Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Em tham khảo nhé !
Sống chết mặc bay là một truyện ngắn hiện đại đầu đầu mang những giá trị hiện thực sâu sắc, tố cáo, lên án chế độ phong kiến lạc hậu, cũ nát, cùng lũ quan trên độc ác, tàn nhẫn, giẫm đạp lên cái khốn cùng của nhân dân để ăn chơi xa xỉ, vui hưởng lạc thú. Đồng thời tác phẩm còn là tiếng lòng thương cảm, xót xa cho số phận người nông dân thấp cổ bé họng dưới chế độ cũ, cuộc sống khổ cực lầm than, thiên tai lũ lụt ập đến liên miên, kêu trời trời không thấu, kêu đất đất cũng chịu làm thinh, đắng cay muôn vàn không kể hết.
Sống chết mặc bay là tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn Phạm Duy Tốn, mở đầu cho lối văn học hiện thực hơi hướng phương Tây của Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ 20. Tác phẩm được in trên báo Nam Phong vào tháng 12 năm 1918, điển cho một lối văn mới, gây ấn tượng sâu sắc cho độc giả lúc bấy giờ bởi những chi tiết đắt giá và hình thức thể hiện mới mẻ, cách xây dựng nhân vật đặc sắc, phản ánh rõ nét nỗi khốn khổ, tuyệt vọng của người nông dân khi đối mặt với thiên tai, nêu bật được sự vô nhân đạo, tàn ác, lòng lang dạ thú của những tên quan phụ mẫu trong cảnh an nhàn, vui hưởng lạc thú. Trong đó Phạm Duy Tốn đã cất công gây dựng được hình tượng một tên quan phụ mẫu với những chi tiết đáng giá, vừa thể hiện thái độ căm tức, tố cáo, lại cũng là trào phúng, châm biếm một cách mạnh mẽ những kẻ ngồi trên ăn trước này.
Sống chết mặc bay có cách mở đầu hoàn toàn khác biệt với các tác phẩm văn học truyền thống, khởi đầu Phạm Duy Tốn đã lập tức tái hiện lại cảnh hộ đê khốn khổ của người dân làng X, phủ X trên khúc đê bao quanh sông Nhị Hà, nay gọi là sông Hồng. Khung cảnh được tái diễn một cách sinh động, không khí vô cùng khẩn trương gấp gáp với những câu vào thẳng bối cảnh truyện "Gần một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng... thuộc phủ..., xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất....". Từ đó mở khung cảnh thiên tai bão lũ đầy nguy cấp, còn dân làng thì đang khốn khổ dùng hết mọi sức lực để mong cứu cho được khúc đê sắp vỡ, mà trên lưng họ lúc bấy giờ là gánh nặng sinh mạng của hàng trăm, hàng ngàn con người. Tình thế ấy quả thực là ngàn cân treo sợi tóc, khiến lòng người hoang mang, sợ hãi và tuyệt vọng vô cùng với thế nước ngày một dâng cao chỉ trực sẽ nuốt trôi cả ngôi làng trước mắt. Những lời bình ngắn, những câu cảm thán đầy xót xa, ngao ngán của tác giả "Tình cảnh trông thật thảm hại" ; "Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê nay hỏng mất", lại càng làm nổi bật cái tình cảnh khốn khổ, bất lực, mỏi mệt và tuyệt vọng của dân làng, trước thiên tai dữ dội.
Việc vừa vào truyện đã nêu nổi bật lên cảnh hộ đê đầy thảm hại của người nông dân của Nguyễn Duy Tốn không chỉ có giá trị phản ánh sự dữ dội của thiên tai và nỗi vất vả, bất lực của người nông dân trước cảnh ngàn cân treo sợi tóc, mà nó còn đóng vai trò là bước bẹm là cái nền tương phản làm nổi bật lên sự tàn ác, vô nhân đạo, sự khốn nạn của tên quan phụ mẫu. Mang tiếng là quan phụ mẫu đến để trông nom, đốc thúc nhân dân bảo vệ đê điều, chăm lo cho cuộc sống của nhân dân sao cho xứng với hai chữ "phụ mẫu", thế nhưng thực tế rằng lại tận hưởng cuộc sống thư thái trên chính nỗi đau của nhân dân, "hộ đê" bằng cách đánh bài tổ tôm. Hình tượng nhân vật quan phụ mẫu đã được Phạm Duy Tốn khắc họa một cách rõ nét thông qua việc miêu tả cuộc sống phong phú, giàu sang khác hẳn với sự vật vã, tuyệt vọng và khốn khổ của dân làng X. Trong khi toàn thể dân làng "hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy ướt như chuột lột", thì trái lại tên quan phụ mẫu cho chúng ta hình ảnh, hắn đang ở trong một ngôi đình to lớn, ấm áp, mưa không tới mặt nắng không tới đầu, cách chỗ đê sắp vỡ chừng bốn năm trăm thước để đánh bài tổ tôm. Tư thế vô cùng nhàn hạ, thoải mái dường như trận mưa lớn, cùng những tiếng hò dô, bảo hộ đê của muôn nghìn người dân chẳng lọt vào tai hắn một đến một tiếng "tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên hầu quỳ dưới mà gãi", lại có cả tên lính lệ đứng bên liên tục phe phẩy quạt, tên trực điếu đóm cho, trông chẳng khác nào một tên vương giả đang nghỉ mát. Thêm nữa trong khi hàng trăm con người ướt như chuột lột lo đắp đê, chống lũ trong khốn khổ, có lẽ chẳng có thời gian mà cơm nước, nghỉ ngơi thì quan phụ mẫu lại sung sướng lắm nào cháo yến hấp đường phèn, rồi trầu vàng, cau đậu, rễ tía, ống thuốc bạc, đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm, ngoáy tai,... ôi chao cuộc sống làm gì có thể đủ đầy và vương giả hơn thế nữa. Thú thực được như thế, thì bao nhiêu mưa gió ngoài kia lại chỉ càng làm cho cái thú thưởng thức nó thêm phần tuyệt hảo, đúng với phong thái "hộ đê" của riêng quan phụ mẫu. Rồi cái cảnh lính lệ, người ở, các thầy đề, thầy thông nhì, thầy đội nhất, thầy chánh tổng sở tại,... người đi lại nhịp nhàng, cẩn thận, kẻ ngồi xếp bằng trật tự, ung dung, dáng vẻ tôn hiển, nghiêm túc cùng với quan phụ mẫu bệ vệ ngồi trên, thiết nghĩ ồ có lẽ các quan đang suy xét nghĩ kế hộ đê. Ôi, thế nhưng trò đời với cái thói ngược ngạo, đâu có cho ta được viễn cảnh thuận tình ấy, hóa ra các ngài cũng đang "hộ đê" đấy nhưng là hộ đê bằng những con bài tổ tôm, được nâng lên hạ xuống một cách thích chí, say mê, chứ các quan nào có biết gì đến nỗi khổ tâm của con dân ngoài kia đâu.
