô Tô sau khi cơn bão đi qua. Trong đó có sử dụng một câu trần thuật đơn có từ .( Gạch chân, chú thích) – Bắt buộc phải đánh số câu quy định ở sau mỗi câu.

Bài 3: Nằm bên bờ biển Đông, Việt Nam có vùng biển rộng hơn một triệu km² với bờ biển dài hơn 3260 km. Nhưng hiện nay, một số vùng biển đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Trước thực trạng đó, theo em, chúng ta cần phải làm gì để bảo vệ môi trường biển? Hãy trả lời câu hỏi trên bằng một đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu.

0
Bài 1: Qua bài kí Cô Tô, ta thấy được vẻ đẹp trong sáng của biển đảo Cô Tô sau khi trận bão đi qua. Em hãy viết một đoạn văn ngắn khoảng 6 đến 8 câu trình bày cảm nhận về vẻ đẹp toàn cảnh đảo Cô Tô sau khi cơn bão đi qua, trong đó có sử dụng một câu trần thuật đơn. (Gạch chân,chú thích) – Bắt buộc phải đánh số câu quy định ở sau mỗi câu.Bài 2: Viết một đoạn văn khoảng 8-10...
Đọc tiếp

Bài 1: Qua bài kí Cô Tô, ta thấy được vẻ đẹp trong sáng của biển đảo Cô Tô sau khi trận bão đi qua. Em hãy viết một đoạn văn ngắn khoảng 6 đến 8 câu trình bày cảm nhận về vẻ đẹp toàn cảnh đảo Cô Tô sau khi cơn bão đi qua, trong đó có sử dụng một câu trần thuật đơn. (Gạch chân,chú thích) – Bắt buộc phải đánh số câu quy định ở sau mỗi câu.

Bài 2: Viết một đoạn văn khoảng 8-10 câu trình bày cảm nhận của em về cảnh mặt trời mọc trên đảo Cô Tô sau khi cơn bão đi qua. Trong đó có sử dụng một câu trần thuật đơn có từ .( Gạch chân, chú thích) – Bắt buộc phải đánh số câu quy định ở sau mỗi câu.

Bài 3: Nằm bên bờ biển Đông, Việt Nam có vùng biển rộng hơn một triệu km² với bờ biển dài hơn 3260 km. Nhưng hiện nay, một số vùng biển đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Trước thực trạng đó, theo em, chúng ta cần phải làm gì để bảo vệ môi trường biển? Hãy trả lời câu hỏi trên bằng một đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu

0
30 tháng 4 2020

Đoạn tả cảnh mặt trời mọc trên biển là một bức tranh rất đẹp, được tác giả thể hiện qua những từ ngữ chỉ hình dáng, màu sắc và những hình ảnh so sánh (chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây bụi; mặt trời nhú lên dần dần, tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn; quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng; y như một mâm lễ phẩm)... Qua cách chọn lọc chính xác các từ ngữ, những hình ảnh so sánh trên đây thật rực rỡ, tráng lệ. Với tài năng quan sát và miêu tả tinh tế của tác giả, cảnh mặt trời mọc ở Cô Tô được thể hiện trong một khung cảnh rộng lớn bao la, đồng thời thể hiện niềm giao cảm hân hoan giữa con người và vũ trụ.

