Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Mình ko có thời gian tả, nhưng góp cho bạn là mình thích đọc sách Tổng Hợp Về Hero Team đc bán ở Hải Dương
Bạn tham khảo nhé !!!!!!!!!!!!!!!!!!!
Có những câu chuyện đọc rồi sẽ quên. Nhưng cũng không ít quyển sách đã để lại ấn tượng khó phai, là tiền đề, mục đích, lí tưởng và là bệ phóng hướng con người tới những chân trời tương lai tươi mới. “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh là một quyển sách như vậy.
Tôi tin với bất cứ ai từng đọc tác phẩm này đều không thể quên được thế giới mông lung và đầy mơ mộng trong con mắt của cậu bé tám tuổi tinh nghịch. Nhưng thế giới ấy chẳng hề xa hoa, bí ẩn hay mĩ miều như trong những câu chuyện cổ tích gắn liền với tuổi thơ của mỗi đứa trẻ mà nó chính là góc khuất thầm kín trong tâm hồn, là những kí ức chân thật nhất, là tấm gương rọi vào quá khứ phản chiếu lại biết bao kỉ niệm của một thời thơ ấu đã qua.
Nguyễn Nhật Ánh đã tặng bạn đọc một tấm vé trên chuyến tàu đặc biệt để mỗi người chúng ta có thể lật lại trang sách thời gian nhuốm màu dĩ vãng này trở về dòng sông trong trẻo của tuổi thơ và gột rửa hết những bụi bặm, những bế tắc, những phù phiếm ở thế giới người lớn. Xin đừng vội nghĩ rằng đây chỉ là tác phẩm sáo rỗng, vô vị dành cho bọn trẻ con mà đánh mất đi cơ hội tìm về chính bản thân mình, tìm về chính bản chất đơn thuần nhất của cuộc sống, cũng như tác giả đã từng khẳng định “Tôi viết cuốn sách này không dành cho trẻ em. Tôi viết cho những ai từng là trẻ em”.
Xuyên suốt quyển sách là câu chuyện xoay quanh nhóm bạn bốn người với những “ông cụ, bà cụ non” khoác trên mình hình hài trẻ thơ gồm: nhân vật tôi (cu Mùi), con Tí sún, thằng Hải cò và Tủn - hoa khôi của xóm. Qua hành trình khôn lớn của những “bé con” đó, tôi như được chứng kiến một thước phim quay chậm lúc thì mờ ảo, nhiễu loạn nhưng có lúc hình ảnh về ngày tháng tuổi thơ lại hiện lên rõ nét, sinh động ngỡ như mới chỉ ngày hôm qua.
Những hồi ức ấy nào có phải toàn mang ánh hào quang rực rỡ, nào có phải là bản hùng ca với đầy chiến tích đáng tự hào mà với cu Mùi, nó đơn thuần chỉ là nỗi buồn không rõ nguồn gốc về cuộc sống cũ kĩ theo vòng tuần hoàn tẻ nhạt “Vẫn ánh mặt trời ấy chiếu rọi mỗi ngày. Vẫn bức màn đen đó buông xuống mỗi đêm. Trên mái nhà và trên các cành lá sau vườn, gió vẫn than thở giọng của gió. Chim vẫn hót giọng của chim. Dế ri ri giọng dế, gà quang quác giọng gà”.
Và hơn hết sự nghịch ngợm, ngổ ngáo của cậu nhóc lên tám còn thể hiện rất chân thật qua những năm mài đũng quần trên ghế nhà trường với niềm vui thú đến lớp để tán gẫu, cãi cọ, cấu véo, ngủ gật hay chọn vị trí tối tăm cho ít bị kêu lên bảng trả bài. Ngay ở chương đầu tiên của quyển sách, chắc hẳn người đọc đã thoáng có chút giật mình, lắng đọng xen lẫn ngượng ngùng khi bắt gặp chính hình bóng của mình trong thời áo trắng qua nhân vật trữ tình.
Dù bạn có dám thừa nhận hay không thì ở cái tuổi ham chơi, hiếu động ấy thì việc học như một nghĩa vụ giam cầm ta trước bao nhiêu trò chơi hấp dẫn, trước bao nhiêu khung trời mới mẻ và giờ ra chơi chính là thời gian thần tiên để chú chim non sổ lồng tìm chút niềm vui ngắn ngủi.
Mạch liên tưởng độc đáo đó như thể là một chiếc chìa khóa vạn năng chạm tới mọi góc khuất riêng tư nhất trong miền kí ức của tôi, kí ức về cô học sinh lớp ba luôn thơ thẩn, mơ mộng về những bài toán chia dài ngoằng thành biết bao tòa cao ốc đồ sộ mà chính tôi là vị kiến trúc sư đại tài thiết kế nên hay những dòng chữ gà bới đang múa lượn trong quyển vở tập viết với tôi lại là món mì xoắn ốc mới mẻ, ngon lành dưới bàn tay khéo léo của đầu bếp cừ khôi…
Có lẽ tôi và rất nhiều “bạn nhỏ” khác cũng đã hoặc đang đánh mất rất nhiều năm học tập quý giá, đánh mất rất nhiều kiến thức bổ ích nhưng tôi sẽ chẳng chối bỏ tuổi thơ đó, chẳng chối bỏ lỗi lầm đó vì con người không ai có thể luôn hoàn hảo, nếu ta không đủ can đảm nhìn nhận quá khứ, nhìn nhận những thiếu sót của bản thân thì ta chỉ đang tự lừa dối chính mình bởi vỏ bọc hoàn thiện giả tạo.
Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh cũng đã nêu triết lý “Để sống tốt hơn đôi khi chúng ta phải học làm trẻ con trước khi học làm người lớn”, thật vậy qua những lời kể chân thật về tuổi thơ đã qua, tác giả đã nhẹ nhàng gởi gắm những tư tưởng mang tính giáo dục sâu lắng, nhẹ nhàng gõ tiếng chuông vang vọng vào tiềm thức con người giúp ta khai phá nên những chân lý mới lạ.
Văn phong của tác giả nửa như giễu cợt, bông đùa, nửa lại mang hơi hướng triết lý sâu sắc truyền đạt tới đông đảo bạn đọc và đôi khi là các bậc cha mẹ nói riêng. Chắc ta không thể quên lời than phiền của cu Mùi “Người lớn thường cho phép mình làm tất cả những gì mình thích, kể cả những ý thích rất vớ vẩn và cấm trẻ con làm tất cả những gì họ không thích, và sự cấm cản của họ nhiều khi cũng vớ vẩn nốt”, đôi khi vì quá yêu thương con mà cha mẹ vô tình thái quá sự phán xét và áp đặt trẻ bởi họ luôn muốn con mình nhận lấy mọi điều tốt đẹp và tránh xa những cạm bẫy.
Nhưng liệu có quá bất công khi chúng ta tước đi quyền được vấp ngã của con trẻ và ép chúng vào khuôn mẫu hoàn hảo chỉ chứa niềm vui và sự sung túc? Nghe có vẻ nghịch lý nhưng nó cũng giống như một món ăn tuy ngon đến mấy nhưng ăn hoài sẽ thành chán ngán, tầm thương ví như bước đường ta đi nếu quá bằng phẳng và trải đầy hoa hồng thì hạnh phúc cũng trở nên nhàm chán, vô vị vì đời người chỉ được một lần sống, ta chỉ một lần được trải nghiệm hết những hỉ, nộ, ái, ố, đau thương.
Có đứa bé nào tập đi mà chưa từng vấp ngã, đứa bé chưa từng nói ngọng sẽ không thể phát âm tròn vành, rõ chữ vậy nên qua tác phẩm Nguyễn Nhật Ánh còn muốn gởi thông điệp đến “những người lớn” hãy để con cái được phát triển tự nhiên nhất, ta chỉ nên khuyên răn chứ đừng ngăn cấm chúng khám phá thế giới dù biết trước đó là ngõ cụt bởi ta cũng đã từng được trải nghiệm nên hãy để trẻ con vươn tới tương lai bằng chính đôi chân nhỏ bé của bản thân.