Sự nhẫn tâm, khốn nạn của tên quan phụ mẫu này nếu chỉ dựa vào cái cảnh hắn sống sung sướng thì có lẽ vẫn chưa đủ, mà thêm vào đó tác giả còn cho nhân vật này những lời thoại rất đắt bộc lộ một cách rõ nét bản chất lòng lang dạ sói của hắn. Khi có tên hầu vào báo "Bẩm dễ có khi đê vỡ", những tưởng quan sẽ giật mình sốt sắng, bỏ vội chiếu bài dở để đi hộ đê cho kịp, nhưng không, quan phụ mẫu ở đây không làm như vậy, ngài gắt "Mặc kệ". Than ôi, thật đúng cho cái tiêu đề sống chết mặc bay thật, những mưa to gió lớn, những tiếng khóc, tiếng kêu, người cuốc đất, người khiêng đá đắp đê, đấu lại nước lũ đang chực chờ nuốt chửng cả ngôi làng bé nhỏ cũng chẳng thể hồi hộp, gay cấn bằng những con bài đen, bài đỏ, những nước bài cao thấp phân tranh trên chiếu bạc của quan phụ mẫu. Ngài bận nghĩ cho ra một nước bài cao, đánh cho ra trận thông ù, để nhận muôn lời nịnh hót của chúng quan phía dưới, chứ can gì nỗi sống chết của nhân dân, can gì cảnh ruộng đồng, ngập lụt, trâu bò trôi sông đâu. Trong khi mọi người run sợ vì những tiếng kêu gào thảm thiết của người, chó, gà, lợn, trâu, bò ầm ĩ thì riêng quan vẫn cứ điềm nhiên một nỗi như không, đúng là phong thái của một vị quan phụ mẫu, giá như cái phong thái ấy nó phát huy trong lúc ngài chỉ huy nhân dân rào đắp con đê sắp vỡ thì nó lại phước phần quá.
Nếu như lúc đê sắp vỡ quan chỉ gắt mặc kệ, vì nghĩ còn lâu đê mới vỡ thì đến khi đê vỡ thật, thái độ của quan mới lại khiến người ta không khỏi căm tức "Đê vỡ rồi!... Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy". Quan có giận vì lo sợ đê vỡ hay hoảng hồn vì tình thế nguy cấp, vì tính mạng của nhân dân đâu, quan tức, quan gắt chỉ bởi cái tên nhà quê nhếch nhác chết tiệt kia dám vô phép vô tắc chạy xồng xộc vào nơi uy nghiêm, bề thế nơi mà quan đang bận đánh bài tổ tôm sung sướng mà thôi. Rồi thì bây giờ, đê vỡ hay không vỡ vốn dĩ quan chẳng thèm quan tâm, quan sướng phần quan, còn dân bay chết trôi, chết nổi, tan đàn xẻ nghé dường như chẳng liên quan gì đến việc quan vừa ù xong ván bài nữa. Đắc ý lắm, mà cũng độc ác, nhẫn tâm lắm!
Sống chết mặc bay là một truyện ngắn hiện đại đầu đầu mang những giá trị hiện thực sâu sắc, tố cáo, lên án chế độ phong kiến lạc hậu, cũ nát, cùng lũ quan trên độc ác, tàn nhẫn, giẫm đạp lên cái khốn cùng của nhân dân để ăn chơi xa xỉ, vui hưởng lạc thú. Đồng thời tác phẩm còn là tiếng lòng thương cảm, xót xa cho số phận người nông dân thấp cổ bé họng dưới chế độ cũ, cuộc sống khổ cực lầm than, thiên tai lũ lụt ập đến liên miên, kêu trời trời không thấu, kêu đất đất cũng chịu làm thinh, đắng cay muôn vàn không kể hết.
Sống chết mặc bay là một truyện ngắn hiện đại đầu đầu mang những giá trị hiện thực sâu sắc, tố cáo, lên án chế độ phong kiến lạc hậu, cũ nát, cùng lũ quan trên độc ác, tàn nhẫn, giẫm đạp lên cái khốn cùng của nhân dân để ăn chơi xa xỉ, vui hưởng lạc thú. Đồng thời tác phẩm còn là tiếng lòng thương cảm, xót xa cho số phận người nông dân thấp cổ bé họng dưới chế độ cũ, cuộc sống khổ cực lầm than, thiên tai lũ lụt ập đến liên miên, kêu trời trời không thấu, kêu đất đất cũng chịu làm thinh, đắng cay muôn vàn không kể hết.
Sống chết mặc bay là tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn Phạm Duy Tốn, mở đầu cho lối văn học hiện thực hơi hướng phương Tây của Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ 20. Tác phẩm được in trên báo Nam Phong vào tháng 12 năm 1918, điển cho một lối văn mới, gây ấn tượng sâu sắc cho độc giả lúc bấy giờ bởi những chi tiết đắt giá và hình thức thể hiện mới mẻ, cách xây dựng nhân vật đặc sắc, phản ánh rõ nét nỗi khốn khổ, tuyệt vọng của người nông dân khi đối mặt với thiên tai, nêu bật được sự vô nhân đạo, tàn ác, lòng lang dạ thú của những tên quan phụ mẫu trong cảnh an nhàn, vui hưởng lạc thú. Trong đó Phạm Duy Tốn đã cất công gây dựng được hình tượng một tên quan phụ mẫu với những chi tiết đáng giá, vừa thể hiện thái độ căm tức, tố cáo, lại cũng là trào phúng, châm biếm một cách mạnh mẽ những kẻ ngồi trên ăn trước này.
Sống chết mặc bay có cách mở đầu hoàn toàn khác biệt với các tác phẩm văn học truyền thống, khởi đầu Phạm Duy Tốn đã lập tức tái hiện lại cảnh hộ đê khốn khổ của người dân làng X, phủ X trên khúc đê bao quanh sông Nhị Hà, nay gọi là sông Hồng. Khung cảnh được tái diễn một cách sinh động, không khí vô cùng khẩn trương gấp gáp với những câu vào thẳng bối cảnh truyện "Gần một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng... thuộc phủ..., xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất....". Từ đó mở khung cảnh thiên tai bão lũ đầy nguy cấp, còn dân làng thì đang khốn khổ dùng hết mọi sức lực để mong cứu cho được khúc đê sắp vỡ, mà trên lưng họ lúc bấy giờ là gánh nặng sinh mạng của hàng trăm, hàng ngàn con người. Tình thế ấy quả thực là ngàn cân treo sợi tóc, khiến lòng người hoang mang, sợ hãi và tuyệt vọng vô cùng với thế nước ngày một dâng cao chỉ trực sẽ nuốt trôi cả ngôi làng trước mắt. Những lời bình ngắn, những câu cảm thán đầy xót xa, ngao ngán của tác giả "Tình cảnh trông thật thảm hại" ; "Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê nay hỏng mất", lại càng làm nổi bật cái tình cảnh khốn khổ, bất lực, mỏi mệt và tuyệt vọng của dân làng, trước thiên tai dữ dội.