 P/s : Bạn tự tìm nha, mình viết hộ thôi :V

10 tháng 5 2020

Phải biết rằng nếu xét về một phong cảnh nào đó, Cô Tô là một trong những địa điểm hiện lên với một vẻ đẹp tuyệt vời tựa như một bức tranh được đánh giá là tuyệt đẹp sau khi cơn bão đi qua. Với một nền dịu nhẹ mà trong trẻo, bầu trời Cô Tô thật xanh tươi sáng và mặt nước màu lam biếc, nổi bật lên màu xanh mướt của cây, màu vàng giòn của cát và màu trắng của sóng xô dào dạt vào đảo. Không chỉ được miêu tả với những hình ảnh đẹp trên, cảnh Cô Tô được miêu tả từ cao xuống thấp và được viết lên dưới cái nhìn của con người khi đứng trước cảnh đẹp. Từ nóc đồn trên đảo, Nguyễn Tuân nhìn ra bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng, quay gót 180 độ mà ngắm cả toàn cảnh đảo Cô Tô. Ch nên, cảnh đẹp được thu vào tầm mắt khiến nảy sinh trong lòng nhà văn một cảm xúc mãnh liệt: càng thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây. Cùng đó là cảnh sinh hoạt và lao động trên đảo trong một buổi sáng được tác giả tập trung miêu tả vào một địa điểm là cái giếng nước ngọt ở rìa đảo.Khung cảnh thật thanh bình, nhịp điệu của cuộc sống lao động khẩn trương, tấp nập, đông vui. Nhìn cái giếng nước ngọt của đảo Thanh Luân, ta sao có thể đếm xuể rằng cái giếng này thôi, đã có không biết bao nhiêu là người đến gánh và múc. Bên cạnh đó, vẻ thanh bình của cuộc sống còn được thể hiện trong một hình ảnh mang nét riêng của Cô Tô, lại hàm chứa ý nghĩa Trông chị Châu Hoà Mẫu địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành. Được chứng kiến cảnh đó, Nguyễn Tuân đã có sự cảm nhận về sắc thái riêng một cách tinh tế, khi ông so sánh Cái giếng nước ngọt ở rìa một hòn đảo giữa bể, cái sinh hoạt của nó vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền.Từ mỗi vẻ đẹp riêng một khi được gộp lại, đúng là cái riêng góp vào cái chung, làm nên một vẻ đẹp vừa hùng vĩ đường bệ, vừa phồn thịnh và bất diệt, lại rực rỡ, tráng lệ làm lên một ấn tượng riêng đặc sắc về trời biển Cô Tô. Phải là người yêu thiên nhiên, đất nước, Nguyên Tuân mới có thể miêu tả Cô Tô đẹp đến chân thực như vậy, là xa nhưng là gần, phải chăng Cô Tô chỉ ở ngay trước mắt ta?

29 tháng 4 2020

GIÁO DỤC4

bài văn điểm 0 gây bão cộng đồng mạng

  •  

A.H

  • 00:58 13/08/2014

Mặc dù nhận điểm 0 và lời nhận xét gay gắt từ giáo viên, những bài văn này vẫn thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng.

Các bài kiểm tra Văn, Toán luôn là tâm điểm của cộng đồng mạng khi có sự bất thường. Chính vì vậy, bên cạnh những bài văn không có điểm, hoặc đạt điểm cao thì số 0 tròn trĩnh đối với tác phẩm của học trò cũng trở thành đề tài bàn tán của dư luận.

Bài văn về tình thầy trò

Năm 2011, dư luận xôn xao về bài văn dài hơn 2.800 chữ, kín 10 trang giấy thi nhưng vẫn bị điểm 0 vì hoàn toàn lạc đề.

Điều khiến bài kiểm tra này gây chấn động dư luận bởi người viết kể lại câu chuyện của một cô bạn thân tuổi học trò yêu thầy giá              sory vì tớ ko bt

29 tháng 4 2020

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN NGỮ VĂN PHẦN I: ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

26 tháng 6, 2015 lúc 09:14

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN NGỮ VĂN

PHẦN I: ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

A/ ĐỊNH HƯỚNG CHUNG:

A/ Những vấn đề chung

I/ Phạm vi và yêu cầu củaphần đọc – hiểu trong kì thi THPTQG

1/ Phạm vi:

-Văn bản văn học (Văn bản nghệ thuật):

    + Văn bản trong chương trình (Nghiêngnhiều về các văn bản đọc thêm)

    + Văn bản ngoài chương trình (Các văn bảncùng loại với các văn bản được học trong chương trình).

- Vănbản nhật dụng (Loại văn bản có nội dung gần gũi, bức thiết đốivới cuộc sống trước mắt của con người và cộng đồng trong xã hội hiện đại như:Vấn dề chủ quyền biển đảo, thiên nhiên, môi trường, năng lượng, dân số, quyềntrẻ em, ma tuý, ... Văn bản nhật dụng có thể dùng tất cả các thể loại cũng nhưcác kiểu văn bản song có thể nghiêng nhiều về loại văn bản nghị luận và văn bảnbáo chí).

