K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Nông nghiệp:

+ Giảm tô thuế, bớt sưu dịch.

+ Thực hiện chế độ quân điền: lấy đất công và ruộng bỏ hoang chia cho nông dân.

+ Áp dụng những kĩ thuật canh tác vào sản xuất như chọn giống, xác định thời vụ,… làm cho năng suất tăng.

17 tháng 10 2020

Sử dụng phân bón hữu cơ trong nông nghiệp.  trong canh tác nông nghiệp phân bón hữu cơ có vai trò rất quan trọng trong quá trình sinh trưởng phát triển của cây trồng. Nhưng để sử dụng phân  cho hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất thì chúng ta cần có cái nhìn tổng quan về phân bón hữu cơ.
     Phân hữu cơ là các loại phân chứa chất dinh dưỡng dưới dạng hữu cơ. Trước đây, khi phân vô cơ (hóa học) xuất hiện với lợi ích nó mạng lại, đạt hiệu quá nhanh thì phân bón hữu cơ dần trôi vào dĩ vãng,  đã quên dần đi phân hữu cơ. Nhưng hiện nay với xu hướng phát triển một nền nông nghiệp bền vững con người đã dần hiểu ra những tác hại của việc sử dụng phân bón vô cơ một cách tràn lan không đúng cách, sẽ  khiến đất đai bị suy kiệt, ô nhiễm môi trường, cây trồng thiếu hụt các chất trung vi lượng và con người đã nhận thấy tầm quan trọng của phân hữu cơ đối với đất đai, môi trường và cây trồng, nhất là không thể thiếu đối với nền nông nghiệp hữu cơ.
     Hữu cơ là tiêu chỉ để đánh giá độ phì nhiêu, độ tơi xốp, kết cấu đất, độ thấm thấu và giữ nước, tính đệm của đất, quyết định đến số lượng, sự hoạt động của hệ vi sinh vật đất. Phân hữu cơ là phân bón rất tốt cho cả đất lẫn cây trồng, có chứa đủ các dinh dưỡng khoáng đa trung vi lương cung cấp cho cây trồng, là một loại phân bón giúp cải tạo đất có hiệu quả tốt. Ngoài ra, phân hữu cơ còn tăng hiệu quả hấp thu các chất dinh dưỡng của cây từ đất.
    

17 tháng 10 2020

nhầm chủ đề rùi

5 tháng 11 2018

1, chịu

2  Ý nghĩa phong trào Văn hoá Phục Hưng : Lên án giáo hội Ki tô, tấn công vào trật tự phong kiến, đánh bại tư tưởng phong kiến lỗi thời.Đây là cuộc đấu tranh đầu tiên của giai cấp tư sản chống lại chế độ phong kiến trên mặt trận văn hoá tư tưởng.Đề cao tự do, xây dựng thế giới quan tiến bộ.