Việc vừa vào truyện đã nêu nổi bật lên cảnh hộ đê đầy thảm hại của người nông dân của Nguyễn Duy Tốn không chỉ có giá trị phản ánh sự dữ dội của thiên tai và nỗi vất vả, bất lực của người nông dân trước cảnh ngàn cân treo sợi tóc, mà nó còn đóng vai trò là bước bẹm là cái nền tương phản làm nổi bật lên sự tàn ác, vô nhân đạo, sự khốn nạn của tên quan phụ mẫu. Mang tiếng là quan phụ mẫu đến để trông nom, đốc thúc nhân dân bảo vệ đê điều, chăm lo cho cuộc sống của nhân dân sao cho xứng với hai chữ "phụ mẫu", thế nhưng thực tế rằng lại tận hưởng cuộc sống thư thái trên chính nỗi đau của nhân dân, "hộ đê" bằng cách đánh bài tổ tôm. Hình tượng nhân vật quan phụ mẫu đã được Phạm Duy Tốn khắc họa một cách rõ nét thông qua việc miêu tả cuộc sống phong phú, giàu sang khác hẳn với sự vật vã, tuyệt vọng và khốn khổ của dân làng X. Trong khi toàn thể dân làng "hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy ướt như chuột lột", thì trái lại tên quan phụ mẫu cho chúng ta hình ảnh, hắn đang ở trong một ngôi đình to lớn, ấm áp, mưa không tới mặt nắng không tới đầu, cách chỗ đê sắp vỡ chừng bốn năm trăm thước để đánh bài tổ tôm. Tư thế vô cùng nhàn hạ, thoải mái dường như trận mưa lớn, cùng những tiếng hò dô, bảo hộ đê của muôn nghìn người dân chẳng lọt vào tai hắn một đến một tiếng "tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên hầu quỳ dưới mà gãi", lại có cả tên lính lệ đứng bên liên tục phe phẩy quạt, tên trực điếu đóm cho, trông chẳng khác nào một tên vương giả đang nghỉ mát. Thêm nữa trong khi hàng trăm con người ướt như chuột lột lo đắp đê, chống lũ trong khốn khổ, có lẽ chẳng có thời gian mà cơm nước, nghỉ ngơi thì quan phụ mẫu lại sung sướng lắm nào cháo yến hấp đường phèn, rồi trầu vàng, cau đậu, rễ tía, ống thuốc bạc, đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm, ngoáy tai,... ôi chao cuộc sống làm gì có thể đủ đầy và vương giả hơn thế nữa. Thú thực được như thế, thì bao nhiêu mưa gió ngoài kia lại chỉ càng làm cho cái thú thưởng thức nó thêm phần tuyệt hảo, đúng với phong thái "hộ đê" của riêng quan phụ mẫu. Rồi cái cảnh lính lệ, người ở, các thầy đề, thầy thông nhì, thầy đội nhất, thầy chánh tổng sở tại,... người đi lại nhịp nhàng, cẩn thận, kẻ ngồi xếp bằng trật tự, ung dung, dáng vẻ tôn hiển, nghiêm túc cùng với quan phụ mẫu bệ vệ ngồi trên, thiết nghĩ ồ có lẽ các quan đang suy xét nghĩ kế hộ đê. Ôi, thế nhưng trò đời với cái thói ngược ngạo, đâu có cho ta được viễn cảnh thuận tình ấy, hóa ra các ngài cũng đang "hộ đê" đấy nhưng là hộ đê bằng những con bài tổ tôm, được nâng lên hạ xuống một cách thích chí, say mê, chứ các quan nào có biết gì đến nỗi khổ tâm của con dân ngoài kia đâu.
Sự nhẫn tâm, khốn nạn của tên quan phụ mẫu này nếu chỉ dựa vào cái cảnh hắn sống sung sướng thì có lẽ vẫn chưa đủ, mà thêm vào đó tác giả còn cho nhân vật này những lời thoại rất đắt bộc lộ một cách rõ nét bản chất lòng lang dạ sói của hắn. Khi có tên hầu vào báo "Bẩm dễ có khi đê vỡ", những tưởng quan sẽ giật mình sốt sắng, bỏ vội chiếu bài dở để đi hộ đê cho kịp, nhưng không, quan phụ mẫu ở đây không làm như vậy, ngài gắt "Mặc kệ". Than ôi, thật đúng cho cái tiêu đề sống chết mặc bay thật, những mưa to gió lớn, những tiếng khóc, tiếng kêu, người cuốc đất, người khiêng đá đắp đê, đấu lại nước lũ đang chực chờ nuốt chửng cả ngôi làng bé nhỏ cũng chẳng thể hồi hộp, gay cấn bằng những con bài đen, bài đỏ, những nước bài cao thấp phân tranh trên chiếu bạc của quan phụ mẫu. Ngài bận nghĩ cho ra một nước bài cao, đánh cho ra trận thông ù, để nhận muôn lời nịnh hót của chúng quan phía dưới, chứ can gì nỗi sống chết của nhân dân, can gì cảnh ruộng đồng, ngập lụt, trâu bò trôi sông đâu. Trong khi mọi người run sợ vì những tiếng kêu gào thảm thiết của người, chó, gà, lợn, trâu, bò ầm ĩ thì riêng quan vẫn cứ điềm nhiên một nỗi như không, đúng là phong thái của một vị quan phụ mẫu, giá như cái phong thái ấy nó phát huy trong lúc ngài chỉ huy nhân dân rào đắp con đê sắp vỡ thì nó lại phước phần quá.
Nếu như lúc đê sắp vỡ quan chỉ gắt mặc kệ, vì nghĩ còn lâu đê mới vỡ thì đến khi đê vỡ thật, thái độ của quan mới lại khiến người ta không khỏi căm tức "Đê vỡ rồi!... Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy". Quan có giận vì lo sợ đê vỡ hay hoảng hồn vì tình thế nguy cấp, vì tính mạng của nhân dân đâu, quan tức, quan gắt chỉ bởi cái tên nhà quê nhếch nhác chết tiệt kia dám vô phép vô tắc chạy xồng xộc vào nơi uy nghiêm, bề thế nơi mà quan đang bận đánh bài tổ tôm sung sướng mà thôi. Rồi thì bây giờ, đê vỡ hay không vỡ vốn dĩ quan chẳng thèm quan tâm, quan sướng phần quan, còn dân bay chết trôi, chết nổi, tan đàn xẻ nghé dường như chẳng liên quan gì đến việc quan vừa ù xong ván bài nữa. Đắc ý lắm, mà cũng độc ác, nhẫn tâm lắm!
Sống chết mặc bay là một truyện ngắn hiện đại đầu đầu mang những giá trị hiện thực sâu sắc, tố cáo, lên án chế độ phong kiến lạc hậu, cũ nát, cùng lũ quan trên độc ác, tàn nhẫn, giẫm đạp lên cái khốn cùng của nhân dân để ăn chơi xa xỉ, vui hưởng lạc thú. Đồng thời tác phẩm còn là tiếng lòng thương cảm, xót xa cho số phận người nông dân thấp cổ bé họng dưới chế độ cũ, cuộc sống khổ cực lầm than, thiên tai lũ lụt ập đến liên miên, kêu trời trời không thấu, kêu đất đất cũng chịu làm thinh, đắng cay muôn vàn không kể hết.