    - Xoay quanh các vấn đề liên quan tới:

+ Tác giả

+ Nội dung vànghệ thuật của văn bản hoặc trong SGK hoặc ngoài SGK.

      - 50% lấy trong SGK (và 50% ngoài SGK).

- Dài vừa phải.Số lượng câu phức và câu đơn hợp lý. Không có nhiều từ địa phương, cân đối giữanghĩa đen và nghĩa bóng.

2/ Yêucầu cơ bản của phần đọc – hiểu

- Nhậnbiết về kiểu (loại), phương thức biểu đạt, cách sử dụng từ ngữ, câu văn,hình ảnh, các biện pháp tu từ,…

-Hiểu đặc điểm thể loại, phương thức biểu đạt, ý nghĩa của việc sử dụng từ ngữ,câu văn, hình ảnh, biện pháp tu từ.

-Hiểu nghĩa của một số từ trong văn bản

-Khái quát được nội dung cơ bản của văn bản, đoạn văn.

-Bày tỏ suy nghĩ bằng một đoạn văn ngắn.

II/ Những kiến thức cần cóđể thực hiện việc đọc – hiểu văn bản

1/ Kiến thức về từ:

-Nắm vững các loại từ cơ bản: Danh từ, động từ, tính từ, trợ từ, hư từ, thán từ,từ láy, từ ghép, từ thuần Việt, từ Hán Việt…

-Hiểu được các loại nghĩa của từ: Nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa gốc, nghĩachuyển, nghĩa biểu niệm, nghĩa biểu thái…

2/ Kiến thức về câu:

-Các loại câu phân loại theo cấu tạo ngữ pháp

-Các loại câu phân loại theo mục đích nói (trực tiếp, gián tiếp).

-Câu tỉnh lược, câu đặc biệt, câu khẳng định, câu phủ định,…

3/ Kiến thức về các biệnpháp tu từ:

-Tu từ về ngữ âm: điệp âm, điệp vần, điệp thanh, tạo âm hưởng và nhịp điệu chocâu,…

-Tu từ về từ: So sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ, tương phản, chơi chữ, nói giảm,nói tránh, thậm xưng,…

-Tu từ về câu: Lặp cú pháp, liệt kê, chêm xen, câu hỏi tu từ, đảo ngữ, đối, imlặng,…

4/ Kiến thức về văn bản:

-Các loại văn bản.

-Các phương thức biểu đạt .

III, Cách thức ôn luyện:Giúp học sinh :

1.     Nắm vững lý thuyết:   -  Thế nào là đọc hiểu văn bản?

-       Mục đíchđọc hiểu văn bản ?

    2 . Nắm được các yêu cầu vàhình thức kiểm tra của phần đọc hiểu trong bài thi quốc gia.

         a/ Về hình thức:     - Phần đọchiểu thường là câu 2 điểm trong bài thi.

                                          - Đềra thường là chọn những văn bản phù hợp (Trong cả chương trình lớp 11 và 12hoặc là một đọan văn, thơ, một bài báo, một lời phát biểu trong chương trìnhthời sự…ở ngoài SGK ) phù hợp với trinh độ nhận thức và năng lực của học sinh.

          b/ Các câu hỏi phần đọc hiểu chủ yếu là kiếnthức phần Tiếng Việt. Cụ thể:

-     Về ngữpháp, cấu trúc câu, phong cách ngôn ngữ.

-      Kết cấu đọan văn; Các biện pháp nghệ thuật đặcsắc và tác dụng của biện pháp đó trong ngữ liệu đưa ra ở đề bài.

* Hoặc tập trung vào một số khíacạnh như:

-     Nội dung chính và các thông tin quantrọng của văn bản?

-      Ýnghĩa của văn bản? Đặt tên cho văn bản?

-      Sửalỗi văn bản….

B/ NỘI DUNG ÔN TẬP:

Phần 1: Lý thuyết:

I.     Kháiniệm và mục đích đọc hiểu văn bản:

 a/ Khái niệm:

-     Đọc làmột hoạt động của con người, dùngmắt để nhận biết các kí hiệu và chữviết, dùng trí óc để tư duy và lưu giữ những nội dung mà mình đã đọc và sử dụngbộ máy phát âm phát ra âm thanh nhằm truyền đạt đến người nghe.

