K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

4 tháng 12 2019

Dân tộc Việt Nam đang từng ngày, từng giờ hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Trái tim thủ đô ngàn năm văn hiến vẫn đang từng ngày, từng giờ đập từng nhịp khoẻ khoắn, nguyên sơ. Trái tim hàng triệu triệu con dân đất Việt cũng đang từng ngày, từng giờ hoà nhịp đập cùng trái tim của Tổ quốc trong rạo rực, trực trào. Hà Nội trong trái tim tôi là những kỷ niệm chất chứa như những thước phim quay vội, từng cảnh từng cảnh một, mỗi cảnh đều là kỷ vật tâm tưởng, để ở góc nào đó trong tim, không thể chắp nối vào nhau theo trình tự lôgic nào. Mà chắp nối, sắp xếp làm gì cơ chứ, tôi đâu phải là đạo diễn cho tôi trong tình yêu của tôi đối với Hà Nội. Thôi thì cứ để Hà Nội trong tôi như những gì tôi vốn có. Thế nên giờ đây, Hà Nội trong tôi đang “vội vã trở về”...

 Hà Nội trong trí óc và sự hiểu biết của tôi có bề dày ngàn năm lịch sử. Hà Nội trong trái tim tôi có đầy đủ tình yêu của một người trẻ vừa đến tuổi ba mươi. Những ngày này, tự nhiên tôi thấy yêu vô cùng những bài hát viết về Hà Nội. Những ngày này, tôi có thể hát về Hà Nội cả ngày nếu không phải đi làm, họp hành và làm những công việc bắt buộc phải im lặng. Tôi nghe giai điệu bài hát “Chúng con canh giấc ngủ của Người” (sáng tác của nhạc sỹ Nguyễn Đăng Nước) vang vọng trong tôi, lòng bồi hồi nhớ lại một lần tôi cùng một người bạn tri kỷ vượt hơn ngàn cây số ra thăm thủ đô, may mắn được dịp vào lăng viếng Bác. Ôi Người nằm đó, “…Bác đang ngủ kia mà…”, bước chân tôi nhè nhẹ đi qua cùng dòng người muôn phương, lòng thầm ước ao được đứng trang nghiêm như anh bộ đội kia, “vinh quang”… “canh giấc ngủ của Người”!

Hà Nội trong tôi gần đấy mà xa quá. Xa như cái lần, lần đầu tiên tôi ra thăm ông Ngoại mà nào ngờ đâu đó là lần cuối cùng tôi gặp ông. Sau đó ít lâu ông đột ngột qua đời. Hai mươi mốt năm kể từ ngày ông đi tập kết, cộng với hơn hai mươi năm sau ngày đất nước hoà bình, thống nhất, ông vẫn không về với mẹ tôi. Ông đã có gia đình của mình. Tôi có thêm một bà ngoại và hai cậu. Ngày ông mất, mẹ tôi sụt sùi khăn áo ra đưa tiễn ông mà cả gia đình trong Nam nước mắt lưng tròng. Giờ đây lòng tôi vẫn hướng về thủ đô. Ở đó tôi còn bà, các cậu mợ và các em của mình. Lòng tôi vẫn luôn nhớ về ông, thầm cảm ơn ông đã sinh ra mẹ tôi, người sinh thành, nuôi nấng, dạy dỗ và yêu thương tôi suốt cả cuộc đời.

Hà Nội trong tôi phẳng lặng như mặt hồ Gươm, không gợn chút sóng nhưng cồn cào nỗi nhớ mỗi khi nghĩ về nó. “Tôi muốn mang Hồ Gươm đi” (Nhạc sỹ Phú Quang phổ thơ Trần Mạnh Hảo) để giữ riêng cho mình từng khoảnh khắc, trong mưa thu, gió lạnh, trong đôi mắt tôi và em nhìn nhau lần cuối để rồi chia xa mãi mãi. Với tôi, Hồ Gươm đã chứng kiến một cuộc chia tay “…không buồn, mà chỉ tiếc em không đi hết những ngày đắm say…” (nhà thơ Thanh Tùng được nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc). Nơi đây, người yêu của tôi đi lấy chồng. Nơi đây tôi “vội vã ra đi” để quên một cuộc tình.