Trong đêm mưa gió tầm tã, nước sông dâng lên dữ tợn như cuốn trôi tất cả, những người nông dân vẫn phải dầm mưa, khẩn trương làm các công việc hộ đê. Họ dường như đã mệt, sức người chẳng thể địch lại sức trời, tình cảnh ngày càng trở nên nguy cấp. Vậy nhưng biết kêu ai, than ai? Bởi quan phụ mẫu ở cách đó chẳng bao xa, nhưng ngài còn đang dở cuộc vui, chơi nốt ván tổ tôm với các vị quan khác. Người đứng đầu ấy chẳng mảy may lo cho dân cho nước mà còn đang bận hưởng thụ những thú vui bài bạc, ăn uống xa hoa. Tác giả đã diễn tả sự đối lập ngày càng tăng lên làm nổi bật nỗi thống khổ của người nông dân: một bên là cảnh náo loạn, gấp gáp, khẩn trương còn ở trong đình làng là thú vui, thong dong, nhàn nhã. Và khi nỗi lo của người dân đã thành sự thật, đê vỡ, họ như tuyệt vọng kêu cứu thì quan vẫn mắng và dọa sẽ bỏ tù. Nhà tù là nơi để giam giữ những kẻ hại dân nhưng ở đây là là giam giữ những kẻ cắt ngang cuộc vui của quan. Những người dân vô tội còn biết bám víu, trông cậy vào đâu. Truyện đã phê phán hiện thực xã hội phong kiến thối nát, quan lại mải mê ăn chơi sa đọa và đẩy người nông dân vào tình cảnh khốn cùng, đau thương và mất mát. Qua đó, ta thêm xót thương và cảm thông với cuộc sống lầm than cơ cực của người nông dân.
Bước vào thế kỉ XX, văn học nói chung, truyện (truyện ngắn, truyện dài) Việt Nam nói riêng có nhiều đổi mới, mang tính hiện đại. Truyện ngắn hiện đại thiên về tính chất hư cấu, cốt truyện phức tạp hơn, khắc hoạ được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động nhằm phát hiện bản chất trong quan hệ nhân sinh, trong đời sống tâm hồn con người phong phú, tinh tế hơn truyện cổ tích, truyện ngắn, tiểu thuyết thời xưa. Một trong những tác phẩm mở đầu cho truyện ngắn hiện đại là truyện Sống chết mặc hay của Phạm Duy Tốn.
Phát biểu cảm nghĩ về truyện Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn
Tác phẩm kể chuyện một viên quan phủ đang làm nhiệm vụ cai quản, chỉ đạo nhân dân đắp đê chống bão lụt ở một vùng sông nước Bắc Bộ trong một đêm vào đầu thế kỉ XX. Câu chuyện có thể chia ba đoạn.
Đoạn một : từ “Gần một giờ đêm…” đến “… Khúc đê này hỏng mất” : nguy cơ đê vỡ và sự chống đỡ tuyệt vọng của người dân.
Đoạn hai : từ “Ấy, lũ con dân…” đến “… Điếu mày” : cảnh quan phủ và nha lại đánh tổ tôm trong khi “đi hộ đê”.
Đoạn ba : phần còn lại : cảnh đê vỡ, nhân dân lâm vào tình trạng thảm sầu.
Với tiêu đề Sống chết mặc bay, dường như tác giả Phạm Duy Tốn muốn tập trung phát hiện và nghiêm khắc phê phán thái độ vô trách nhiệm, bỏ mặc nhân dân trong tình cảnh khốn cùng của một viên quan phủ khi xuống địa phương chỉ đạo việc hộ đê. Đọc tác phẩm, chúng ta nhận rõ nhà văn đã xây dựng các chi tiết, tình huống tương phản, tăng cấp rất đặc sắc. Hai mặt tương phản đó là: trong khi nhân dân phải vật lộn căng thẳng, vất vả đến cực độ trước bão lụt thì viên quan phủ cùng nha lại, chánh tống – những kẻ chức sắc ở địa phương – say sưa cờ bạc, không mảy may nghĩ tới việc chỉ đạo dân “hộ đê”. Đúng là hai bức tranh đời tương phản, đối lập gay gắt, khiến người đọc phải suy ngẫm và xúc động…
Bức tranh thứ nhất, cảnh nhân dân chống bão lụt: về thời gian, đây là lúc “gần một giờ đêm” nghĩa là thời điểm khuya khoắt, mà khi bình thường, mọi người đang ngủ say. Xác định thời gian nửa đêm như thế, nhà văn muốn nói rằng : cuộc hộ đê của nhân dân nơi đây đã kéo dài suốt cả ngày đến tối, tới tận đêm khuya mà chưa được ngơi nghỉ. Nặng nề và căng thẳng biết bao ! Trong khi đó, mưa, gió mỗi lúc một mạnh. “Mưa tầm tã”, rồi lại “trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống”. Phối hợp với mưa, nước sông cũng mỗi lúc một dâng cao. “Nước sông Nhị Hà lên to quá” rồi lại “nước cứ cuồn cuộn bốc lên”. Giữa cảnh trời, nước dữ dằn, bạo liệt như thế, công cuộc hộ đê của nhân dân diễn ra thế nào ? Nhốn nháo, căng thẳng, vất vả, cơ cực, khốn khổ, hiểm nguy vô cùng ! “Hằng trăm nghìn con người … kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy… người nào người nấy lướt thướt như chuột lột… Trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hổi, tiếng người xao xác gọi nhau…”. Ngôn ngữ miêu tả rất tập trung. Những tính từ, động từ dồn dập, nối nhau : “tầm tã… tầm tã… cuồn cuộn, đội, vác, đắp, cừ,… bì bõm”, kết hợp một hình ảnh so sánh “người nào người nấy lướt thướt như chuột lột” khiến cho người đọc có cảm tưởng được trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy, và đang sống giữa một cuộc đắp đê chống bão lụt có thật. Cùng với những từ ngữ, câu văn tả thực, nhà văn điểm vào vài ba câu cảm thán “xem chừng núng thế lắm… không khéo thì vỡ mất… Tình cảnh trông thật là thảm … Than ôi ! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời. Lo thay ! Nguy thay !…”. Sự yếu kém của đê điều, sức lực của con người trước thiên tai mỗi lúc một thê thảm, rất đáng lo ngại, rất đáng xót thương ! Phạm Duy Tốn đã kết hợp ngòi bút tả thực với biểu cảm, trữ tình, dẫn người đọc vào trung tâm cuộc chống đê lay động lòng người, đánh thức những tình cảm đúng đắn trong chúng ta.