-     Hiểu làphát hiện và nắm vững mối liên hệ của sự vật, hiện tượng, đối tượng nào đó và ýnghĩa của mối quan hệ đó. Hiểu còn là sự bao quát hết nội dung và có thể vậndụng vào đời sống. Hiểu là phải trả lờiđược các câu hỏi Cái gì? Như thế nào? Làm thế nào?

è    Đọc hiểu là đọc kết hợp với sự hình thànhnăng lực giải thích, phân tích, khái quát, biện luận đúng- sai về logic, nghĩalà kết hợp với năng lực, tư duy và biểu đạt.

              b/ Mục đích:

    Trong tác phẩm văn chương, đọc hiểu làphải thấy được:

+ Nội dung của văn bản.

+ Mối quan hệ ý nghĩa của vănbản do tác giả tổ chức và xây dựng.

+ Ý đồ, mục đích?

+ Thấy được tư tưởng của tác giảgửi gắm trong tác phẩm.

+ Giá trị đặc sắc của các yếu tốnghệ thuật.

+ Ý nghĩa của từ ngữ được dùng trong cấu trúcvăn bản.

+ Thể lọai của văn bản?Hìnhtượng nghệ thuật?

II, Phong cách chức năng ngôn ngữ:

  Yêu cầu: - Nắm được có bao nhiêu loại?

- Khái niệm.

- Đặc trưng.

- Cách nhận biết.

1.Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt:

     - Khái niệm: Phong cách ngôn ngữ sinhhoạt là phong cách được dùng trong giao tiếp sinh hoạt hằng ngày, thuộc hoàncảnh giao tiếp không mang tính nghi thức, dùng để thông tin ,trao đổi ý nghĩ,tình cảm….đáp ứng những nhu cầu trong cuộc sống.

    - Đặc trưng:  

 + Giaotiếp mang tư cách cá nhân.

              + Nhằm trao đổi tưtưởng, tình cảm của mình với người thân, bạn bè, hàng xóm, đồng nghiệp.

    - Nhận biết:

+      Gồmcác dạng: Chuyện trò, nhật kí, thư từ.

+        Ngônngữ: Khẩu ngữ, bình dị, suồng sã, địa phương.

2 . Phong cách ngôn ngữ khoa học:

- Kháiniệm : Là phong cách được dùng trong giao tiếp thuộc lĩnh vực nghiên cứu, học tập và phổ biến khoahọc.

  + Làphong cách ngôn ngữ đặc trưng cho các mục đích diễn đạt chuyên môn sâu.

-Đặc trưng

   + Chỉ tồn tại chủ yếu ở môi trường của nhữngngười làm khoa học.

   + Gồm các dạng: khoa học chuyên sâu; Khoa họcgiáo khoa; Khoa học phổ cập.

     + Có 3 đặc trưng cơ bản: (Thể hiện ở cácphương tiện ngôn ngữ như từ ngữ,câu, đọan văn,văn bản).

                      a/ Tính khái quát, trừu tượng.

                      b/ Tính lítrí, lô gíc.

                      c/ Tínhkhách quan, phi cá thể.

3 .Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật:

 -   Kháiniệm:

+ Là loại phong cách ngôn ngữđược dùng trong các văn bản thuộc lĩnh vực văn chương (Văn xuôi nghệ thuật,thơ, kich).

-        Đặc trưng:

 + Tính thẩm mĩ.

 + Tínhđa nghĩa.

+ Thể hiện dấu ấn riêng của tác giả.                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                          

4 .Phong cách ngôn ngữ chính luận:

- Khái niệm: Là phong cách ngôn ngữ đượcdùng trong những văn bản trực tiếp bày tỏ tư tưởng, lập trường, thái độ vớinhững vấn đề thiết thực, nóng bỏng của đời sống, đặc biệt trong lĩnh vực chínhtrị, xã hội.

 - Mục đích: Tuyên truyền, cổ động, giáodục, thuyết phục người đọc, người nghe để có nhận thức và hành động đúng.

- Đặc trưng:

 + Tính công khai về quan điểm chính trị: Rõràng, không mơ hồ, úp mở.