3, Nhận thức rõ tầm quan trọng của các nước láng giềng đối với an ninh và phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng quan hệ với các nước này trong chính sách và hoạt động đối ngoại. Những quan điểm, chủ trương chính sách với các nước láng giềng luôn được Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh trước đây, cũng như Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới hiện nay thường xuyên bổ sung, phát triển trên cơ sở kế thừa những bài học kinh nghiệm ứng xử của ông cha ta trong quan hệ với các nước láng giềng là hòa hiếu, hữu nghị, hợp tác, nhân ái, đồng thời vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong quan hệ giữa các dân tộc là hòa bình, hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi. Trong bức thư ngày 13-1-1947 gửi các lãnh tụ và nhân dân các nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Việt Nam chỉ muốn hòa bình độc lập để cộng tác thân thiện với các dân tộc trên thế giới, trước là với dân tộc anh em Á Đông và dân tộc Pháp. Việt Nam chỉ giữ gìn chủ quyền, độc lập của mình chứ không hề xâm phạm đến ai”((12) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H 1995, tr 2212). Quan điểm này cùng với quan điểm của Hồ Chí Minh về “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”((13) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, tr.22013) thể hiện rõ đường lối, chính sách đối ngoại nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam nói chung và quan điểm, chủ trương chính sách với các nước láng giềng nói riêng. Trên thực tế, từ khi tiến hành đổi mới đến nay, Việt Nam luôn quán triệt quan điểm, chủ trương chính sách chung với các nước láng giềng là “thân thiện”, hữu nghị, hợp tác, cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Việt Nam coi trọng xây dựng quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước láng giềng, tạo ra sự ổn định để phát triển, đặt sự ổn định với láng giềng, ổn định khu vực lên hàng đầu trong chính sách và hoạt động đối ngoại. Trong giai đoạn khi quan hệ Việt Nam - Trung Quốc còn băng giá sau hai cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, thì trong đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới, Đảng ta vẫn kiên trì chủ trương: “sẵn sàng đàm phán với Trung Quốc bất cứ lúc nào, bất cứ cấp nào và bất cứ ở đâu nhằm bình thường hai quan hệ giữa hai nước vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới”((14) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb CTQG, Hà Nội 2005, tr. 113-114, 29514). Mặt khác, Đảng nhấn mạnh sự cần thiết tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Lào và Campuchia: “Tiếp tục thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với Lào và Campuchia, củng cố liên minh chiến lược với hai nước láng giềng anh em, cùng nhau tăng cường thế và lực của cách mạng ở cả ba nước , tăng cường quan hệ đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô, Lào, Campuchia”((15) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Sđd, tr. 15, 3015). Đảng ta đánh giá cao quan hệ hợp tác với hai nước láng giềng Lào và Campuchia đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, coi đó “là điều kiện vô cùng quan trọng để nhân dân ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”((16) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Sđd, tr. 1516).

câu 3 mik ko chắc nhé.

học tốt.

5 tháng 11 2018

giúp mk vói các bạn ơi

8 tháng 11 2018

Uh, đợi mình xíu nha, xíu thui

9 tháng 11 2018

Vì việc giải cứu nông sản làm giảm đi các loại hàng hóa tồn động như là watermelon nek, pork nek, logan nek,...Điều đó đem lại nguồn lợi và cả nguồn vốn cho nhân dân nên việc giải cứu nông sản giúp cho nông nghiệp phát triển nhé!!!!!

k nghe bạn

8 tháng 12 2017

Dưới tác động của tiến trình đô thị hóa, diện tích đất nông nghiệp của Việt Nam ngày càng giảm. Sự gia tăng nhanh mức độ ô nhiễm môi trường do việc sử dụng ngày càng nhiều phân hoá học, thuốc trừ sâu, bệnh, cỏ dại…làm ảnh hưởng đến giá trị sản xuất nông nghiệp hàng năm. Trước tình hình này, việc phát triển nền nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao sẽ là hướng đi đúng đắn để nông nghiệp phát triển bền vững.

Ở VN, nông nghiệp hữu cơ đã biết đến từ lâu nhưng nó mới chỉ được quan tâm và nghiên cứu trong một vài năm trở lại đây, nhất là khi những vấn đề mất an toàn vệ sinh thực phẩm đến mức báo động.

Nông nghiệp sạch (hay còn gọi là nông nghiệp hữu cơ) là một hệ thống quản lý sản xuất nông nghiệp tránh sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu tổng hợp, giảm tối đa ô nhiễm không khí, đất và nước, tối ưu về sức khỏe và hiệu quả của các cộng đồng sống phụ thuộc lẫn nhau giữa cây trồng, vật nuôi và con người.

Sản xuất nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam hiện tại vẫn còn nhỏ lẻ, manh mún và phát triển còn chậm. Theo Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam, năm 2010 cả nước có 21.000ha nông nghiệp hữu cơ. Hai năm sau diện tích cũng chỉ tăng thêm được 2.400ha, lên thành 23.400ha, chỉ bằng… 0,2% diện tích đất sản xuất nông nghiệp.

Có thể nhận thấy một thực tế hiện nay là việc sản xuất, canh tác của bà con còn dựa quá nhiều vào các loại phân bón hoá học và lượng lớn thuốc bảo vệ thực vật. Những điều về lâu về dài sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến việc sản xuất khi đất canh tác bị nhiễm độc, mất dần độ màu mỡ, làm giảm năng suất, chất lượng cây trồng và ảnh hưởng đến thu nhập và cả môi trường sống của bà con.