Hà Nội trong tôi có cả vui, buồn lẫn lộn. Dù vui, dù buồn tôi đều quý, đều yêu. Dù vui, dù buồn đều là một phần làm nên nhịp đập của trái tim tôi. Trái tim tôi là một phần nhỏ của trái tim Hà Nội - trái tim Tổ quốc. Khi trái tim Tổ quốc đang dậy lên, trái tim tôi không thể lặng yên. Như giờ đây, Hà Nội trong tôi từng phút, từng giờ là suy tưởng, tranh thủ cập nhật thông tin về Hà Nội. Mỗi lần lướt web là mỗi lần được nhìn thấy Hà Nội rộng hơn, sâu hơn, to hơn, đẹp hơn; hoà cùng Hà Nội niềm vui chung tròn 1000 năm tuổi. 1000 năm thăng trầm càng làm cho thủ đô mỗi ngày mỗi vững vàng thêm, sánh cùng thủ đô của 28 quốc gia khác (4) bước tiếp vào thiên niên kỷ mới đầy sức sống, văn minh, linh thiêng và hào hoa. Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội đang đến gần. Nghe như lời Thiên đô chiếu (Chiếu dời đô) của đức Thái tổ Lý Công Uẩn từ nghìn trùng vang vọng về. Nghe như lời Bác trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà một sáng mùa thu ngày 2 tháng 9 cách đây 65 năm về trước trên quảng trường Ba Đình lịch sử.

Khi trái tim tôi còn đập chắc chắn tôi còn yêu Hà Nội. Hà Nội trong tôi những ngày này, những ngày sau và đến khi trái tim tôi ngừng đập sẽ vẫn vẹn nguyên như giờ đây tôi ngồi viết cho Hà Nội với niềm tin yêu mãnh liệt: đất rồng bay mãi mãi trường tồn.

4 tháng 12 2019

Mùa xuân:

Khí hậu miền Bắc nước ta chia làm bốn mùa: Xuân, hạ, thu, đông. Mùa nào cũng có những nét dẹp riêng nhưng mùa xuân lại có nhiều điều kì thú nhất. Theo quy luât tuần hoàn của tạo hóa, cứ đông tàn thì xuân đến. Trước tết khoảng nửa tháng, thời tiết bắt đầu thay đổi.Những trận mưa phùn lạnh lẽo thưa dần rồi ngớt hẳn. Bầy trời không còn xám xịt mà đã sáng tươi hơn. Những dải mây trắng hoặc xanh lơ màu nước biển lãng đãng trôi. Không khí ấm áp làm cho con người cùng vạn vật lai trào dâng nhựa sống, náo nức đón đợi mùa xuân.

   Giữa không trung, chim én từng đàn vun vút lao liệng, báo hiệu mùa xuân sắp bắt đầu . Nếu để ý một chút , ta sẽ thấy trên đường những cành lộc vừng, cơm nguội, bàng... đã rụng hết lá ven đường, vô số mầm nhỏ xíu đang cựa quậy, muốn xuyên thủng lớp vỏ xù xì, thô ráp để nhú ra những búp non, lộc nõn mơn mởn trong mưa xuân.

   Những ngày giáp tết ở Hà Nội rộn ràng và náo nức lạ thường! nên vui ngời lên trong ánh mắt trẻ thơ, trong dáng điệu tấp nập của người đi sắm Tết, trong sự thay đổi nhanh chóng của gương mặt phố phường. Nhà cửa đươc trang hoàng lộng lẫy bằng sắc màu rực rỡ của đèn, hoa, của những tấm băng rôn đỏ với dòng chữ vàng: Chúc mừng năm mới có vẽ những cánh đào, cánh mai, hay những chiếc đèn lồng xinh xắn.

   Các chợ lớn nhỏ trong thành phố đều đông nghịt người. Chợ Đồng Xuân, chợ Ngọc Hà, chợ Bưởi, chợ Mới Mơ, chợ Ô Cầu Dền... người mua, kẻ bán chen chúc, sôi đông, ồn ào. Chợ Tết có một sức hấp dẫn ghê ghớm. Người ta đi chợ Tết để được đắm mình vào cái không khí đặc biệt một năm chỉ có một lần, để sắm Tết và để xem thiên hạ đua nhau sắm Tết. Hơn thế nữa, đi chợ Tết để được thỏa thích ngắm nhìn bao nhiêu của ngon vật lạ của quê hương, đất nước.