Tránh sử dụng từ ngữ mơ hồ chung chung, câunhiều ý.

          + Tính chặt chẽ trong biểu đạt và suy luận: Luận điểm, luận cứ, ý lớn, ýnhỏ, câu đọan phải rõ ràng, rành mạch.

 + Tính truyền cảm, thuyết phục: Ngôn từ lôicuốn để thuyết phục; giọng điệu hùng hồn, tha thiết, thể hiện nhiệt tình vàsáng tạo của người viết.

(Lấydẫn chứng trong “Về luân lý xã hội ở nướcta”Và “Xin lập khoa luật” )

5 .Phong cách ngôn ngữ hành chính:

- Khái niệm: Là phong cách được dùng trong giao tiếp thuộc lĩnh vựchành chính.

- Là giao tiếp giữa nhà nướcvới nhân dân, giữa nhân dân với cơ quan nhà nước, giữa cơ quan với cơ quan,giữa nước này và nước khác.

- Đặc trưng: Phongcách ngôn ngữ hành chính có 2 chức năng:

+ Chức năng thông báo: thể hiện rõ ở giấy tờhành chính thông thường.

  VD:Văn bằng, chứng chỉ các loại, giấy khai sinh, hóa đơn, hợp đồng,…

+ Chức năng sai khiến: bộc lộ rõtrong các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản của cấp trên gửi cho cấp dưới,của nhà nước đối với nhân dân, của tập thể với các cá nhân.

6 .Phong cách ngôn ngữ báo chí (thông tấn):

      - Khái niệm: Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ dùng để thongbáo tin tức thời sự trong nước và quốc tế, phản ánh chính kiến của tờ báo và dưluận quần chúng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.

    + Là phong cách được dùngtrong lĩnh vực thông tin của xã hội về tất cả những vấn đề thời sự: (thông tấncó nghĩa là thu thập và biên tập tin tức để cung cấp cho các nơi).

Một số thể loại văn bản báo chí:

    + Bản tin: Cungcấp tin tức cho người đọc theo 1 khuôn mẫu: Nguồn tin- Thời gian- Địa điểm-Sự kiện- Diễn biến-Kết quả.

    + Phóng sự: Cung cấp tin tức nhưng mở rộng phần tườngthuật chi tiết sự kiện, miêu tả bằng hình ảnh, giúp người đọc có 1 cái nhìn đầyđủ, sinh động, hấp dẫn.

    + Tiểu phẩm: Giọng văn thân mật, dân dã, thường mang sắcthái mỉa mai, châm biếm nhưng hàm chứa 1 chính kiến về thời cuộc.

II, Phương thức biểu đạt:

Yêucầu: - Nắm được có bao nhiêu phương thức biểu đạt(6).

-   Nắm được: + Khái niệm.

                      + Đặc trưng của...

Hoạt động trên đảo vừa khẩn trương, tấp nập lại vừa vui vẻ, thanh bình. Quanh cái giếng nước ngọt đảo Thanh Luân sớm nay có không biết bao nhiêu là người đến gánh và múc... Người dân chài gánh nước ngọt từ giếng xuống thuyền, chuẩn bị cho mười tám thuyền lớn nhỏ cùng ra khơi đánh cá hồng, vẻ thanh bình của cuộc sống còn được thể hiện ở suy ngẫm và liên tưởng của nhà văn trước hình ảnh: chị Châu Hoà Mãn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền móm cá cho lũ con lành. Nguyễn Tuân cảm nhận rất tinh tế về sắc thái riêng của cuộc sống ở Cô Tô. Điều đó được thể hiện qua so sánh: Cái giếng nước ngọt ở ria một hòn đảo giữa bể, cái sinh hoạt của nó vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền.Cảnh thiên nhiên, cảnh sinh hoạt của con người trên đảo và vùng biển Cô Tô được miêu tả trong đoạn trích thật tươi đẹp, trong sáng và đa dạng qua ngòi bút điêu luyện, giàu cảm xúc của Nguyễn Tuân. Đặc biệt, cảnh mặt trời mọc trên biển là một bức tranh huy hoàng, lộng lẫy đầy chất thơ