Không chỉ vậy, trong “cho tôi một vé đi tuổi thơ” làm mỗi người lớn phải thốt lên khâm phục trước sự sáng tạo, mộng mơ của bọn trẻ mà cũng chính là của ta ngày xưa. Đó là mong ước muốn “đặt tên cho thế giới”, dùng trí tưởng tượng biến cái gối thành búp bê, biến cái nón thành cuốn tập, con chó thành bàn ủi, chiếc quạt máy thành cái tivi và thằng Mùi là Thầy hiệu trưởng…
Chúng không hề lố bịch, quậy phá mà bản chất của trò chơi “kì lạ” đó là ước muốn thầm kín được thay đổi thế giới xung quanh trở nên mới mẻ, tinh khôi như thể được sinh ra một lần nữa, để chúng khỏi chán ngắt với việc ăn, ngủ, đến lớp và học bài. Nhưng có lẽ trong tác phẩm người đọc thích thú nhất vẫn là cái tình cảm ngô nghê, hồn nhiên của cu Mùi với cô bạn Tủn mà thấp thoáng hiện lên lời bộc bạch rất ngây thơ.
“Sau này tôi biết đó là cảm giác ghen tuông, tất nhiên là ghen tuông theo kiểu trẻ con, còn lúc đó tôi chỉ cảm thấy khó chịu”. Đó là tình yên con nít mà có lẽ là trong sáng, thiêng liêng hơn cả vì nó không hề bị vẫn đục bởi vòng xoáy của tiền tài, danh lợi và không bị chi phối, bão hòa cảm xúc khi người lớn cố lập trình, lên kế hoạch để ép thứ cảm xúc vô hình vào khuôn khổ chặt chẽ.
Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ- một tác phẩm mở ra thiên đường trong trẻo, tràn ngập hoa nắng và tiếng cười giòn giã của trẻ thơ. Nguyễn Nhật Ánh đã kết nối những trang hồi ức vô tình bị lãng quên hay thậm chí là đánh mất giữa dòng đời xô bồ, tấp nập này. Ông đã mang bạn đọc từ khắp mọi nơi, mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp lên chung một chuyến tàu về lại sân ga tuổi thơ để từ đó bắt đầu hành trình tìm lại chính mình, chính bản chất “nhân chi sơ tính bản thiện”.
Đọc tác phẩm mà mỗi hình ảnh, mỗi hành động, lời nói của bốn nhân vật đều để lại trong tôi một sự khắc khoải, ám ảnh sâu sắc, ám ảnh về dòng chảy hờ hững của thời gian đã mang đi mất của tôi rất nhiều thứ, mang đi mất những tháng ngày rong ruổi dạo chơi khắp xóm, mang đi mất những người bạn thân thiết đã từng là tất cả với tôi và hơn hết là mang đi mất chính hình bóng tuổi thơ thậm chí là biết bao hoài bão cháy bỏng mà tôi đã từng khát khao thực hiện cũng bị lớp bụi thời gian xóa mờ, vùi lấp.
1. Về đề tài: Lần đầu tiên trong văn học phương Tây, tình yêu được đề cập một cách chân thực, có tính cách mẫu mực (classique) ở sự mở đầu, diễn biến và phát triển của nó; ở tính chất, cường độ, ý nghĩa của tình cảm. Lược qua mảng đề tài này trong văn học phương Tây trước Shakespeare, vấn đề thực sự sáng rõ.
Trong thần thoại Hy Lạp, tình yêu đã được nói đến cùng với sự xuất hiện của con người ở thời kỳ cổ đại. Nhưng tình yêu lúc đó chỉ là những mối tình đơn tuyến, hay đơn phương giữa các vị thần Hy Lạp và những con người trần tục, hay giữa các vị thần có quyền uy với những tiên nữ yếu đuối. Cho nên mới có huyền thoại về niềm say đắm của thần Apollon đã khiến cho tiên nữ Daphnée phải thoát trần biến thành cây nguyệt quế. Cho nên cũng lại có đầy rẫy những câu chuyện ngoại tình của ông tổ của những kẻ trăng hoa là Zeus... Và cũng lại có bấy nhiêu những kiếp người đoản mệnh phải trở thành nạn nhân của “Hoạn Thư cổ đại” là bà Héra...
Trong sử thi của Homère, tình yêu không có tầm quan trọng to lớn, không có một ý nghĩa đích thực vốn có. Có chăng, nó được thể hiện qua hình thức hôn nhân - gia đình của các nhân vật trần thế: Hector - Andromaque, Ulysse - Pénélope; hay có chăng nó bị lên án là vô luân lý (Paris - Héllène) vì nó gây ra một cuộc chiến đẫm máu giữa hai tộc người cổ đại (Hellas - Troie); hay có chăng nữa, nó không sâu sắc, nó cũng một chiều (Achille - Briséis),...
Trong thơ trữ tình cổ đại, với Sapho, tình yêu là ngọn lửa của dòng máu hơn là nhiệt huyết của con tim.
Trong bi kịch Hy Lạp cổ đại, nhân vật không biết đến tình yêu theo nghĩa lãng mạn. Hémon xuất hiện là để bày tỏ thái độ với cha, vì cha, chứ không phải vì Antigone mà chàng sẽ cưới và đã không bao giờ cưới được; Jason lại lợi dụng Médée; Phèdre thì yêu một cách tội lỗi và bệnh hoạn qua dục vọng xác thịt do thần Venus giật dây,...
Virgile của văn học La Mã cổ đại đã nói đến những rung động của tình yêu theo kiểu “một thoáng hôn mê dịu nhẹ xâm chiếm tâm hồn người dũng tướng Troie”, nhưng rồi nhân vật của ông, cả Énée, cả Didon, cuối cùng đều “đặt tình yêu xuống chân sự nghiệp”.
Tristant và Iseult của truyện tình hiệp sĩ thời Trung cổ gắn bó với nhau đến tận cuối đời vì cùng uống phải men Yêu.
Đầu thời Phục Hưng, tình yêu của Pétraque, của Dante mang tinh thần tôn giáo, còn Boccaccio mãnh liệt nhưng nhuốm màu tự nhiên chủ nghĩa.
Tóm lại, trước Shakespeare, tình yêu trong văn học phương Tây chưa phải là một tình yêu đích thực, đúng nghĩa của tình yêu. Chỉ đến Shakespeare, người ta mới có thể tìm thấy hình mẫu của một tình yêu đích thực (Í amour modèle).
Với Romeo and Juliet, tình yêu đã đi những bước khởi đầu hữu lý của nó từ sự rung động của hai con tim trên cơ sở triết lý tự nhiên của thời đại Phục Hưng. Để có được sự rung động thuyết phục, Shakespeare đã để cho hai nhân vật phải lòng nhau bởi hình thức tuyệt mĩ mà con người thời đại Phục Hưng được dịp phô bày sau đêm trường Trung cổ phải che đậy. Chàng Romeo ngơ ngẩn trước nhan sắc “tuyệt thế” của nàng Juliet mà chàng coi là “báu vật” và quyết định “khi bản đàn chấm dứt sẽ tìm đến chỗ nàng để bàn tay phàm tục này được diễm phúc nắm tay người đẹp” (Hồi I, Cảnh 1). Còn nàng Juliet cũng xiêu lòng trước vẻ hào hoa phong nhã của Romeo mà cha nàng đã từng khen là “đàng hoàng lịch sự”, “đức hạnh”, “mực thước”, và khi đổi trao đến nụ hôn thứ hai đã quyết định bất ngờ: “Nếu chàng đã có vợ rồi thì có lẽ nấm mộ kia sẽ là giường cưới của ta” (Hồi I, Cảnh 1).
Như vậy từ buổi dạ yến định mệnh ở nhà Capiulet, Romeo và Juliet đã thuộc về nhau cả tâm hồn lẫn thể phách bởi một tình yêu trong sáng, nồng nhiệt, say đắm và thủy chung, mặc dầu họ không được phép yêu nhau bởi họ là con cái của hai bên thù địch.
Nhưng nhờ yêu nhau say đắm và mãnh liệt, họ đã vượt qua được những trở ngại ban đầu: mối thù dòng họ.
Cũng nhờ say đắm nhưng lành mạnh và nghiêm túc, đôi bạn mà tuổi đời vừa chớm hoa niên này đã tính chuyện trăm năm khiến những kẻ thiếu thiện ý không khỏi nghi ngờ: “Chàng ơi, em muốn chẳng vượt vòng lễ giáo... Nhưng thôi, khách sáo làm gì?... Chàng Romeo phong nhã hỡi, nếu chàng yêu em thì xin cứ thẳng thắn nói lên... Nếu tình ai kia là của người chính nhân quân tử, nếu ý chàng là muốn cùng em kết tóc xe tơ, thì ngày mai em sẽ cho người đến gặp chàng; chàng sẽ cho biết chàng muốn hôn lễ cử hành ngày nào, chỗ nào. Lúc đó em xin trao thân gửi phận trong tay chàng và nguyện theo phu quân tới nơi chân trời góc biển” (Hồi II, Cảnh 2). Và Romeo đã hẹn nàng “chín giờ” “ngày mai” (Người ta sẽ còn nói nhiều về mối tình sét đánh chỉ vẻn vẹn 4 ngày này trong suốt hơn 4 thế kỷ sau).