   Cùng với việc sắm Tết, người Hà Nội luôn nghĩ đến hoa. Có thể nói là người Hà Nội yêu hoa và có thú chơi hoa có từ lâu đời. Từ ngày hai tám cho đến sáng ba mươi Tết, các ngả đường từ nội ô ra ngoại thành, dòng người và xe nườm nượp nối nhau không dứt. Họ tìm đến các làng hoa nổi tiếng như Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Nhật Tân, Nghi Tàm... để mua đào, mua quất và những loại hoa khác. Trong ba ngày Tết bất luận giàu hay nghèo, nhà nào cũng có một chậu cúc, một cành đào, một bình hồng nhung hoặc mấy cây hải đường hoa nở đỏ chói cho vui cửa vui nhà, làm thêm vẻ tưng bừng của Tết.

   Đứng trước những vườn đào, vườn quất và những khu vườn có hàng trăm loài hoa đang nhởn nhơ đón nhận làn mưa xuân tươi mát, ta sẽ thấy trong tâm hồn dâng lên một niềm hạnh phúc vô bờ. Trái tim ta hân hoan cất lời cảm ơn Tạo hóa đã ban cho mặt đất một sức sống bất diệt và hào phóng tặng cho con người những món quà vô giá từ thiên nhiên muôn màu muôn sắc.

   Trong dịp Tết, còn gì thú vị bằng được cùng với những người thân yêu dạo chơi dưới mưa xuân êm ái giăng giăng đầy trời một màn bụi nước li ti, mơ hồ như sương như khói. Mưa xuân làm cho cảnh vật chở nên huyền ảo và thơ mộng. Hồ Gươm, cầu Thê Húc, đền Ngọc Sơn, Tháp Rùa... hồ Tây, hồ Trúc Bạch với chùa Trấn Quốc và con đường Thanh Niên chạy lên phía Nghi Tàm cũng những hàng cây mái phố nhấp nhô đều nhạt nhòa, thấp thoáng trong mưa xuân.

   Đầu xuân, trời đất vẫn còn se se lạnh. Làn nắng xuân mới hé chỉ đủ làm ửng hồng đôi má trẻ thơ và lóng lánh những giọt sương đọng trên lá cây hoặc vạt cỏ xanh mướt ven đường. Ra Giêng ngày rộng tháng dài, người người nô nức rủ nhau đi chơi xuân, đi chùa hay dự lễ hội ở những vùng lân cận để cầu một năm mới an lành. Đẹp biết mấy là mùa xuân Hà Nội! Quý biết mấy là khát vọng ấm no, hạnh phúc của người dân Thủ đô mỗi lúc Tết đến, xuân sang!

8 tháng 3 2022

Tham khảo:

Trong cuộc sống này để hình thành nên nhân cách con người ngoài yếu tố nền tảng giáo dục thì môi trường sống đóng vai trò vô cùng quan trọng. Chẳng vì thế mà dân gian ta xưa kia đã lưu truyền câu nói “Gần mực thì đen gần đèn thì rạng”. Thế nhưng dù ở trong bất cứ một hoàn cảnh nào thì yếu tố bản lĩnh con người quan trọng hơn hết thảy. Nó có thể vượt qua mọi hoàn cảnh và thử thách. Chính vì thế bên cạnh những ý kiến đồng tình với câu ca dao kia cũng có những bạn cho rằng “Gần mực chưa chắc đã đen gần đèn chưa chắc đã rạng”.

Gần mực thì đen gần đèn thì rạng câu nói này đã được các cụ tổng kết từ xa xưa và tất nhiên nó cũng mang hai lớp nghĩa khác nhau. Về nghĩa đen thì như bạn cũng đã biết rồi đấy, xa xưa khi khoa học chưa phát triển con người phải sử dụng chủ yếu là một loại mực tàu để viết chữ. Mài mực từ khổi than đen sau đó cho vào nước và dùng viết chữ và tất nhiên khi đã dùng mực thì không tránh khỏi việc mực dây ra tay và làm bẩn. Gần đèn thì bao giờ bạn cũng nhận được nguồn sáng tốt nhất và sáng sủa nhất, đây là một quy luật tất yếu rồi.