29 tháng 3 2016

Đã từ rất lâu rôi, cây tre là người bạn thân thiết của người nông dân, người nhân dân Việt Nam.Tre có mặt ở khắp mọi miền đất nước. Từ những bụi tre nhỏ bên đường đến luỹ tre thân quen ở làng tôi và đến cả những luỹ tre bạt ngàn ở Đồng Nai, đồng bằng sông Cửu Long..Tre làm bạn với ta ở khắp mọi nẻo đường.
Dáng tre tuy có vẻ khẳng khiu nhưng thân tre luôn mọc thẳng như đức tính của mỗi người luôn sống ngay thẳng. Không chỉ có thế, từng cành tre yếu ớt với những chiếc lá xanh mỏng manh đã cùng thân tre chống chọi với mọi thời tiết khắc nghiệt nhất nhưng tre vẫn có thể vượt qua tất cả để rồi lại tiếp tục kiên cường sống với ý chí và lòng kiên nhẫn như người. Trẻ em ngày xưa đã được ông bà, cha mẹ kể cho những câu chuyện cổ tích xưa hàng ngày để cho chúng đi vào trong hồi ức của lũ trẻ, trong số đó cũng có chuyện Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt đánh giặc. Thánh Gióng vừa vươn vai trở thành người lớn liền cầm roi sắt cưỡi ngựa phi thẳng ra trận. Khi roi sắt đột nhiên gãy, anh đã nhổ bụi tre bên đường làm vũ khí cho mình đánh tan quân giặc. Tại bến sông Bạch Đằng lịch sử, Ngô Quyền đã tiêu diệt mấy chục chiếc thuyền chiến của quân Nam Hán khi đóng cọc tre dưới đáy sông làm đắm tàu giặc. Và còn nhiều chuyện khác đều liên quan đến tre và nhờ tre cùng gắng sức chống quân giặc với nhân dân ta. Từ những vũ khí thô sơ ngày xưa như :giáo, cung, tên, ..cũng đều đước làm bằng tre. Cộng đồng của tre cũng như người. Chúng cùng chung sống với nhau hoà bình từng bụi, rồi đại gia đình lớn hơn trở thành luỹ tre dày đặc, cùng bảo bọc cho nhau thể hiện sự đoàn kết gắn bó giữa chúng thất là đáng quý!!!
Luỹ tre đầu làng đã gắn bó với tôi thuở nhỏ. sau khi đã chơi đùa thoả thích, tôi cùng mấy đứa bạn ngồi nghỉ mệt dưới một bụi tre. Cành tre phe phẩy trên đầu chúng tôi như muốn giúp chúng tôi đỡ mệt. Tre không chỉ là thành luỹ chắc chắn của làng mà nó còn xuất hiện thường ngày với đời sống của chúng tôi. Từ ngày mới lọt lòng, trẻ em đã được nằm trong chiếc nôi bằng tre êm ái đung đưa nhẹ nhàng giúp trẻ dễ dàng chìm vào giấc ngủ sâu cùng tiếng ru hời của mẹ. Khi đã lớn hơn một chút, trẻ em có ống sáo tre, trúc làm bạn cùng cất lên những âm thanh vén von, êm ả những khúc nhạc đồng quê giản dị:"con cò là cò bay lả, lả bay la....",làm khoan khoái đôi tai của đàn trâu đang ung dung gặm cỏ. Cái hay của tiếng sáo tre là có thể vang vọng rất xa và tiếng mới trong trẻo làm sao !như tất cả đều là nhờ vật liệu làm ra saó, cây tre. Sau khi đã trưởng thành, mọi người trong mỗi bữa cơm sẽ bắt gặp cách đong gạo bằng rổ tre, cách làm rổ tre cho những việc khác nữa. Đến thứ để gấp thức ăn vào miệng lại chính là chiếc đũa tre. Với tuổi già lại lấy làm vui với chiếc tẩu thuốc bằng tre.Hễ hút thuốc lại thấy khoan khoái cả người. Đến cả khi gần đất xa trời, lại nằm trên chiếc giường tre để an nghỉ. Tre với mọi người, tre chào đón, nâng niu sinh linh mới, tre buồn rũ đưa tiễn người ra đi. Thật là thuỷ chung! Tre bảo bọc cho mỗi người từ nhỏ đến lớn., Thử hỏi xem có đứa trẻ thôn quê nào dám nói là mình không có tình cảm với tre? Đến những chiếc diều giấy tự làm của bọn trẻ cũng có khung làm từ tre. Nhanh nhẹn bắt lấy từng que chuyền đánh chắc bằng tre, trò chơi quen thuộc của các bạn nhỏ. Tre cũng như con người rồi cũng có lúc phải chết nhưng cứ mỗi cây tre ngã xuống sẽ mọc lên một mầm sống mới, đó là măng. Dù có ra đi, tre cũng để lại con của mình với niềm hi vọng chúng sẽ tiếp nối thế hệ cùng hoà đồng, giúp đỡ, che chở cho con người như thế hệ tre đi trước...
Sau này, lớn lên, dù có đi đến bất kì nơi đâu, bất kì cảnh quan tuệt đẹp nào cùng những biểu tượng hoa mĩ đến dường nào, tôi cũng có thể tự tin vỗ ngực nói với bạn bè thế giới rằng:"nới dẹp nhất chính là quê hương tôi. Ở đó, cây tre là biểu tượng, niềm tự hào rực rỡ của dân tộc tôi, quê hương tôi, đất nước tôi, cuộc đời tôi. Cao quý nhưng không mĩ lệ, cây tre Việt Nam!!!