Cũng nhờ say đắm, cô tiểu thư khuê các Juliet chưa đến độ trăng rằm đã có đủ nghị lực và lòng dũng cảm để bảo vệ tình yêu trước nghịch cảnh và tử thần, để chung thủy với người mà mình lựa chọn. Còn chàng Romeo tuấn tú? Nếu như trong tác phẩm, Shakespeare không một lần để ai đó nghi ngờ lòng chung thủy của nàng Juliet, thì ông lại để cho mọi người chỉ trích quá nhiều đến chàng Romeo “hay thay lòng đổi dạ”:
Mercutio: “... Romeo! con người hay thay đổi, con người điên rồ, con người yêu đương say đắm, con người si tình kia ơi!... (Hồi II, Cảnh 1)
Tu sĩ Lawrence : “Lạy thánh Franxit! Thay đổi nhanh chưa! Con yêu Rôdalin thiết tha như vậy mà đã vội quên người ta sao?... này chàng trai trẻ dễ thay dạ đổi lòng kia,...” (Hồi III, Cảnh 3)
Nhưng có cần phải minh oan cho chàng không, khi rõ ràng nàng Rosaline mà Romeo si mê trước đó đã không thể sánh tày nàng Juliet về nhan sắc: “Tim ta tới nay đã yêu ai chưa nhỉ? Không, không, hỡi đôi mắt ta ơi, hãy nói là chưa đi! Vì chỉ tới đêm nay ta mới được thấy một con người thật là tuyệt sắc!” (Hồi I, Cảnh 5). Và hơn nữa, Rosaline đã không xứng đáng với chàng, vì tình yêu cũng cần được nuôi dưỡng bởi sự đáp đền, bởi cho và nhận... Vậy mà, với Rosaline, Romeo chỉ nhận được... nỗi buồn “tôi chẳng được yêu đâu”, bởi cô gái này có “đức kiên trinh che chở như áo giáp, cung tên trò trẻ của thần Ái tình phạm sao tới được người nàng!” (Hồi I, Cảnh 1). Cho nên đáp lại sự chế giễu của cha Lawrence , Romeo đã khẳng định có cơ sở rằng: “Người yêu của con hiện giờ thì ân trả lại ân, tình đáp lại tình. Chẳng như cô ả kia đâu”.
Chính sự hòa hợp giữa hai tâm hồn mới là cơ sở cho một tình yêu đích thực vững bền. Romeo và Juliet là một đôi như thế. Hành động cùng chết bên nhau của họ đã là dấu ấn sau này mang “thương hiệu”: “Romeo-Juliet”. Một người dễ “thay lòng đổi dạ” sẽ không lao đến với cái chết khi quan niệm “thiên đường là nơi có nàng Juliet” như Romeo. Một người “hay thay đổi” không thể gấp gáp và tuyệt vọng như thế khi đi mua thuốc độc để tự tử bởi nhận được tin vợ mình đã chết. Và một người “hay thay đổi” sẽ không có được vẻ hài lòng như thế khi quyết “nâng chén vì em” (uống thuốc độc) và mãn nguyện như thế khi nói: “Thế là ta được hôn nàng mà chết” như Romeo.
Kể từ đó, những người lấy tình yêu làm lẽ sống không ai không trải qua những cung bậc thống thiết đó của tình yêu. Nhưng điều làm nên tầm vóc lý tưởng của mối tình Romeo-Juliet còn là ở chỗ nó khẳng định một giai đoạn đẹp đẽ nhất của tình yêu khi tình yêu chưa bị va chạm với những mặt trái như lòng ghen tuông và sự dung tục tầm thường của cuộc đời chồng- vợ.
2. Về nhân vật: Sự khẳng định tình yêu chân chính, tình yêu đích thực còn được Shakespeare thể hiện qua nghệ thuật xây dựng nhân vật. Ngoài ngoại hình lý tưởng, Shakespeare còn chú trọng mô tả nội tâm nhân vật sao cho phù hợp với cái logic khách quan của hành động. Ông đã đặt người con gái liễu yếu đào tơ Juliet trước những thử thách vô cùng khốc liệt để qua đó nhằm khẳng định lòng chung thủy của nàng. Với Juliet, những thử thách bên ngoài (mối thù dòng họ, lễ giáo phong kiến) đã được vượt qua không mấy khó khăn bởi vì cũng như Romeo, nàng cho thấy “Cái gì tình yêu dám làm là làm được”, nhưng khi phải đối diện với bản thân mình, vấn đề không còn đơn giản. Ở đây Shakespeare đã chuyển xung đột kịch từ bên ngoài (xung đột giữa nhân vật với môi trường sống) vào bên trong tâm hồn nhân vật, đem lại cho nghệ thuật văn chương bước trưởng thành đáng chú ý.
Trong tiến trình vở kịch, sau khi Romeo bị trục xuất khỏi Vérone vì phạm tôi giết người, Juliet bị cha mẹ ép phải kết hôn với chàng Paris mà nàng đã phản đối vì “chưa từng trò chuyện với người ta bao giờ”, nhưng vẫn không thuyết phục được mẹ cha. Điều khủng khiếp nhất có thể xảy ra - đó là phải làm vợ một người mà nàng không yêu và phải xa vĩnh viễn người nàng yêu say đắm - đã dẫn Juliet đến gặp cha Lawrence , nhờ cha giải thoát. Và cũng chính khát vọng được sống cùng Romeo đã cho nàng can đảm để đón nhận giải pháp của ông tu sĩ tốt bụng, uống thuốc ngủ vờ chết trong 42 giờ đồng hồ: “Cha đưa thuốc cho con! Xin cha cứ đưa, và đừng nói chuyện sợ hãi gì cả!... Ôi tình yêu, ngươi sẽ cho ta sức mạnh! Sức mạnh của tình yêu sẽ giúp ta thành công” (Hồi IV, Cảnh 1).
Những tưởng mọi chuyện sẽ diễn ra trôi chảy như quyết tâm của nhân vật chính. Nhưng nếu như mọi chuyện diễn ra trôi chảy, giá trị thẩm mĩ của tác phẩm sẽ mờ nhạt đi biết mấy. Shakespeare không tầm thường để kết cấu tác phẩm không giàu kịch tính. Có thể nói, đoạn độc thoại nội tâm của Juliet trước lúc uống thuốc ngủ ở Cảnh 3, Hồi IV là một ngữ cảnh vô song góp phần làm nên vẻ đẹp của kiệt tác mà ít người chú ý. Đoạn độc thoại nội tâm của Juliet với gần 500 từ nói lên tất cả lòng dũng cảm và nghị lực, lẫn những trở trăn dằn vặt và cả nỗi sợ hãi, sự thỏa hiệp rất đỗi Con người của nàng Juliet.
Khi còn lại một mình, thoạt đầu Juliet đã vô cùng sợ hãi, đến nỗi nàng đã định gọi mẹ và nhũ mẫu ở lại: “Một mối lo sợ không đâu đã thấm lạnh vào mạch máu ta, hình như làm ngưng đọng cả hơi nóng của đời sống” Phải gọi họ lại cho đỡ sợ...”. Nhưng rồi nhận thức rõ ý nghĩa hành động của mình, nàng trấn tĩnh lại và ra lệnh cho bản thân: “Cái màn kịch hãi hùng này ta phải diễn một mình. Nào, cầm lấy lọ này!”. Chỉ cần một ngụm thôi, nàng có thể trở thành người hạnh phúc nhất... Nhưng Juliet bỗng trở nên lưỡng lự: “... nhỡ thuốc không hiệu nghiệm thì sao?” và nghĩ đến điều xấu nhất: “Sáng mai ta sẽ phải làm vợ người ta chăng?”. Nếu thế nàng đã có phương án dự phòng chứ nhất quyết không chịu làm vợ chàng Paris : “Không, không. Vật này sẽ không cho phép việc đó xảy ra”, và nàng “đặt một lưỡi dao găm xuống cạnh giường”. Đến đây ta có thể yên tâm vì biết rằng Juliet sẽ không thay đổi thái độ. Vậy nhưng Shakespeare lại “trêu ghẹo cảm xúc của khán giả”, bắt chúng ta phải hồi hộp khi để cô bé Juliet đa nghi như một người từng trải: “Nhưng nhỡ thuốc đây là thuốc độc mà ông thầy tu đa mưu kia muốn dùng để giết ta thì sao? Có thể ông sợ rằng lễ thành hôn này sẽ làm ông mất danh dự, vì trước kia ông đã làm phép cưới cho ta và Romeo rồi chăng? Ta sợ ông ta làm thế mất”. Và như thế có nghĩa nàng sợ chết. Nhưng rồi nàng lại phủ nhận sự nghi ngờ đó và thấy mình không phải: “... không, không thể thế được. Từ trước đến nay ai cũng công nhận người là một thánh nhân... Ta không nên nghĩ bậy như vậy”.