Song bên cạnh nghĩa đen đó thì câu nói còn mang một hàm ý ẩn dụ bên trong đó là lời khuyên nhủ con người chúng ta trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng nên tránh xa nhưng cái xấu vì nó rất dễ lây lan và hãy học tập, noi theo cái tốt để hoàn thiện bản thân mình hơn.

Điều này không sai thậm chí có thể nói là một chân lí. Theo nhiều nhà khoa học thì bản thân mỗi con người chúng ta từ trong bản năng có phản ứng dây chuyền. Tức là bạn rất dễ bị tác động bởi những thứ xung quanh kể cả tốt hay xấu. Song cái xấu thì bao giờ cũng nhanh và nguy hiểm hơn rất nhiều. Để học một thói quen tốt bạn có thể mất một tháng, một năm thậm chí là một đời người thế nhưng cái xấu thì nhanh lắm chỉ một giây phút thôi là bạn đã sa chân vào nó rồi. Bạn có biết vì sao một con người như Chí Phèo lại trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại không? Khi mà ngày xưa hắn là một mẫu người lí tưởng khiến bao nhiêu người mơ ước? Một anh canh điền lực lưỡng, thật thà thế nhưng sau khi vào tù thực dân môi trường đã nhào nặn hắn trở thành một kẻ “chó cùng bứt rậu” tha hóa, biến chất một cách không ngờ. Hay cả thầy Mạnh Tử một trong những bậc đại hiền của Trung Quốc. Ngay từ bé ông đã được mẹ cho sống gần trường học để học phép tắc, và cần mẫn. Nhưng nếu thay vì chuyển đến trường học mẹ ông để ông ở gần nghĩa địa hay chợ búa thì không biết cuộc đời ông sau này sẽ thế nào? Thế mới thấy môi trường sống ảnh hưởng vô cùng lớn đến nhân cách sống cũng như tính cách của con người.

Hàng ngày bạn vẫn còn nghe bố mẹ nhắc nhở chọn bạn mà chơi. Bởi vì sợ bạn sẽ nhanh chóng học tập những cái xấu từ những đứa bạn hư. Điều đó cũng đúng. Bởi lẽ xấu thì nhanh chứ học được điều tốt không phải chuyện dễ dàng gì.

Tuy nhiên nói đi phải nói lại, bên cạnh những con người đang bị tác động và nhào nặn bởi hoàn cảnh cũng còn rất nhiều những tấm gương sáng để cho chúng ta học tập. Quay trở lại với câu tục ngữ trên bạn có bao giờ chắc chắn người ngồi gần đèn luôn luôn rạng không? Có bao giờ nghĩ đến trường hợp có người ngồi khuất ánh đèn hay không?

Chưa kể trên thực tế cũng có rất nhiều con người sống vượt lên hoàn cảnh và trở thành những tấm gương sáng cho bao người học tập. Ai cũng biết môi trường sống quan trọng thế nhưng điều quan trọng nhất đó chính là phẩm chất và bản lĩnh con người. Nếu họ biết nhận thức cái gì tốt cái gì xấu, biết vươn lên hoàn cảnh thì dù khó khăn đến đâu cũng không thể khiến họ lùi bước và thui chột được. Một minh chứng vô cùng điển hình đó là hình ảnh những chiến sĩ bộ đội Cụ Hồ kiên cường chống trong kháng chiến. Những con người đã chấp nhận hi sinh trà trộn vào lực lượng địch để làm Việt gian. Chúng ta đặt câu hỏi vì sao sống trong một môi trường như vậy mà họ vẫn vẹn nguyên phẩm chất anh bộ đội Cụ Hồ, vẫn kiên trung sắt son với lời thề Tổ Quốc? Rồi hiện nay có những đứa trẻ mặc dù sống trong hoàn cảnh nghèo khó mà vẫn quyết tâm học tập để thành người có ích cho xã hội? Đó có phải do hoàn cảnh hay không? Hay chính hoàn cảnh đã thúc đẩy họ đến với thành công một cách nhanh chóng hơn?