Bức tranh đời thứ hai, tương phản với cảnh nhân dân chống lụt cơ cực, vất vả là cảnh viên quan phủ cùng tay chân chơi bời, cờ bạc, hưởng thụ, để dân… Sống chết mặc bay. Ở bức tranh này, nhà văn cũng dùng ngòi bút tả thực, chân thực đến… lạnh lùng, về địa điểm, bọn quan lại ấy đang ngồi ở trong đình vững chãi, đê vỡ cũng không sao. Quang cảnh, không khí tĩnh mịch, trang nghiêm, mọi người nhàn nhã đánh tổ tôm. “Đèn thắp sáng trưng ; nha lộ, lính tráng kẻ hầu người hạ đi lại…”. Đặc biệt là hình ảnh viên quan phủ. Hắn “uy nghi, chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi…”. Bên cạnh, xung quanh hắn là bọn lính lệ chầu chực đợi sai khiến và những vật dụng quý giá, đắt tiền như bát yến hấp đường phèn, khay khảm, tráp đồi mồi đựng trầu vàng, cau đậu,… Lại thêm cả đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm bạc, ngoáy tai, ví thuốc,… Đúng là hình ảnh của một kẻ giàu sang, phú quý, mang danh đi chỉ dạo dân hộ đê mà như đi chơi, để khoe khoang của cải. Đúng là hắn đi… chơi ! Giữa lúc nhân dân đang trăm thảm, nghìn sầu thì tên quan cùng đồng bọn say sưa, đắm minh trên chiếu bạc. Ngồi xung quanh hắn, một lũ tay chân nín thin thít hầu hạ quan, tạo mọi điều kiện để quan được thắng bạc. Đến thời điểm ngoài kia đê sắp vỡ, sự gắng sức của dân lên đến đỉnh điểm, thì viên quan hồi hộp dđợi chờ ván bài ù to.
Ở phần cuối bức tranh, quan phủ ngồi đợi thắng bạc, tác giả sử dụng nghệ thuật miêu tả tăng cấp rất ấn tượng, rất hồi hộp. Hình ảnh đối lập vì thế càng gay gắt. Nghe ngoài xa vẳng vào tiếng kêu vang trời, có người khẽ nói : “Bẩm, đê có khi đê vỡ !”. Tên quan gắt : “Mặc kệ !”. Khi một người nhà quê hớt hải chạy vào báo tin “Bẩm quan lớn đê vỡ mất rồi” thì tên quan đỏ mặt tía tai quát mắng : “Đê vỡ rồi !… thời ông cách cổ chúng mày, bó tù chúng mày !”. Hắn đã quên hết nhiệm vụ giúp dân chống lụt, để chỉ đợi một quân bài. Sự đối lập giữa tình cảnh khốn khổ của dân chúng, nỗi âu lo của mọi người xung quanh và thái độ vô trách nhiệm của tên quan lên đến đỉnh điểm. Nhưng chưa dừng lại. Sự đối lập vẫn tiếp tục tăng cấp. Trong khi thầy đề “tay run cầm cập thò vào đĩa nọc…” (nghĩa là người nhân viên này cùng mọi người xung quanh rất lo sợ trước cảnh đê vỡ), thì tên quan sung sướng hả hê ngả ra những quân bài, ù một ván to. Không những thế, hắn còn vỗ tay xuống sập kêu to, miệng vừa cười vừa nói : “Ù ! Thông tôm, chi chi nảy !… Điếu, mày !”. Nghĩa là kẻ quan liêu, vô trách nhiệm ấy reo vui, sung sướng đến tột đỉnh được hướng thụ một món tiền lớn, giữa lúc nhân dân đau khổ cũng đến mức độ thẳm sâu, không thể đo được. Tình huống truyện diễn biến đến đây quả là căng thẳng, sự tương phản, đối lập quả là gay gắt, mâu thuẫn không thể dung hoà. Người đọc như bị cuốn vào câu chuyện và cũng cảm thấy căng thẳng, ngột ngạt, bức bối, tràn đầy nỗi tức giận, căm ghét tên quan vô trách nhiệm, tham tiền và tràn đầy tình cảm xót thương những người dân khốn khổ bị lãng quên, bị bỏ mặc… Giận và thương, hai cung bậc cảm xúc ấy dường như thấm đẫm trong từng từ ngữ, câu văn. Kết thúc truyện nhà văn viết : “Ấy, trong khi quan lớn ù ván to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết ; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết !”. Câu văn kéo dài, nhấn mạnh hai bức tranh đời tương phản, vừa kể chuyện vừa miêu tả, vừa biểu ý vừa biểu cảm. Nhịp câu biền ngẫu, đối xứng lâm li, hài hoà tiếng nấc nghẹn, căm phẫn với dòng nước mắt xót đau, thương cảm.
Bằng sự khéo léo trong việc vận dụng kết hợp hai phép tương phản và tăng cấp trong nghệ thuật, tác giả Sống chết mặc bay đã lên án gay gắt tên quan phủ “lòng lang dạ thú” trước sinh mạng của người dân và bày tỏ niềm cảm thương của mình trước cảnh “nghìn sầu muôn thảm” của nhân dân do thiên tai và cũng do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền đưa đến. Hai bức tranh đời tương phản, trái ngược ấy đậm đà chất hiện thực và thấm đẫm cảm hứng nhân đạo, nhân văn.
Bn tham khảo bài làm tại link này nè :
https://vndoc.com/viet-doan-van-khoang-8-cau-neu-suy-nghi-cua-em-ve-quan-phu-mau-trong-van-ban-song-chet-mac-bay/download
~ Hok tốt ~
Phạm Duy Tốn là cây bút viết truyện ngắn xuất sắc nhất của những năm đầu thế kỷ XX. Trong số những tác phẩm ông để lại, Sống chết mặc bay là truyện ngắn tiêu biểu hơn cả, tác phẩm thể hiện rõ tinh thần nhân đạo thông qua việc lên án thái độ vô trách nhiệm, vô nhân tính không màng đến sự sống chết đối với người nông của giai cấp quan lại trong xã hội cũ. Đọc tác phẩm, người đọc thấy bất bình và căm ghét vô cùng nhân vật tên quan phủ – bậc quan “phụ mẫu” của dân.
Tác phẩm lấy bối cảnh là mùa lũ về trên làng X. giữa đêm đen nông dân cực nhọc chống chọi với mưa lũ để cứu đê: “Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng X thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đê thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất”. Tính mạng “con dân” cả vùng đang bị đe dọa nghiêm trọng. “Kẻ thì thuổng, người thì cuốc, người đội đất, kẻ vác tre” “người nào người nấy lướt thướt như chuột lột”. Là quan huyện của dân, đáng ra, quan phải sát cánh bên dân cùng dân chống đỡ. Hay chí ít ra là phải họp bàn với các chức sắc để bàn cách đối phó. Nhưng không, khi tất cả dân đen đang hối hả lo cho khúc đê thì quan đang chễm chệ trong đình. “Cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trong mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng chẳng việc gì”, trong đình “đèn thắp sáng trưng”, “nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn rịp”. Giữa cảnh vui vẻ, hoan lạc ấy, quan huyện trở thành trung tâm với phong thái đường bệ, kẻ cả: quan phụ mẫu “uy nghi chễm chệ ngồi” “Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên cầm quạt lông chốc chốc sẽ phẩy. Tên đứng khoanh tay trực hầu điếu đóm. Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, tráp đồi mồi, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng và cơ man những vật dụng quý phái sang trọng khác”. Quan như không hề hay biết đến tình trạng thảm thương của dân chúng. Sự vô trách nhiệm ấy khiến ngườỉ đọc bất bình và không hiểu tại sao lại có kệ vô tình đến vậy. Là một người thường vô tâm với cảnh hgộ bi đát của dân chúng đã không đành, huống chi, đây lại là bậc quan dân!