Rõ ràng Juliet đã nghi ngờ lòng tốt của vị tu sĩ đáng kính, song lại chẳng hề nghi ngờ tình yêu của Romeo dành cho mình và của mình dành cho Romeo! Nhưng nàng vẫn không thể lấy tình yêu để trấn an mình khi tưởng tượng nỗi hãi hùng của hầm mộ mà mình sẽ nằm vào đấy: “Nhưng nếu một khi họ đã đặt ta vào trong hầm mộ, mà ta tỉnh dậy trước khi Romeo tới để đưa ta ra khỏi nơi đó thì sao? Ôi thật là kinh khủng! Phải chăng ta sẽ bị ngạt trong cái hầm ấy?... Phải chăng ta sẽ ngạt thở mà chết trước khi Romeo tới kịp?”. Nỗi sợ phải chết lại bám riết lấy nàng, dẫn nàng đi xa hơn: “Hay nếu có sống được chăng nữa, giữa cảnh chết chóc âm u, ở một nơi kinh khiếp như vậy, thì cũng đến... hóa điên mất!”. Ôi, Juliet đáng thương! Nàng bé bỏng, cô đơn, yếu đuối, nàng bấn loạn là lẽ thường tình. Ai ở vào tình cảnh đó mà ung dung tự tại mới là kẻ không bình thường, mới là giả dối. Do đó, đây là nỗi sợ hãi mang tính người nhiều nhất mà nhà hiện thực chủ nghĩa Shakespeare đã phanh phui ra được, như một nhược điểm trong tâm lý của người đời. Nỗi sợ hãi này còn khủng khiếp hơn cả cái chết. Bởi nếu chết đi, nàng sẽ không còn phải sợ, không còn phải buồn, không còn phải tuyệt vọng... Điều đáng chú ý là dù tuyệt vọng như thế nhưng không mảy may Juliet nghĩ mình phải làm ngược lại để trốn chạy nỗi sợ. Có thể người con gái mỏng manh này thay đổi thái độ được lắm chứ (dù chỉ trong suy nghĩ): Tại sao nàng phải tự hành hạ mình? Chỉ cần nỗi sợ này chiến thắng, chỉ cần dừng tay lại, vứt lọ thuốc đi, Juliet sẽ có tất cả: sự sống, danh vọng, địa vị, tiền tài, bởi chàng Paris sẽ cho nàng tất cả những thứ kia. Đúng, nàng sẽ có tất cả, duy chỉ không có tình yêu. Tình yêu mà vì nó cả thân thể và tâm hồn nàng bị vò xé như thế này đây. Tình yêu mà từ ba hôm trước, đã trở thành lẽ sống của cả cuộc đời nàng. Vậy thì làm sao mà người con gái kiên cường này lại có thể phản bội tình yêu dù chỉ trong ý nghĩ! Quả Juliet đã không hề hèn nhát. Thậm chí trong tột cùng nỗi sợ của riêng mình, nàng vẫn lo lắng cho người yêu, sợ rằng người anh họ đã chết của nàng có thể báo thù người mà nàng yêu dấu: “Ô kìa, hình như ta thấy bóng ma của biểu huynh bị gươm Romeo đâm thủng ngực đang đi tìm chàng...”. Và nàng cuống quít, như là để bảo vệ cho bằng được người yêu: “Đứng lại, Tibân! Hãy đứng lại!... Romeo hỡi, em đến đây!”. Thế rồi lọ thuốc được đưa lên, còn Juliet thì ngã xuống...
Ở cuối đoạn độc thoại nội tâm của Juliet, hình ảnh sau cùng mà nàng mang theo chính là hình ảnh chói lọi của Romeo. Chỉ nó thôi đã thiêu đốt nỗi sợ hãi của Juliet ra tro. Nếu tình yêu của Juliet dành cho Romeo chỉ là những tình cảm nhất thời, hẳn nàng sẽ chẳng đủ nghị lực để đương đầu với tất cả, những thử thách bên ngoài và cả những thử thách bên trong: mối thù dòng họ, lễ giáo phong kiến, xung đột anh em, sự trái ngang của duyên phận, sự tuyệt vọng trước chia ly, nỗi sợ hãi trong hầm mộ,... Chính tình yêu đã cho nàng sức mạnh, đặc biệt là khi nàng phải đối diện với nỗi sợ hãi lớn nhất - đó là nỗi sợ không chế ngự được bản thân mình.
Như thế tình yêu của Juliet dành cho Romeo thật đáng ao ước biết bao.
Cũng có lẽ từ đây, nhờ biện pháp khắc họa tâm lý nhân vật tài tình của Shakespeare mà người đời tìm thấy mình trong nhân vật của ông. Shakespeare đã khái quát được những trạng thái tình cảm chân thực của con người, đặc biệt là người con gái khi yêu. Có phải thế chăng mà Flaubert mới nói: “Virgile xây dựng người đàn bà yêu đương, Shakespeare thì xây dựng người con gái yêu đương, và tất cả những người phụ nữ yêu đương khác đều là bản sao ít nhiều xa gần so với Didon hoặc Juliet”.
3. Về thể loại: Nói đến bi kịch là nói đến kết cấu của sự trình bày, thắt nút và mở nút một xung đột kịch, mà kết thúc bao giờ cũng là sự hủy diệt, tiêu vong hay tổn thất lớn lao của nhân vật chính - người anh hùng chiến bại.
Romeo và Juliet là hiện thân của một tình yêu đẹp, một tình yêu đích thực và lý tưởng, có sức lôi cuốn diệu kỳ và đánh thức mọi trái tim khao khát yêu đương. Qua bao thăng trầm, tình yêu ấy vẫn tỏa sáng, vẹn nguyên trong lòng độc giả. Có được thành công đó của tác phẩm, Shakespeare tỏ ra tài hoa ở từng chi tiết nghệ thuật lẫn ở sự lựa chọn đầy bản lĩnh về mặt thể loại. Tại sao ông lại biến đổi một cách tàn nhẫn câu chuyện có thật về kết thúc đẹp đẽ của chuyện tình chàng Romeo và nàng Juliet Trung cổ thành thảm thương đến vậy? Tại sao ông lại rời xa cảm hứng hài kịch cũng đã đem lại cho ông bao vinh quang trước đó? Trả lời những câu hỏi này cũng là nhằm khẳng định thêm tài năng của tác giả và giá trị của tác phẩm.
Báo Phụ nữ Việt Nam số ra ngày 11/12/1991 cung cấp một thông tin về Romeo và Juliet: “Gần đây các nhà Sêchxpia học khi tìm nguyên mẫu của “bức tượng đài tình yêu” đã phát hiện thiên diễm tình đó chỉ là sáng tạo của thiên tài Sêchxpia. Trong đời thực, câu chuyện Rômêô và Giuliet được tiếp tục bởi cha Lôrân đã kịp thời ngăn chặn tai biến, hai người không chết, kết hôn, sống bình thường - tẻ nhạt như những đôi vợ chồng bất hạnh khác trên đời”. Nếu trung thành với tài liệu đó của cuộc sống, hẳn Shakespeare chỉ có thể viết nên một vở mélodrame thông tục mà sức sống không thể dài bằng một bi kịch (tragédie). Ở vào một thời điểm là thời đại Phục Hưng vốn đang thừa hưởng những thành quả rực rỡ của những kiệt tác bi kịch của người Hy Lạp cổ, không thể nói là Shakespeare không chịu ảnh hưởng từ di sản đó, trong khi đó bi kịch được đánh giá là một thể loại cao quí, một “bông hoa tuyệt đẹp” (chữ dùng của A.Camus), hẳn Shakespeare có đủ lý do để biến một vở drame - hôn - nhân thành một bi - kịch - tình - yêu.