Dù có trong bất kì hoàn cảnh môi trường nào thì điều quan trọng nhất đối với một con người không phải đến từ môi trường. Nó chỉ là một yếu tố tác động trong rất nhiều những yếu tố khác. Điều quan trọng nhất đó chính là bản lĩnh con người. Chỉ cần bạn là người có ý chí, có bản lĩnh vững vàng thì không bao giờ bạn đánh mất mình dù có ở bất cứ hoàn cảnh nghiệt ngã nào.

8 tháng 3 2022

:v 1000 từ?

7 tháng 3 2022

Refer

 

Để nhắn nhủ con cháu bài học về lòng biết ơn với thế hệ đi trước, với những người đã giúp đỡ mình, cha ông ta đã sáng tạo nên câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.

“Ăn quả” là cụm từ chỉ hành động đón nhận, và hưởng thụ thành quả, trái ngọt đã được tạo ra, sẵn có. “Kẻ trồng cây” chính là những người đã lao động, làm việc để tạo ra những thành quả đó. Như vậy, câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là lời khuyên nhủ đối với chúng ta rằng phải biết ghi nhớ, kính trọng, trân quý những gì mình được hưởng, được nhận từ những thế hệ đi trước.

Tại sao lại như thế? Bởi vì bất kì những gì mà chúng ta nhận được ngày hôm nay, đều có bàn tay của một thế hệ khác tạo nên. Từ những con đường, quyển sách, đến sự hiện đại, hòa bình ngày hôm nay. Đó có thể là sự vất vả nhất thời, nhưng cũng có thể là nhờ sự hi sinh cả tính mạng. Tất cả đều vô cùng trân quý. Chính vì thế, khi được đón nhận, chúng ta phải nhận lấy bằng niềm biết ơn và trân trọng. Sự biết ơn ấy không phải là một điều vô cùng to lớn, mà nó thể hiện ra từ chính những cảm xúc, hành động của mỗi người. Đó là lời cảm ơn khi được nhận một món quà. Là sự trân trọng những trang sách. Là sự tri ân đến các chú bộ đội.

 

Dù vậy, hiện nay vẫn có một bộ phận người dân đi ngược lại đạo lý ấy. Họ mặc nhiên hưởng thụ mà không hề có lòng biết ơn. Họ cho rằng những điều mình nhận được là hiển nhiên và chẳng có gì là đặc biệt. Vì vậy, họ tận hưởng một cách phung phí. Hiện tượng này thật đáng trách và cần phải thay đổi ngay. Mà cách tốt nhất, chính là sự thay đổi từ chính trong giáo dục. Không chỉ qua sách vở, mà còn cần phải giáo dục qua các bộ phim, ca nhạc, báo chí.

Là một học sinh, em luôn cố gắng trao dồi bản thân mỗi ngày. Câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” chính là một “lối sống” mà em vẫn luôn lấy làm chuẩn mực để hoàn thiện bản thân.

 
6 tháng 9 2018

Trong hai văn bản Cổng trường mở ra và Mẹ tôi người mẹ đều có tấm lòng yêu thương con.Văn bản Cổng trường mở ra nói về người mẹ lo lắng cho con không biết con cảm thấy gì trước ngày khai trường.Mẹ lo lắng đến nỗi không ngủ được.Mẹ muốn từ từ ghi vào long con cảm giác đó để khi con lớn con nhớ lại cảm giác tuyệt vời ấy.Còn văn bản Mẹ tôi,người mẹ dám làm tất cả để tránh cho con một giờ đau đớn.Mẹ cũng có thể đi ăn xin để cứu sống con trước hơi thở hổn hển,quằn quại.Qua hai văn bản trên ta có thể thấy được rằng tấm lòng của người mẹ thât là cao cả,yêu thương người con bằng cả trái tim dịu dàng.