Bản chất vô nhân đạo, lối sống “sống chết mặc bay” của tên quan huyện đã dần lộ rõ. Mưa gió và sinh mạng hàng ngàn con người không được quan chú ý bằng một trăm hai mươi lá bài đen đỏ. Không khí trong đình vẫn tĩnh mịch y trang, chỉ đôi khi nghe tiếng quan gọi “điếu mày”, tiếng “dạ”, tiếng “bốc”, “Bát sách! Ăn”, “Thất văn,., phỗng”… Thú vui bài bạc, ma lực đỏ đen đã làm bọn quan lại đánh mất lương tri, nhân tính. “Nước sông dầu nguy không bằng nước bài cao thấp”, hình ảnh so sánh thể hiện sự táng tận lương tâm của lũ vô lại. Cuối cùng, đê vỡ. Quan đỏ mặt tía tai “đê vỡ rồi thời ông cách cổ chúng mày”. Đoạn, lại bình thản quay mặt hỏi thầy đề: “Thầy bốc quân gì thế?”. Ván bài “ù to”. Quan sung sướng, cười hả hê, đắc chí và cũng chính lúc ấy “nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết”…
Đến đây, không còn là sự bất bình mà là nỗi căm ghét, oán hận đã trào dâng. Tên quan phụ mẫu quả là kẻ táng tận lương tâm, lòng lang dạ sói. Hắn dường như không còn chút tình người và tính người trong huyết quản.
Xây dựng hình ảnh nhân vật tên quan phụ mẫu, Phạm Duy Tốn muốn tố cáo lực lượng sai nha, chức sắc phong kiến với bản chất ích kỉ, tàn nhẫn đã không có chút trách nhiệm đối với cuộc sống của nhân dân. Bỏ nhân dân trong cảnh “sống chết mặc bay” điêu linh, khốn khổ. Chính điều đó đã làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo cho bông hoa đầu mùa của truyện ngắn hiện đại Việt Nam.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã xây dựng một tình huống độc đáo được đặt trong sự đối lập gay gắt. Một bên là tình cảnh vô cùng nguy khốn của dân chúng: "Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã . Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng X thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đê thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất". Tính mạng "con dân" cả vùng đang bị đe dọa nghiêm trọng. Quang cảnh hàng trăm ngàn con người đang ra sức chống chọi lại với cơn lũ thật khẩn trương, vất vả. "Kẻ thì thuổng, người thì cuốc, người đội đất, kẻ vác tre", "người nào người nấy lướt thướt như chuột lột". Một bên là cảnh quan huyện "kẻ cha mẹ của dân" có trách nhiệm đốc thúc dân chúng bảo vệ đê thì lại đang chễm chệ trong đình "cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trong mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng chẳng việc gì". Ngoài kia con dân đang chân lấm tay bùn, đem thân hèn yếu để chống chọi lại với sức nước thì trong đình "đèn thắp sáng trưng", "nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn rịp". Dường như ngoài kia và trong này là cả hai thế giới khác biệt hoàn toàn. Nếu ngoài kia là thảm cảnh thì trong này là thú vui. Ngoài kia gấp gáp khẩn trương, trong này thong dong nhàn nhã. Cái náo loạn đặt bên cạnh cái yên ả. Trái với "con dân" đang "trăm lo ngàn sợ", quan phụ mẫu "uy nghi chễm chện ngồi" như không hề hay biết đến tình trạng thảm thương của dân chúng. Dựng lên hai cảnh đối lập gay gắt đó, tác giả vạch trần thói vô trách nhiệm của bọn quan lại đương thời. Trong tình cảnh ấy, vô trách nhiệm chính là một tội ác.
Xem thêm tại: https://doctailieu.com/doan-van-cam-nhan-tinh-canh-nguoi-dan-trong-song-chet-mac-bay
Trong các văn bản mà tôi đã được học, văn bản gây nhiều ấn tượng với tôi nhất đó là "Sống chết mặc bay" do tác giả Phạm Duy Tốn sáng tác. Bằng sự khéo léo trong việc vận dụng kết hợp hai phép tương phản và tăng cấp trong nghệ thuật, "Sống chết mặc bay" đã lên án tên quan phủ "lòng lang dạ thú". Trong khi nhân dân thì thì đang vật lộn với mưa cố gắng giữ đê không bị vỡ thì hắn lại yên thân ở trong triều, lại còn chơi đánh bài tổ tôm một cách sung sướng. Cho đến khi đất nước lâm nguy thì đã muộn màng. Sau khi đọc xong văn bản này em tự nhủ rằng không nên quá chủ quan. Vì nếu như chúng ta quá chủ quan thì sẽ để lại những hậu quả khó lường giống như tên quan phủ ở trong bài.Đây là một văn bản hay và có ý nghĩa. Đừng chủ quan nhiều bạn nhé.
chúc p hk tốt
Trong các văn bản mà tôi đã được học, văn bản gây nhiều ấn tượng với tôi nhất đó là "Sống chết mặc bay" do tác giả Phạm Duy Tốn sáng tác. Bằng sự khéo léo trong việc vận dụng kết hợp hai phép tương phản và tăng cấp trong nghệ thuật, "Sống chết mặc bay" đã lên án tên quan phủ "lòng lang dạ thú". Trong khi nhân dân thì thì đang vật lộn với mưa cố gắng giữ đê không bị vỡ thì hắn lại yên thân ở trong triều, lại còn chơi đánh bài tổ tôm một cách sung sướng. Cho đến khi đất nước lâm nguy thì đã muộn màng. Sau khi đọc xong văn bản này em tự nhủ rằng không nên quá chủ quan. Vì nếu như chúng ta quá chủ quan thì sẽ để lại những hậu quả khó lường giống như tên quan phủ ở trong bài.Đây là một văn bản hay và có ý nghĩa. Đừng chủ quan nhiều bạn nhé.
Trong truyện Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn được in trên báo Nam Phong, số 18, năm 1918. Đến năm 1989, Nhà xuất bản khoa học xã hội tuyển chọn đưa vào tập Truyện ngắn Nam Phong. Tác phẩm được xem là "bông hoa đầu mùa" của truyện ngắn Việt Nam hiện đại bởi lẽ nó là một trong những truyện ngắn đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ, mặc dù cách diễn đạt vẫn còn lưu lại khá rõ dấu ấn của văn học trung đại (lối văn biền ngẫu).