Có thể hiểu có hai lý do để Shakespeare kết thúc cuộc tình của Romeo - Juliet bằng cái chết. Thứ nhất, dù tình yêu đồng nghĩa với những gì lãng mạn nhất, nhưng tình yêu Romeo và Juliet không tồn tại ở một thế giới siêu nhiên nào, nó là sản phẩm của thời đại Phục Hưng, thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến lên chế độ tư bản chủ nghĩa, Shakespeare đủ sáng suốt để không sa vào ảo tưởng, ông biết chủ nghĩa nhân văn chưa thể cắm cờ toàn thắng. Lý do thứ hai có cơ sở từ lý do đầu tiên: đó là hiện thực cuộc sống thời Phục Hưng tràn đầy những mâu thuẫn xã hội khốc liệt phù hợp với loại hình bi kịch.Cái chết của Romeo và Juliet là kết quả những mâu thuẫn không giải quyết được của thời đại, hay để giải quyết mâu thuẫn, Shakespeare đã đưa ra giải pháp hy sinh những đứa con lý tưởng của mình, bởi những tệ nạn xã hội đương thời như mối thù dòng họ, lễ giáo phong kiến không dễ gì xóa bỏ (bằng chứng là vương chủ bó tay, hai họ không kiềm chế được). Có thể Shakespeare cũng không ngăn nổi dòng lệ khi để cho Romeo và Juliet phải chết, nhưng với nhãn quan sáng suốt của mình, ông biết họ là những kẻ “tử vì đạo”. Ông buộc phải mượn cái chết của đôi trai gái để “giết” luôn một di sản đồi bại của chế độ phong kiến Trung cổ. Và ông đã làm được điều đó: “Trên xác con cha mẹ mới quên thù” (Tự ngôn, Hồi I). Cái chết của Romeo và Juliet đánh dấu sự thắng lợi của lý tưởng nhân văn: dù phải trả giá đắt, cái mới cần phải được xác lập. Tính chất chiến đấu của tác phẩm, vì thế càng trở nên mạnh mẽ. Từ đây nhân loại có thể bước vào kỷ nguyên của tình yêu tự do, hôn nhân tự nguyện, mà Romeo và Juliet là hai kẻ tiên phong.
Như vậy, bằng thiên tài nghệ thuật của mình, Shakespeare đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lòng người đọc. Ông đã sinh thành nên những đứa con đẹp nhất cho cõi trần gian. Bức tranh văn học thế giới sẽ trống vắng biết chừng nào nếu thiếu vắng Shakespeare! Ai đó đã nói không thể đúng hơn rằng, nếu như có dịp quảng bá nền văn minh của Trái đất ra ngoài hành tinh thì tác phẩm của Shakespeare sẽ được lựa chọn (nó đã được ghi vào đĩa CD do các con tàu vũ trụ mang vào giải Ngân hà - Báo Tiền phong số 138, 11/1998). Ý kiến đó nhất định sẽ được biểu dương đồng tình, nhất là khi ta tự hào có Romeo and Juliet để mang theo.
Tác giả cảm nhận về đất nước trên những phương diện:
Cảm nhận của tác giả đa dạng, phong phú từ nhiều bình diện
- Chiều dài lịch sử (quá khứ- hiện tại- tương lai):
+ Từ huyền thoại Long Quân, Âu Cơ
+ Nhà thơ nhấn mạnh vào những kiếp người giản dị, bình tâm nhưng lại làm nên đất nước
+ Họ là những người bảo vệ đất nước
+ Họ góp phần to lớn vào thế giới tinh thần và vật chất của đất nước
- Chiều rộng của không gian - địa lí
+ Đất nước không chỉ bó hẹp gia đình mà trải dài theo chiều dài đất nước
+ Đất nước là nguồn cội, không gian gần gũi, gắn bó với đời sống mỗi người
+ Nhập hai từ “đất” và “nước” phù hợp với diễn tả tình ý trong mỗi câu thơ
+ Là nơi sinh tồn bao thế hệ
- Bề dày truyền thống- phong tục, văn hóa, tâm hồn
+ Giữ phong tục, ăn trầu (nét đẹp trong đời sống tinh thần, tình cảm son sắc của người Việt)
+ Truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm
+ Đất nước gắn với truyền thống đạo lí
-> Các phương diện thống nhất, bổ sung lẫn nhau
Vào những đêm cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, cái làng nhỏ bé nằm ven bờ con sông Đáy, Quang Dũng đã bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm còn tươi nguyên. Năm ấy Quang Dũng là đội trưởng của đoàn quân Tây Tiến làm nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh địch trên những tuyến đường rừng núi Tây Bắc từ Lai Châu đến phía bắc Thanh Hóa. Những người lính trẻ của trung đoàn Tây Tiến sống vô cùng thiếu thốn và khổ cực, vì rừng thiêng nước độc, sốt rét hoành hành, thuốc men ít ỏi và vì dưới hành quân là trập trùng núi rừng hoang vu, lạnh lẽo, hiểm trở .
Những người lính Tây Tiến hầu hết là những anh thanh niên Hà Nội, phần đông là học sinh, tiểu tư sản trí thức, tuy phải chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn anh hùng lớn. Tác giả Quang Dũng viết bài thơ Tây Tiến năm 1918 trước đây đã lấy tên là “Nhớ Tây Tiến” để thể hiện nỗi nhớ và niềm yêu thương về một thời chiến đấu gian khổ mà hào hùng, dữ dội mà mê say quên mình.
Để khắc họa lên chân dung người lính, Quang Dũng đã sử dụng những chi tiết và hình ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến nhưng những hình ảnh lại được diễn tả bằng bút pháp lãng mạn để tô đậm cái phi thường cái tài hoa, đem đến cho người đọc một vẻ đẹp rất độc đáo hiếm có của người lính trong một thời kì lịch sử oai hùng. Bài thơ đã được viết theo mạch cảm xúc nhớ thương nên nó có mở đầu bằng câu thơ biểu hiện nỗi nhớ ngày ấy.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Hình ảnh con sông Mã anh hùng mở đầu bài thơ như hé mở cho người đọc có những câu chuyện oai hùng về binh đoàn Tây Tiến. Trên bước con đường ra trận, những người lính Tây Tiến có sông Mã đi cùng bởi vì vậy cũng thật tự nhiên mà ngay từ đầu bài thơ Quang Dũng gọi tên là “sông Mã”. Câu thơ cũng giống như một tiếng gọi tha thiết ám ảnh, về khoảng cách địa lý thì xa xôi vời vợi mà nỗi nhớ lại nơi luôn thường trực. Trong lòng câu thơ thứ hai này dùng hai chữ “nhớ”, lại được ngắt nhịp 4/3 để diễn tả tinh tế những thổn thức, mong mỏi và khao khát nhung nhớ của tác giả. Cái đặc sắc chính ở ba chữ “nhớ chơi vơi”, chữ “chơi vơi” làm cho người đọc có thể cảm nhận như lan tỏa vào không gian và thấm sâu vào lòng mỗi người, một chút chống chếnh, một chút hụt hẫng và một chút nao lòng. Nỗi nhớ Tây Tiến tưởng như xa nhưng lại hóa gần, tưởng dịu nhẹ mơn man nhưng lại có sức ám ảnh khôn xiết. Không những thế, người đọc còn như nghe đã được trong những chữ “nhớ chơi vơi” ấy âm hưởng sâu đậm của núi rừng, của sông suối Tây Tiến. Câu thơ reo vần “ơi” đã tạo ra được độ dịu nhẹ lâng lâng ở trong cảm xúc, ở đây cảm xúc nhớ thương giống như sợi tơ tình bện chặt lòng người. Và ngay sau đó nhà thơ đã cụ thể hóa nỗi nhớ của chính mình.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Các địa danh Sài Khao và Mường Lát trong nỗi nhớ của Quang Dũng đã trở nên thân gần kỳ lạ, viết về hình ảnh đoàn quân mỏi là khi “Quang Dũng lại điểm thêm vào đó những hình ảnh “sương lấp”, “hoa về”, “đêm hơi”. Rõ ràng ở đây chất hiện thực đã đi liền với chất lãng mạn tạo nên những nét vẽ độc đáo về Tây Tiến.