Tham Khảo

Nguyễn Tuân thật sự tài tình khi miêu tả cảnh mặt trời mọc trên biển đảo Cô Tô.  Khung cảnh biển đảo Cô Tô được mở ra trước mặt với đầy màu sắc. Trời vừa rạng đông thì "Chân trời, ngấn bể sạch như một tấm kính lau hết mây". Cảnh tượng thật trong trẻo, tinh khiết của bầu trời và vầng dương hiện lên "Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết". Mặt trời lúc ấy dịu êm, không có chói lóe, không làm nhức mắt người xem. Chúng ta cảm thấy được vầng mặt trời hiền hòa phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Vẻ đẹp của mặt trời mọc trên biển Cô Tô quả thật là cảnh đẹp trời ban và trên cảnh đẹp đó không thiếu đi hình ảnh con người, một con người lao động. Cảnh bình minh trên biển thật là đẹp, hệt như một bức tranh sơn mài tuyệt mĩ.

29 tháng 7 2021

Em tham khảo:

Nếu ai đã một lần đọc văn bản Cô Tô của Nguyễn Tuân, chắc hẳn không thể quên được hình ảnh mặt trời mọc trên đảo. Cảnh bình minh ở nơi đây thật khác so với cảnh bình minh ở nơi khác. Bằng biện pháp so sánh vô cùng đặc sắc, thú vị, tác giả đã tạo nên một cảnh bình minh thật huyền ảo, đẹp đến mê hồn.  " Sau trận bão... hết mây, hết bụi" một bầu trời thật quang đãng, sáng sủa khi mặt trời lên, bầu trời đó sạch như một tấm kính, có thể nhìn thấy thông suốt, nhìn xuyên qua cả bầu trời. " Mặt trời nhú dần lên... quả trứng thiên nhiên đầy đặn" ông mặt trời từ từ nhô lên cao, tròn trĩnh, đỏ tươi giống như lòng đỏ trứng, điểm thêm vẻ đẹp phúc hậu, rộng lượng, đầy sức sống cho mặt trời qua việc sử dụng biện pháp nhân hóa. Tác giả cũng thật khéo léo khi kết hợp cả biện pháp ẩn dụ, lấy hình ảnh quả trứng để nói đến mặt trời, lấy chiếc mâm bạc để diễn tả mặt biển. Hai thứ này giống như một mâm lễ phẩm dâng tặng những chài lưới trên biển, mong cho họ mãi bền chặt, giữ vững tinh thần lao động không ngừng nghỉ vốn có. " Vài chiếc nhạn mùa thu... là là nhịp cánh..." hình ảnh đó mới thật bình yên làm sao, thật ung dung, thư thái, khiến cho ai một lần đến nơi này cũng không thể nào quên cái vị ngọt ngào, đằm thắm của đảo Cô Tô. Thật lộng lẫy, huy hoàng, thơ mộng biết bao!