Nội dung truyện kể về sự kiện vỡ đê, nhân vật chính của truyện là viên quan phủ. Cốt truyện gồm ba cảnh, diễn biến theo trình tự thời gian : Cảnh 1: Mưa to gió lớn, nước lũ dâng cao, đê sắp vỡ, dân chúng hối hả đắp đất giữu đê. Cảnh 2: Đám quan lại, nha lệ, lính tráng mải mê đánh tổ tôm trong đình. Cảnh 3: Vỡ đê. Tác giả đã vẽ nên bức tranh tương phản giữa sự ăn chơi hưởng lạc của nhứng kẻ cầm quyền với nối cơ cực, thê thảm của dân chúng. Thông qua đó lên án gay gắt giai cấp thống trị thối nát, bất tài và vô trách nhiệm trước tài sản, tính mạng của dân nghèo, đồng thời bày tỏ mối thương cảm sâu sắc của mình trước những nối đau thương,, hoạn nạn của đồng bào.
Mở đầu thiên truyện là tình thế vô cùng nguy hiểm của khúc đê sông Nhị. Thế đê được nhà văn tả bằng nhiều chi tiết cụ thể về thời gian, không gian: Gần một giờ đêm. Trời mữa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá ; khúc sông làng X thuộc Phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất.
Cảnh hàng trăm nghìn con người hốt hoảng, lo lắng, tất bật... tìm mọi cách để giữ cho con đê không bị vỡ trước sức tấn công khủng khiếp của nước lũ được tác giả miêu tả bằng ngòi bút hiện thực thấm đẫm cảm xúc xót thương:... kẻ thì thuỗng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bóm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột. Tình cảnh trông thê thảm.
Không khí căng thẳng, hãi hùng. Sự đối lập giữa sức người với sức nước đã lên tới điểm đỉnh : Tuy trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai ai cũng mệt lữ cả rồi. Ấy vậy mà trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống, dưới thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên. Than ôi ! Sức người khó lòng định nỗi với sức trời ! Thế đê không sao cự lại được với thế nước ! Lo thay ! Nguy thay ! Khúc đê này hỏng mất. Cảnh dân phu đang loay hoay, tuyệt vọng chống chọi với nước để cứu đê là để chuẩn bị cho sự xuất hiện của cảnh tượng hoàn toàn trái ngược diễn ra trong đình ấy, lũ con dân đang chân lầm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân hèn yếu mà đối với sức mưa to nước lớn, để bảo thủ lấy tính mạng gia tài, thế thôi nào quan cha mẹ ở đâu?
Thưa rằng : Đang ở trong đình kia, cách đó chừng bốn năm trăm trước. Đình ấy cũng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vưng chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì.
Ở cảnh hai này, tác giả kể chuyện viê quan phủ mải mê chơi tổ tôm với đám quan lại dưới quyền và được lũ sai nha, lính lệ hầu hạ, cung phụng đến nơi đến chốn, Giọng văn tường thuật khách quan cụ thể, chi tiết nhưng đằng sau nó chứa chất thái độ mĩa mai, châm biếm và phẩn uất.
Trước nguy cơ đê bị vỡ, bậc "phụ mẫu chi dân" cũng đích thân ra "chỉ đạo" việc hộ đê, nhưng trớ trêu thay, chỗ của ngài không phải là ở giữa đám dân đen đang vất vả, lấn láp, ra sức cứu đê mà lại ở trong đình với không khí, quang cảnh thật trang nghiêm, nhàn hạ; đèn thắp sáng trưng; nha lệ kính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Chân dung của quan lớn hiện lên thật cụ thể, sắc nét: Trên sập, mới kê ở gian giữa, có một người quan phụ mẫu, uy nghi chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sê phẩy... Đặc biệt là quanh quan có đủ thầy đề, thầy đội nhất, thầy thông nhì và chánh tổng cùng ngồi hầu bài. Quan nhàn hạ, ung dung, không mảy may quan tâm đến tình cảnh thảm thương của dân chúng đang diễn ra trên đê. Trong đình vẫn duy thì cái không khí uy nghiêm của chốn công đường, không hề có một chút liên hệ nào với cảnh hộ đê tất bật ngoài kia của dân phu. Dựng lên hai cảnh đối lập, tác giả có dụng ý tố cáo thái độ vô trách nhiệm, vô lương tâm, sống chết mặc bay của bọn quan lại phong kiến đương thời.
Trên cái nền là cảnh toan chống giặc nước, chân dung "quan phụ mẫu" hiện lên rõ ràng qua nhưng nét vẽ sinh động về hình dạng, cử chỉ, lời nói và diễn biến tâm lý nhân vật. Người đọc không thể tưởng tượng nổi là trong tình cảnh nước sôi lửa bỏng, tính mạng và của cải của hàng nghìn con người con người đang bị đe dọa từng giờ từng phút, vậy mà " quan phụ mẫu" vẫn điềm nhiên vui chơi, hưởng lạc. Xung quanh hắn bầy biện đủ thứ sang trọng, xa hoa: Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, để trong khay khảm, khói bay nghi ngút, tráp đồi mồi chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau đậu, rễ tia, hai bên nào ống bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuôi ngà, nào ống vôi chạm, ngoáy tai, vỉ thuốc, quản bút, tăm bông trông mà thích mắt.
Quả là hoàn toàn trái ngược với hình ảnh:... mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít... trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đàn sâu lũ kiến ở trên đê... Sự đối lập đó càng làm nổi bật tính cách ích kỉ, độc ác, vô nhân đạo của tên quan phủ và thmar cảnh của dân chúng ; đồng thời góp phần gia tăng ý nghĩa phê phán gay gắt của truyện.
Trong khi thảm họa vỡ đê khủng khiếp đang ập vào mắt dân chúng thì bọn nha lại tay chân vẫn cúc cung hầu hạ quan lớn đánh bạc. Tuy chỉ là một cuộc chơi, lại chơi khi làm nhiệm vụ đôn đốc dân phu hộ đê nhưng quan lớn vẫn giữ cái trật tự trên duois và không khí tôn nghiêm, nghi vệ như ở chốn công đường : Chung quanh sập, bắc bốn ghế mây, bắt đầu từ phía hữu quan thì có thầy đề, rồi lần lượt đến thầy đội nhất, thầy thông nhì, sau hết giáp phía tay tả ngài, thì đến chánh tổng sở tại cùng ngồi hầu bàn. Mặc cho dân tình nháo nhác, khổ sở, quan vẫn mải mê dồn hết tâm trí vào các quân bài tổ tôm. Cung cách ấy tố cáo bản chất xấu xa cùng thái độ vô trách nhiệm đến mức vô cùng nhân đạo của hắn.