Trong cảm xúc nhớ thương của nhà thơ là bức tranh Tây Tiến như được khoác sắc một màu huyền ảo, thơ mộng, giàu sắc thái lãng mạn khung cảnh rừng núi mà ở đoàn quân Tây Tiến đã bước chân qua vừa thơ mộng vừa hùng vĩ. Trong nỗi nhớ, những kỷ niệm còn tươi nguyên như thể sống dậy, nhà thơ nhớ đến hình ảnh thời gian khổ:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Hai câu thơ trên đã mang giá trị tạo hình cao diễn tả một cách cụ thể và sinh động nhất những gian khổ của những người lính Tây Tiến trên đường ra trận. Câu thơ thứ nhất dùng ngắt nhịp 4/3 và chủ yếu được gieo thanh trắc và đã gợi cho người đọc cảm nhận được về một sự trúc trắc gập ghềnh và đầy hiểm nguy. Những cái hay của câu thơ chính ở hai từ láy “khúc khuỷu, “thăm thẳm”, nó đã gợi cho người đọc những cảm nhận về một không gian được đã mở ra nhiều chiều; cao, rộng, sâu, xa và người đọc như sẻ chia được cùng với những người lính những vất vả, gian khó. Câu thơ thứ hai chữ “heo hút” đã được dùng rất đặc sắc, nó khác với hun hút và nếu “hun hút” gợi được độ sâu thì heo hút bản không giới hạn, từ heo hút không chỉ đã gợi ra độ sâu mà còn thêm cả một cảm giác hoang vắng, lạnh lẽo và hiu quạnh. Địa hình chiến đấu của những người lính Tây Tiến quả thực đầy gian khó nguy hiểm. Hơn thế nữa ba chữ “súng ngửi trời” đã được sử dụng thật độc đáo, nó cũng giống như hình ảnh “đầu súng trăng treo” của tác giả Chính Hữu bao trùm lên hình ảnh là một không gian tưởng tượng chừng lãng mạn, nhưng nó được bắt nguồn từ một cuộc sống hiện thực, từ con mắt tinh tế với ngòi bút đa tài của nhà thơ. Nhờ hình ảnh “súng ngửi trời”, câu thơ đã nói về những gian khổ vất vả nhưng lại làm ra sáng ngời lên khí phách ngạo nghễ và tư thế hiên rất ngang của con người, ngoài ra nó còn thể hiện được một chút dí dỏm tinh nghịch, một chút phong cách lính trẻ trung và lãng mạn. Giữa thiên nhiên hoang sơ vắng lạnh và hình ảnh con người không cảm thấy bé nhỏ và cô đơn mà lại khẳng định tư thế làm chủ, khẳng định bản lĩnh của chiến sĩ anh hùng và tinh thần lạc quan của nhiều con người. Không những thế, hình ảnh còn một thời gian khổ còn được biểu hiện qua những câu thơ:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Với hình ảnh “oai linh thác gầm thét”, “Mường Hịch cọp trêu người” là những người dẫn chứng sống động nhất về những gian khổ hiểm nguy mà người lính Tây Tiến đã đang phải trải qua khoảng thời gian “chiều chiều”, “đêm đêm” trở thành khoảng thời gian ước lệ, nó giống như một ám ảnh về Tây Tiến thời gian in sâu trong tiềm thức của chính tác giả ấy. Viết về những gian khổ của người lính quân đội, ngòi bút của Quang Dũng cũng ghi lại được những hình ảnh hết sức chân thực:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Bao nhiêu vất vả nhọc nhằn của những người lính được thể hiện qua hai chữ đó là “dãi dầu”. Tuy nhiên từ “dãi dầu” vẫn có thể giúp cho người đọc cảm nhận được chút phong trần của người lính trên con đường hành quân, phải chăng cũng vì thế hình ảnh của họ thấp thoáng bóng dáng của người chiến sĩ, chinh phu thuở nào. Qua chữ “bỏ quên đời” ta thấy khí phách bản lĩnh của người lính được ngời sáng từ chính những chuyển hiện thực tưởng chừng như gian khổ khốc liệt – một chút bất cần phó mặc nhưng cũng hơn hết là một trang trí nơi anh hùng, dẫu là mỏi mệt hay dầu là hy sinh thì họ vẫn sẽ coi những biểu hiện ấy rất đỗi nhẹ nhàng. Những người lính Tây Tiến khi chiến đấu hết mình thật anh dũng quả cảm nhưng những giây phút nghỉ ngơi của họ cũng đầy lãng mạn và mê say:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Họ đã bỏ lại sau lưng mình những hòn đạn, gạt bỏ những lo lắng và vất vả của cuộc chiến, giữa đời thường, người lính Tây Tiến đã hiện lên thật bình dị, gần gũi. Một buổi liên hoan bỗng chốc lại biến thành một ngày hội tưng bừng náo nhiệt qua những lăng kính lãng mạn của người chiến sĩ không gian của đêm hội đuốc hoa thật lãng mạn, rực rỡ, lung linh, câu thơ tràn đầy ánh sáng và màu sắc, trong thơ như có họa. Chữ “bừng” được dùng cũng rất hay, nó không chỉ là sự bùng lên của ánh sáng, của bó đuốc đêm hội mà chính là sự bùng lên của niềm vui và niềm say mê kiêu hãnh. Trong sự náo nức của đêm hội ấy những hình ảnh người em gái là hình ảnh trung tâm, bao nhiêu con mắt như đã đổ dồn về phía người em gái để mà kìa em xiêm áo đã tự bao giờ” — một cảm xúc ngạc nhiên đến sững sờ nhưng đã đi liền ngay sau đó là cảm xúc ngây ngất đắm đuối say mê. Từ Hán việt “xiêm áo” tạo ra một nét trang trọng, ở đây hình ảnh người em gái như đã được mỹ lệ hóa. Những chữ “tự bao giờ” như không giấu nổi được cảm xúc ngây ngất của những người lính Tây Tiến, họ ngỡ như là hình ảnh của đêm hội với người em gái ấy đã có từ rất lâu lắm để rồi bất chợt lại thấy được sự ngỡ ngàng. Bức tranh đêm hội đã được lung linh hóa, mỹ lệ hóa để rồi người đọc tưởng tượng ra người em gái ấy tựa như một nàng tiên bước ra từ cổ tích giữa hiện thực khốc liệt dữ dội người ta bắt gặp hình ảnh như là những huyền thoại, đây chính là sắc thái lãng mạn của bài thơ. Điểm thêm vào bức tranh đó là đêm hội ấy là hình ảnh của nhạc, của khèn và nhịp thơ đồng thời là nhịp của tiếng lòng náo nức mê say với tiếng nhạc của tâm hồn như lan đã tỏa ra từng câu chữ. Một thời mê say, lãng mạn của người lính Tây Tiến còn như được gọi nhắc qua hình ảnh rất đẹp đẽ:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Hình ảnh của những bữa cơm lên khói, hương vị của nếp xôi đã nồng nàn mà tha thiết như quyện chặt tâm hồn của người đi xa. Câu thơ đã chủ yếu gieo thanh bằng, tạo cảm xúc lâng lâng chơi vơi, một chút bâng khuâng và nhung nhớ, một chút da diết khắc khoải cũng làm nao lòng người khi nhớ về Tây Tiến. Viết về thời mê say ấy, tác giả Quang Dũng có những câu thơ rất đỗi tài hoa.