 Bên cạnh trồng trọt thì các vấn đề trong chăn nuôi như sử dụng thuốc tăng trọng, chất thải, vệ sinh chuồng trại… cũng là một vấn đề đáng lo ngại khi tình hình dịch bệnh trên đàn vật nuôi đang ngày càng diễn biến một cách phức tạp, các cảnh báo sử dụng chất cấm trong chăn nuôi ngày càng nhiều. Những điều này không chỉ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất của bà con mà còn gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của người tiêu dùng và cộng đồng.

Để giải quyết vấn đề này, giải pháp hiệu quả chính là từng bước thay đổi phương thức sản xuất của bà con nông dân, khuyến khích bà con phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng an toàn vệ sinh thực phẩm, nâng cao chất lượng nông sản của bà con.

Nhiều chuyên gia trong ngành nông nghiệp cho rằng để khuyến khích sản xuất, sử dụng phân bón hữu cơ, nhà nước cần phải vào cuộc với các chính sách ưu đãi, hỗ trợ về kỹ thuật, vốn, khuyến nông và liên kết với các doanh nghiệp.

Ngoài ra, cần xây dựng mô hình điểm để nâng cao nhận thức, thay đổi tư duy, tập quán, cách nghĩ, cách làm của nông dân, sau đó tiến tới tổ chức tập huấn, chuyển giao tiến bộ kĩ thuật, công nghệ sinh học, giống mới và công nghệ sau thu hoạch vào phát triển sản xuất rau an toàn công nghệ cao cho họ canh tác. Mặt khác, các cơ quan chức năng của thành phố, các doanh nghiệp,… tạo mối liên kết chặt chẽ với nông dân, hộ sản xuất và vùng nguyên liệu.

Nhận thấy vai trò to lớn của doanh nghiệp trong lĩnh vực này, Tổng công ty Sông Gianh đã đi đầu về việc xây dựng các mô hình sử dụng phân bón hữu cơ cho nông sản như: Mô hình sử dụng phân bón hữu cơ cho cây lúa tại Thái Thụy, Thái Bình và Gia Viễn, Ninh Bình. Kết quả cho thấy, cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt, không những cho năng suất, chất lượng cao mà đồng đất cũng được cải tạo, đất tơi xốp, các sinh vật trong đất phát triển mạnh.

Bên cạnh đó, Tổng công ty Sông Gianh cũng liên tục thực hiện các buổi tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật sử dụng phân bón hữu cơ Sông Gianh, canh tác nông nghiệp theo hướng hữu cơ cho bà con nông dân tại các vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm. Điều này nhận được sự hưởng ứng rất đông đảo của bà con và từ nhận thức đó, bà con bắt tay áp dụng vào thực tế, tạo được hiệu quả canh tác rõ rệt.

 

Để khuyến khích sản xuất nông nghiệp hữu cơ cần đẩy mạnh phát triển mạnh công nghiệp chế biến, nông sản rau an toàn cho tiêu thụ và xuất khẩu. Thực hiện xúc tiến thương mại tiêu thụ sản phẩm rau an toàn, đầu tư xây dựng chợ đầu mối tiêu thụ nông sản (đặc biệt cho rau, củ, quả) tại điểm trung tâm thành phố, tổ chức hệ thống tiêu thụ và cung ứng rau an toàn trên địa bàn mỗi tỉnh, thành.

 Cơ quan chức năng và các công ty kinh doanh liên kết tổ chức việc thu mua nông sản sạch, rau an toàn xuất khẩu ra nước ngoài, song song với việc giới thiệu sản phẩm rau an toàn nhằm tăng khả năng tiêu thụ ra các tỉnh thành lân cận và cung cấp rau an toàn cho các thành phố lớn.

Có thể khẳng định, trước nhu cầu đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, việc phát triển nền nông nghiệp sạch nhằm đóng góp vào việc cung cấp các sản phẩm an toàn phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng là việc hết sức cần thiết và quan trọng.

Canh tác nông nghiệp sạch không những giúp nông dân tiết kiệm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn đưa người nông dân tới gần hơn với nền sản xuất hiện đại, tạo nền tảng cho nông nghiệp phát triển, hướng tới xây dựng nông thôn mới bền vững.