6 tháng 9 2018

 Trong hai văn bản Cổng trường mở ra và Mẹ tôi người mẹ đều có tấm lòng yêu thương con .Văn bản Cổng trường mở ra nói về người mẹ lo lắng cho con không biết con cảm thấy gì trước ngày khai trường.Mẹ lo lắng đến nỗi không ngủ được. .Mẹ muốn từ từ ghi vào long con cảm giác đó để khi con lớn con nhớ lại cảm giác tuyệt vời ấy.Còn văn bản Mẹ tôi,người mẹ dám làm tất cả để tránh cho con một giờ đau đớn. Mẹ cũng có thể đi ăn xin để cứu sống con trước hơi thở hổn hển,quằn quại.Qua hai văn bản trên ta có thể thấy được rằng tấm lòng của người mẹ thât là cao cả,yêu thương người con bằng cả trái tim dịu dàng.

2

21 tháng 10 2016

+) Hằng năm, cứ vào mùa thu , người Hà Nội được ngắm những con mưa lá sấu vàng rơi xuống vai trong hương thơm dìu dịu.

+) Những cánh hoa hình sao vàng màu trắng sữa chao nghiêng trong gió.

+) Sấu dầm vừa ngọt vừa thơm, hương vị khi ăn vào đỡ khát trong những trưa

Thiếu từ và sử dụng từ ngữ sai.

 

Cuối năm 1076, mấy chục vạn quân Tống sang xâm lược nước ta. Quân ta dưới quyền chỉ huy của Lý Thường Kiệt đã chặn trúng ở phòng tuyến Sông Cầu. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt. Truyền thuyết kể rằng: một đêm quân sĩ chợt nghe trong đền thờ Trương Hống và Trương Hát (tướng của Triệu Quang Phục hy sinh vì nước) có tiếng ngâm bài thơ này, ý nói thần linh muốn phù hộ quân ta. Bài thơ đã góp phần khích lệ tinh thần quân sĩ đánh tan quân Tống, buộc chúng phải rút lui nhục nhã tháng 3 năm 1077.

Bài thơ không có tiêu đề, vốn rất phổ biến trong dân gian. Tiêu đề Nam quốc Sơn hà do người biên soạn đặt. Truyền thuyết kể rằng thần đọc bài thơ này khi giúp Lê Hoàn chống Tống  (981) và lại vang lên một lần nữa giúp Lý Thường Kiệt đánh tan quân Tống trên dòng sông Như Nguyệt (1077).

Bài thơ Nam quốc sơn hà có ít nhất là 35 dị bản sách và 8 dị bản thần tích. Thư tịch đầu tiên có chép bài thơ này là sách Việt điện u linh tập. Song bản Nam quốc sơn hà trong Việt điện u linh tập không phải là bản được biết đến nhiều nhất, bản ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư mới là bản được nhiều người biết nhất. Đại Việt sử ký toàn thư là bộ chính sử đầu tiên có ghi chép bài thơ này.

Phiên âm Hán-Việt:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Bản dịch thơ của Trần Trọng Kim:

Sông núi nước Nam, vua Nam ở,
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

Bản dịch thơ của Lê Thước và Nam Trân:

Núi sông Nam Việt vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.

Theo Từ điển Bách khoa toàn thư, bản dịch của Lê Thước và Nam Trân đã có nhiều thay đổi. Có thể nói bản dịch của Trần Trọng Kim khá trôi chảy và chuyển tải được ý nghĩa của bài thơ. Bản dịch này trước đây được đưa vào sách giáo khoa nhưng sau bị loại bỏ và sử dụng bản dịch cuarLee Thước và Nam Trân.

Người ta thường nghĩ bài thơ này là lời chủ tướng nhằm vào binh sĩ của mình để khích lệ. Cho dù có hiểu bài thơ là nhằm truyền tới tướng sĩ tinh thần chống  giặc, thì đối tượng vận động vẫn là quân giặc xâm lược. Hai câu thơ cuối mang tính chất đối thoại, thể hiện rõ ràng lập trường chính nghĩa của quan ta

“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.

Tinh thần bài thơ là sự khẳng định chủ quyền đất nước và lập trường chính nghĩa của ta. Mở đầu bài thơ là niềm tự hào về chủ quyền đất nước: “Sông núi nước Nam vua Nam ở”. Đó là sự thật hiển nhiên như chân lý đã được định đoạt ở trời cao. Thế nhưng, điều ấy đã được tôn trọng. Thế nhưng giặc bạo tàn ỷ vào sức mạnh đã ngang nhiên xâm phạm nước ta, không tuân với ý trời, làm điều bất nghĩa.