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Câu thơ thứ nhất được bẻ gãy làm đôi, gợi ra cái trập trùng và hiểm trở của núi rừng Tây Tiến. Còn câu thơ thứ hai giống một tiếng buông lơi thật dịu nhẹ chơi vơi. Câu thơ như đẩy tư duy người đọc về một hoài niệm nào đó đã quá xa vắng trong nỗi niềm của tác giả: tưởng là mơ hồ và không xác định, tưởng là vu vơ bất chợt nhưng lại cứ ám ảnh khắc khoải trong tâm trí tác giả, không những thế và câu thơ còn có tiết tấu giai điệu rất rõ thể hiện tính nhạc rất cao. Như vậy người chiến sĩ cũng chính là một người nghệ sĩ. Cuộc sống của thời kháng chiến không chỉ có gian khổ mất mát mà còn đẹp lung linh ở trong tâm hồn người lính. Chính cuộc sống này, cuộc sống đầy chất thơ mộng này, và đã xua tan đi những mỏi mệt gian lao trong đời sống chiến đấu của những người lính. Tiếp đó, mạch cảm xúc ấy đã có sự chuyển đổi: đang ở giọng náo nức giục giã và mê say chuyển sang giọng điệu trầm lắng, bâng khuâng pha một chút ít hoài niệm ngậm ngùi:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Hoài niệm ở đây của tác giả bắt đầu từ hình ảnh “chiều sương ấy”, không gian như thoáng phủ một nỗi buồn thật sự mênh mang. Chữ “ấy” có ý nghĩa định vị về mặt không gian như thể muốn đẩy những kỉ niệm lùi về một nơi rất xa, để nó giúp cho người đọc cảm nhận được khoảng cách vời vợi của nhớ và thương. Những câu thơ gợi đã nhiều hơn tả, các hình ảnh được gợi ra không phải là hình ảnh cụ thể chi tiết mà chi là dáng hình, rất khó định hình, khó nắm bắt. Nhà thơ ấy dường như không miêu tả cảnh mà còn chỉ gợi lại cái linh hồn của nó, hay là nói đúng hơn cảnh vật được nhìn qua lăng kính trong nhớ thương, không rõ nét, mờ ảo, hư hư thực thực. Không phải miêu tả lâu mà là những “hồn lau”, không phải miêu tả người mà mà cũng là “dáng người”, người đọc cảm nhận được một không gian hoang sơ vắng lặng đượm một nỗi buồn mênh mang. Đặc sắc nhất mà khổ thơ là việc sử dụng cấu trúc câu “có thấy” và “có nhớ”, Đây không chỉ câu hỏi má còn giống như một lời gợi nhắc, một lời nhắn nhủ vô cùng tha thiết ân tình. Phải chăng hồn lau, dáng người ấy đã trở thành những hình ảnh ám ảnh tâm hồn của tác giả, để rồi khi gợi nhắc về nó giống như một điểm nhấn xúc cảm. Đặc biệt, những sự biến đổi trong cách sử dụng các cụm từ “có thấy”, ”có nhớ” còn là sự thay đổi khác về giác quan, không chi là cái nhìn mà còn là những tâm hồn, trái tim được đánh thức. Câu thơ thứ tư khá độc đáo vì nó xuất hiện hình ảnh “nước lũ” đối lập với những hình ảnh “hoa đong đưa”: một bên là mạnh mẽ dữ dội, một bên là nhẹ nhàng thật khẽ thật êm. Có lẽ hình ảnh “hoa đong đưa” không còn là những hình ảnh tả thực mà đã trở thành hình ảnh diễn tả tâm trạng nỗi niềm tác giả. Từ láy “đong đưa” khác với “đu đưa”, nó không chỉ miêu tả dáng hình và sự chuyển động như là từ “đu đưa” mà đó còn là đầy tình ý, nó còn là sự đong đưa của ánh mắt hoài niệm mê say, đầy sắc thái lãng mạn và phong cách sáng tạo ra nghệ thuật độc đáo của Quang Dũng. Đọc Tây Tiến ta như sống lại một thời lửa cháy và cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử. Để khắc họa chân dung người lính nhà thơ ấy cũng đã sử dụng những chi tiết, hình ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến những hình ảnh đó lại được diễn tả bằng bút pháp lãng mạn để tô đậm thêm cái phi thường, tài hoa, và đem đến cho người đọc một vẻ đẹp độc đáo hiếm có của người lính trong thời kỳ lịch sử:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Nhà thơ Quang Dũng đã gọi tên binh đoàn của mình bằng tên đó gọi khá thú vị “đoàn binh không mọc tóc”. Thật thú vị khi những con người ấy đã lấy chính hiện thực gian khổ khốc liệt để biến thành niềm kiêu hãnh, niềm tự tôn cho chính mình. Nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng từng gọi tiểu đội của mình bằng cái tên bắt nguồn từ hiện thực cách thiếu thốn khắc nghiệt “tiểu đội xe không kính”, qua đó chúng ta thấy được tinh thần lạc quan với chất lính dí dỏm hài hước. Câu thơ thứ hai đã tạo ra hai vế đối lập: “quân xanh màu lá” và “dữ oai hùm”, một bên là cái thiếu thốn khó khăn gian khổ còn một bên là khí phách anh hùng của người lính Tây Tiến. Ba tiếng “dữ oai hùm” đã tạo nên một âm hưởng mạnh mẽ hùng tráng cho câu thơ, người đọc đã cảm nhận được khí thế của đoàn quân bước ra trận, câu thơ ngắt nhịp mạnh đã tô đậm nét hùng dũng. Những người lính Tây Tiến ấy cũng là những người lắm mộng nhiều mơ và những người giàu khát vọng hoài bão. Đến đây nhà thơ cũng đã tạo ra nét vẽ chân thực về hình ảnh của người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Hai câu thơ trên đã nhấn mạnh chữ “mộng”, “mơ”. Từ “trừng“được dùng khá đặc sắc, nó cho thấy biết bao nhiêu tâm nguyện, bao nhiêu khát vọng hoài bão tự đáy lòng đều đã dâng cả lên trên ánh mắt. “Mắt trừng” chỉ một hành động mạnh và nhưng không phải là trừng trị, dọa nạt mà là cái nhìn đau đáu và khôn nguôi thể hiện những nhung nhớ, ước ao khắc khoải. Chữ “mộng” đã khiến cho câu thơ như bị trùng xuống, ẩn chứa cảm xúc bâng khuâng. Câu thơ của tác giả Quang Dũng gợi nhắc người đọc tới một câu thơ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi: “Những đêm dài hành quân nung nấu – Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu. Nỗi nhớ người yêu và nhớ “dáng kiều thơm” nào đó thật đời thường và bình dị nhưng cũng thật cao quý. Nó đã khiến cho hình ảnh người lính đã trở nên chân thực gần gũi hơn. Nỗi nhớ ấy trong hành trang của họ như được tiếp thêm sức mạnh nghị lực để chiến đấu và chiến thắng, và nó như một điểm tựa vững chắc cho những thanh niên học sinh chốn Hà Nội rời ghế nhà trường để tham gia chiến trận – những con người “lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”.
Những người lính Tây Tiến đã sống anh hùng mà chết cùng anh hùng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Cái độc đáo ở đây là nhà thơ viết về sự một sự ra đi của họ nhưng không tô đậm sự sầu thương bị lụy sự ai oán não nùng mà đã nhấn mạnh dũng khí hùng tráng, khí phách anh hùng. Sau những câu thơ rắn rỏi ấy, đẹp đẽ đến đây âm điệu câu thơ cũng chợt trầm và trùng xuống, nó cũng giống như một thước phim quay chậm.
Còn gì thiêng liêng hơn và cao cả hơn sự hi sinh, sự chấp nhận gian khổ của những người lính. Trên con đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao mồ viễn xứ của một trong những kẻ chết xa quê. Những người chiến sĩ của chúng ta nhìn với ánh mắt bình thản bởi họ đã chấp nhận điều đó. Nếu câu thứ nhất tô đậm nên cái “Bi” thì câu thứ hai tô đậm nét “Tráng” và “Hùng”. Câu thơ thứ hai cũng giống như một cái hất đầu ngạo nghễ của anh lính trẻ Tây Tiến: bất chấp khó khăn, bỏ mặc chết chóc và hiểm nguy cận kề, những người lính Tây Tiến vẫn kiên định trong ý chí, vô cùng dũng cảm trong hành động, ngạo nghễ trong khí phách người anh hùng dân tộc. Tác giả đã mượn hình ảnh “áo bào” để gợi tả cái sự ra đi của những người lính. Đặc biệt nó còn gắn bó với hình ảnh thiêng liêng và tạo ra sắc thái trang trọng, và giảm bớt nỗi buồn thương bị lụy. Nó cũng tạo ra một hình ảnh hết sức cảm động, giống như sự sẻ chia đồng cảm của tác giả đối với những con người lính Tây Tiến. Câu thơ tiếp đã để lại xuất hiện hình ảnh sông Mã – chứng nhân lịch sử. Sông Mã tấu lên “khúc độc hành” – khúc ca đã đơn độc buồn thương. Chữ “gầm” – biện pháp nhân hóa, nồi nhớ thương của những lòng người như hóa thân vào một nỗi nhớ thương của dòng sông hay dòng sông ấy vẫn đang chở đi những khúc ca đã đau đớn của con người. “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở và thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của chính mình. Tiếng gầm của dòng sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt người con yêu dấu của giống nòi. Cuối cùng, sau khi hồi tưởng lại bình ảnh đoàn binh Tây Tiến một đã thời mê say lãng mạn, tác giả Quang Dũng đã bộc lộ nỗi niềm mong ước gặp lại Tây Tiến:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
Câu thơ trên đã trở về với mạch cảm xúc chung của bài thơ, cảm xúc thương nhớ và nhưng vẫn mang trong nó âm hưởng tráng trí vang ngất ngời. Câu thơ nói đã về biệt ly, về xa cách, có ngậm ngùi nuối tiếc nhưng vần đầy những dũng khí, quyết tâm. Khoảng cách càng xa thăm thẳm thì nỗi nhớ trở nên vời vợi bởi xa Tây Tiến không biết bao giờ mới được gặp lại. Người đọc đã cảm thấy nồi nhớ thương như là đang đầy cả câu thơ trên. Hai câu cuối, với giọng điệu và mạch cảm xúc có sự chuyển hướng: câu thơ cũng giống như một lời mời gọi, một lời nhắn nhủ và ước hẹn tha thiết ân tình. Phải chăng đây là lời hẹn gặp mà Tây Tiến vào mùa xuân – mùa xuân của hội ngộ, của chiến thắng oanh liệt. Điều đó chứng tỏ tác giả đã mong ngày gặp lại Tây Tiến và trở về Tây Tiến chính là ngày mà chiến thắng. Câu thơ kết vang lên kiêu hãnh như một lời thề, với lời hứa quyết tâm. Từ nồi nhớ về một đoàn binh, rồi về những con người cụ thể đã hóa thân thành một nỗi nhớ về một mảnh đất, một quê hương, Tây Tiến cũng đã trở thành nỗi nhớ, với niềm yêu tha thiết của Quang Dũng.
Nhà phê bình Phong Lan đã nhận định: “Tây Tiến là một tượng đài bất tử về người lính vô danh” – bất tử bởi chính vẻ đẹp hào hoa và hào hùng bi tráng. Vì vậy, người lính Tây Tiến Cũng qua bài thơ cùng tên của tác giả Quang Dũng sẽ sống mãi trong cõi vĩnh hằng, trong thế giới nhân sinh.
Dàn ý làm bài
Mở bài:+ Cảm xúc khi Tết đến, xuân về trên quê hương.Thân bài:+ Không khí, cảnh sắc của cảnh vật, thiên nhiên khi Tết đến, xuân về: tất cả bừng lên sức sống mạnh mẽ.+ Không khí, cảnh sắc trong cuộc sông con người khi Tết đến, xuân về: rộn rã đón chào một năm mới với nhiều niềm vui và hi vọng ở tương lai.Kết bài:+ Khẳng định cảm xúc về vẻ đẹp của quê hương khi xuân về.
Bài làm
Vậy là giá rét cũng sắp qua, những ngày ấm áp cũng sắp đến. Một vài cánh én bay liệng trên bầu trời khiến lòng người ai nấy đều xốn xang. Thế là xuân sắp sang rồi ư. Nhanh quá, xuân đã về đến đầu ngõ quê tôi rồi... Làng quê mỗi dịp Tết đến, xuân về bao giờ cũng nhiều sự thay đổi. Tiết trời không còn lạnh lẽo, buốt giá nữa. Nàng Xuân về mang theo bao hơi ấm. Gió thổi dìu dịu, bầu trời được đẩy lên cao hơn, trong lành, dễ chịu. Cây cối bỗng tươi tắn trở lại. Sau những ngày dài được nàng Đông ấp ủ giờ đây chồi non đang nhú lên mạnh mẽ. Hoa lá, chim muông cũng bắt đầu khoe hương, khoe sắc ngạt ngào, khoe giọng hót trong trẻo, thanh ca. Đến những cây cỏ bé xíu cũng khoe màu xanh non mượt mà. Những luống mạ đã lên xanh trên đồng sau những ngày dài dầm mình trong làn nước lạnh buốt. Các bà, các mẹ cũng đã trút được nỗi âu lo khi nhìn mạ xanh trên đồng. Đi ra khỏi nhà, chợt thấy con đường ướt mưa xuân, thấy hơi hụt hẫng và bất ngờ khi mùa Đông trôi qua nhanh thế, dường như nó vừa biến mất một cách kì lạ nhường chỗ cho Xuân. Mưa xuân chẳng làm ướt ai, mưa nhẹ đặt mình lên áo, lên tóc người đi đường để rồi mang về nhà không khí của mùa xuân. Đi dạo khắp các con đường, đâu đâu cũng rực rỡ sắc xuân, những bông hoa e thẹn chờ ngày Tết đến để đơm hoa nở rộ chào đón Xuân về. Những cành mai gầy guộc, những cành đào rét run vì lạnh đã vượt qua được cả một mùa đông khắc nghiệt sẽ tiếp tục đơm bông, sáng lên như ánh sao trong các ngôi nhà và đặc biệt mang lại cả một mùa xuân ấm áp đến cho mọi người. Mùa xuân đến rất gần, nó đã chạm nhẹ vào các cửa nhà rồi.
Bỏ lại sau lưng những nỗi lo âu muôn thủa, nỗi buồn vất vả của một năm đã qua, mọi người tất bật sắm những bộ quần áo mới, hái lá dong, đong gạo nếp, đỗ xanh và tấp nập trang hoàng nhà cửa, sửa sang bàn thờ tổ tiên. Nhà nào cũng có những câu đối đỏ cùng những bức tranh xuân đẹp mắt. Bọn trẻ con chạy tung tăng khoe quần áo mới nơi từng con ngõ, mấy chú cún con, mèo con bỗng thân nhau lạ, đùa vui cùng nhau dưới nắng ấm, đôi khi mắt tròn xoe trước cảnh bao người rộn ràng đi lại. Mùa xuân cũng là mùa mọi nhà đoàn tụ. Những người con xa quê dù ở đâu cũng đáp chuyến tàu về ăn Tết cùng cha mẹ. Nhà nào cũng rộn tiếng cười nói. Không chỉ có âm thanh rộn rã, màu sắc rực rỡ mùa xuân còn có hương vị ngọt ngào. Những ngày giáp Tết, nhà nhà còn chuẩn bị bếp lửa than liu riu làm mứt gừng, mứt dừa. Cả ngày ba mươi, cả nhà bận rộn với mấy mâm lá chuối, lá dong, thau nếp, rổ nhân đậu xanh gói bánh chưng, bánh tét, rồi đêm ấy còn hồi hộp ngồi canh nồi bánh chưng. Những chiếc bánh to, vuông vức, xanh rền được kéo ra nằm yên trên chiếc nia khiến ai cũng nức lòng. Tối ấy, cả nhà còn quây quần bên nhau đợi đến phút giao thừa. Cái khoảnh khắc chuyển mùa thiêng liêng ấy, tiếng pháo được cất lên, để cảm giác hồi hộp chờ pháo nổ kéo dài, để rồi háo hức, bất ngờ đến giật mình khi nghe tiếng nổ giòn giả báo hiệu một năm đầy ắp niềm vui. Tết đến, xuân đã về, mọi người đều được mặc áo mới đi chúc Tết nhau. Trẻ con được theo chân bố mẹ về quê mừng tuổi ông bà, thăm bà con hàng xóm. Chúng vui mừng nhất là khi được nhận những phong bao lì xì màu đỏ. Xuân về cũng khiến cho con người mang một sức sống mới. Sức sống ấy mạnh mẽ, căng tràn ra ngoài như con thú ngủ đông, sau những ngày tránh rét chui ra ngoài đón ánh sáng. Xuân thật đáng yêu. Đi giữa nắng vàng ấm của mùa xuân, chợt nghe đâu đây tiếng nhạc xuân vang lên rộn ràng khiến lòng dậy lên những cảm giác giao mùa. Ai cũng công nhận, xuân là mùa của hạnh phúc, mùa của tình yêu, nên dù xuân có khoác lên mình chiếc áo màu nào đi nữa thì nó vẫn mang đến cho con người, cảnh vật không khí, màu sắc đẹp nhất. Hãy yêu xuân hết mình nhé !