Xưng nước Nam là phủ nhận đi cái mồ ma quận huyện trong đầu óc lũ xâm lược, coi mình đàng hoàng là một nước (Nam Quốc), có đầy đủ quyền hạn bà ngang hàng với nước Bắc (Bắc Quốc). Xưng vua Nam (Nam đế) là bác bỏ cái trịch thượng của vua nhà nó tự xưng là thiên tử (con trời), coi vua các nước khác là chư hầu, gọi là vương (Đinh Bộ Lĩnh xưng là Đinh Tiên hoàng đế, nhưng triều đình nhà Tống chỉ công nhận là Giao Chỉ quận vương, tước vương ở một quận). Tự hào, hiên ngang, mình tuyệt đối làm chủ đất nước mình và không phải nói suông. Chiến dịch đánh ngay vào căn cứ của chúng mấy tháng trước ngay trên đất chúng là một bằng chứng. Nước Nam, vua Nam không còn là chuyện chữ nghĩa mà là sự khẳng định ở tầm quốc gia, ở chủ quyền dân tộc vô cùng lớn lao.

Ngày xưa có quan niệm cho rằng đất đai dưới mặt địa cầu đều ứng với các vùng sao trên trời. Sao trên trời đã chia vùng thì dưới mặt đất này cũng cõi nào nước ấy, tựa như đã phân chia từ trên trời, điều đó đã là trời định, thiêng liêng, bất khả xâm phạm.

Nước Nam, vua Nam quốc gia dân tộc, tự hào, lớn lao thật, nhưng dù sao vẫn là chuyện con người, chưa ra khỏi phạm vi con người, còn là là dưới mặt đất, chưa đủ chiều cao khiến kẻ thù lạnh mình, chùn tay. Phải nhờ đến sức mạnh của trời: rành rạch định phận ở sách trời. Cả binh sĩ ta hay quân tướng giặc đều tin như vậy. Vô luận đều nghe trực tiếp từ giọng “thần” trong đền hoặc nghe loa lặp lại truyền qua mặt trận, quân ta nhất định hăng lên bội phần, lũ giặc không khỏi hoang mang, khiếp đảm.

Có lẽ không nên bỏ qua chút tỉ mỉ dạy trong nhà trường nhưng rất nghệ thuật này: từ vựng và ngữ pháp có vai trò trong sức khẳng định nói trên. Có phải câu thơ xếp thành mấy khối không nào? Ở câu chữ Hán rõ hơn: “Nam quốc” gần như một từ, “sơn hà” là một từ,“Nam đế” cũng gần như một từ, “cư” là một từ. Câu dịch không rõ bằng, nhưng cũng coi như có từng mảng: “sông núi” là một mảng, lẽ ra nên dịch là bờ cõi thì bờ cõi sẽ là một từ, “nước Nam” làm một mảng, “vua Nam” cũng vậy, “ở” cũng thế.

Mỗi mảng là một khối làm nên cái rắn chắc của chân lí, chân lí như đúc lại thành khối.“Sông núi nước Nam” là một nhóm danh từ làm bổ nghĩa cho “ở”, đặt ra trước, còn “vua Nam” ở là cụm chủ vị đặt ra sau là một cách nhấn mạnh ý nghĩa của câu trong nghệ thuật cú pháp, nhấn mạnh tính khẳng định của chân lí: nước Nam là của người Nam. Chữ nghĩa ở câu thứ hai cũng xếp khối càng làm cho chân lý ấy thêm vững chắc.

Tiếp đến là một câu hỏi: “Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?” Hỏi quân giặc trực tiếp. Chân lí hiển nhiên, đơn giản lại thiêng liêng tự trời cao như thế, sao lại dám xâm phạm? Hỏi nhưng là ngạc nhiên và khinh bỉ. Ngạc nhiên là bởi Trung Quốc tự coi mình là thiên tử (con trời) mà dám tự ý làm trái với mệnh trời, tất trở thành kẻ nghịch tử. Đó chẳng phải là làm điều ngu xuẩn đó sao?

Bàn thêm một chút về nghệ thuật: tại sao lại hỏi? Bởi bên trên đã khẳng định. Có khẳng định ở trên mới có nghi vấn này nhằm tăng sức khẳng định, tăng bằng cách đối lập cái phi nghĩa với cái chính nghĩa của người và cả của trời. Khẳng định bằng khẳng định là chuyện thường, khẳng định bằng nghi vấn phủ định mới là lạ. Cái thuật của ngôn ngữ có vậy.

Có điều không cần đáp trực tiếp. Để cho chúng tự đáp. Ta chỉ báo trước số phận sẽ dành cho chúng: rồi xem! Chúng bay sẽ chuốc lấy phần thất bại không còn chút gì (Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư). Câu thơ dịch không lột được tinh thần ấy: Chúng bay sẽ bị đán tơi bời. Sẽ bị đánh tức là ta đánh. Nguyên văn chỉ nói: tự chuốc lấy phần thua. Không nói ta đánh mà nói chúng nó tự làm chúng nó thua, mà thua sạch trơn, thua vì hành động phi nghĩa.

Sức mạnh chiến thắng của ta là ghê gớm, chúng không ngăn nổi, như một sự trừng phạt đáng sợ đâu từ trên trời giáng xuống, ta không nói và cũng không hiểu nổi. Như thế chẳng phải là nhân sức mạnh mình lên đến sức mạnh thần linh, ứng với sách trời ở trên sao?

Chẳng phải khẳng định ở mức độ cao thẳm sự thất bại của địch và sự chiến thắng của mình sao? Cần nhớ thêm rằng trong giấy tờ giao thiệp với nhà Minh, dù đã đánh bại chúng rồi, Lê Lợi cứ một mực đổ lỗi thất bại của quân tướng nhà nó là tự ý gây sự và tự làm cho chúng thất bại. Đó có phải là đường lối ngoại giao nhất quán của ông cha ta thời xưa đối với kẻ xâm lược phương Bắc? Chỉ là nhún nhường chăng? Đó là khôn khéo, là chiến lược.

Nếu chú ý thêm đến âm điệu thì câu thơ dường như mang âm hưởng của một lời phán xét một mặt từ trên cao, bao hàm không những sự tiền định thiêng liêng mà cả sự tất yếu khách quan của quy luật không hề lay chuyển: quân cướp phản nghịch nhất định phải thất bại. Một lần nữa chân lí chủ quyền được khẳng định không chỉ bằng chính nghĩa mà còn bằng sức mạnh để bảo vệ chân lí ấy.

Nhiều ý kiến cho đây là một bản tuyên ngôn độc lập bằng thơ. Kể ra trong lịch sử loài người cũng hiếm có. Không chỉ lịch sử thơ Đường mà cả lịch sử thơ Đường luật nói chung, chắc cũng lấy làm lạ sao thể thơ phong nhã này lại sản sinh ra một bài thơ có giá trị có thể xem là kì lạ như vậy. Nó có thể nói tình nói chí gì đấy.

Mà kì lạ hơn, là nói chính trị mà đầy sắc thái tình cảm. Tất cả trái tim, khối óc của người làm thơ đã trút vào đây, tất cả trí tuệ, kinh nghiệm, ngạc nhiên, khinh bỉ, tin tưởng, tự hào đều đúc lại thành những lời, những điệu thông qua kết cấu từ vựng, ngữ pháp, cú pháp, cấu trúc toàn bài, nên tập trung lại thể hiện thành một sức khẳng định mãnh liệt, khẳng định sắt thép, khẳng định vĩnh viễn, vượt lên trên mọi thử thách, vượt qua mọi thời gian, cái chân lí thiết thân ấy đối với dân tộc ta: Không có gì quý hơn độc lập, tự do.

Bài thơ làm trong một hoàn cảnh cụ thể và nhằm một mục đích cụ thể. Nhưng nó không chỉ khuôn lại trong hoàn cảnh ấy. Nó còn kéo dài vô tận. Cái chất của nó còn ở mĩ học, ở ngay cả chính trị và không chỉ thuộc một thời. Có ai là người Việt Nam học mà không thuộc?