Nếu ở trên mặt đê, khong khí sôi động, nhổn nháo, hối hả với công việc cứu đe thì trong đình không khí cũng rộn ràng với những lời lẽ xoay quanh ván bài đen đỏ : "Bát sách! Ăn"; "Thất văn... Phổng", lúc mau, lúc khoan, ung dung êm ái, kkhi cười, khi nói vui vẻ dịu dàng... Ngoài kia, đê vỡ mặc đê, nước sông dù nguy không bằng nước bài cao thấp.
Sự đam mê cờ bạc của tên quan phủ với đám nha lại duois quyền diễn ra ngay trên mặt đê, trong hoàn cảnh ngặt nghèo đã nói lên sự tàn ác, vô liêm sỉ của kẻ cầm quyền. Những lá bài tổ tôm có một ma lực lớn đến độ nào mà khiến cho tên quan phủ quên hết trách nhiệm của mình, quên cả mối hiểm nguy, chết chóc đang đe dọa sinh mạng, tài sản của bao người ? Phải ! Hắn ta đâu cần biết những điều đó vì quanh hắn lúc nào cũng có bọn tay sai mịnh nọt, hầu hạ, dạ vâng... Chúng thi nhau tỏ ra cho quan biết là: Mình vào được, nhưng không dám cố ăn kìm, rằng: Mình có đôi, mà không dám phỗng qua mặt. Thì ra chúng cố ý nhường cho quan thắng bài liên tiếp để lấy lòng quan lớn. Sau khi quan xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọc, bỗng nghe ngoài xa, tiếng kêu vang trời dậy đất. Mọi người đều giật nảy mình, duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ. Có người bẩm báo là có khi đê vỡ hắn trả lời thật phũ phàng : Mặc kệ! Sau đó lại tiếp tục đánh bài.
Thú cờ bạc và những đồng tiền vơ vét được từ ván bài đã làm cho hắn mất hết lương tri: Ngài mà còn dở ván bài, hoặc chưa hết hôih thì dẫu trời long đất lở, đê vỡ dân trôi, ngài cũng thấy kệ.
Tính cách của tên quan phủ được tác giả miêu tả khá tỉ mỉ qua các cử chỉ, lời nói thật tiêu biểu. Về cử chỉ : Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi. Ngài xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọc... Về lời nói: Tiếng thầy đề hỏi : Dạ bẩm bốc! Tiếng quan lớn truyền: Ừ, khi có người chạy vào báo tin đê vỡ, quan đồ đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng: Đê vỡ rồi! Đê vỡ rồi, thời ông cahcs cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à ? Khi chơi bài, quan lớn tỏ ra vô cùng thành thạo: Ù ! Thông tôm, chi chi nảy!... Điếu, mày!
Hàng loạt hình ảnh tương phản được tác giả sử dụng rất tài tình trong đoạn văn trên : Tiếng kêu vang trời dậy đất ngoài đê tương phản với thái độ điềm nhiên hưởng lạc của tên quan phủ. Lời nói khe khẽ sợ sệt của người hầu: Bẩm, có khi đê vỡ tương phản với lời gắt của quan cùng cái cau mặt : Mặc kệ! Hình ảnh người nhà quê, mình mẩy lấm láp, áo quần ướt đầm, tất tả chạy xông vào thở không ra lời báo tin đê vỡ tương phản với hình ảnh quan lớn đỏ mặt tía tai quay ra quát rằng : Đê vỡ rồi... thời ông cách cổ chúng mày.
Trong khi miêu tả và kể chuyện cảnh hộ đê, tác giả thể hiện nỗi xót thương và đồng cảm với nỗi khổ của dân chúng :
Than ôi ! Cứ như cái cách quan ngồi ung dung như vậy, mà hai bên tả hữu, nha lại nghiêm trang, lính hầu rầm rập, thì đó ai dám bảo rằng : gần đó có sự nguy hiểm to, sắp sinh ra một cảnh nghìn sầu muôn thẳm, trừ những kẻ lòng lang dạ thú, còn ai nghĩ đến, mà chẳng động tâm, thương xót đồng bào huyết mạch !...
Thiên truyện khép lại bằng cảnh vỡ đê : Ấy, trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp mọi noi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết ; kẻ sống không có chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao siết !
Ở đoạn cuối truyện, tác giả vừa dùng ngôn ngữ miêu tả, vừa dùng ngôn ngữ biểu cảm đề tài cảnh tượng vỡ đê và tỏ lòng ai oán cảm thương của mình đối với những người nông dân khốn cùng. Nhà văn muốn nhấn mạnh rằng : Cuộc sống lầm than đói khổ của nhân dân không phải chỉ do thiên tai gây nên mà trước hết và trực tiếp hơn cả là do thái độ thờ ơ vô trách nhiệm, vô nhân đạo của những kẻ cầm quyền đương thời.
Về nghệ thuật, trong toàn bộ tác phẩm, bên cạnh phép tương phản thì phép tăng cấp đã được nhà văn sử dụng một cách có chủ ý nhằm nêu bật ý nghĩa của tác phẩm và khắc họa rõ nét tính cách nhân vật chính là tên "quan phụ mẫu".
Phép tăng cấp thể hiện rõ trong việc miêu tae cảnh hộ đê dưới trời mưa mỗi lúc một dồn dập : Nước sông Nhị lên to quá... Aay vậy mà trên trời thời vẫn mưa tầm tả trút xuống, dưới sông thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên giữa tiếng trống, tiếng tù và tiếng người gọi nhau sang hộ đê mỗi lúc một ầm ĩ, náo động.
Phép tăng cấp còn được vận dụng vào việc miêu tả cảnh tên quan phủ cùng đám nha lại đánh bài tổ tôm trong đình. Thái độ vô trách nhiệm, vô lương tâm của tên quan phủ mỗi lúc một tăng. Mê bài bạc bỏ nhiệm vụ đôn đốc hộ đê đã đành, đến khi có người phu vào báo tin đê vỡ mà vẫn thờ ơ, lại lên giọng quát nạt bọn tay sai rồi quay lại tiếp tục đánh bài và vui sướng reo to : Ù! Thông tôm, chi chi nảy! thì độ say mê cờ bạc quả là làm cho quan lớn mất hết tính người.Nói theo lời bình của nhà văn thì hắn là loại lòng lang dạ thú.
Nhờ khéo léo két hợp thủ pháp nghệ thuật tương phản và tăng cấp trong miêu tả, kể chuyện nên tác giả truyện ngắn Sống chết mặc bay đã đạt được mục đích lên án gay gắt tên quan phủ tàn ác và bày tỉ niềm thương cảm sâu sắc trước cảnh nghìn sâu muôn thảm của nhân dân do thiên tai và do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên.
Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn là một tác phẩm xuất sắc, được xem là “bông hoa đầu mùa” của truyện ngắn Việt Nam hiện đại bởi đó là một trong những truyện ngắn đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ.
Nội dung câu chuyện kể về sự kiện vỡ đê, nhân vật chính đó là viên quan phủ. Cốt truyện diễn biến theo trình tự thời gian. Tác giả đã vẽ nên bức tranh tương phải giữa việc ăn chơi hưởng lạc của những kẻ cầm quyền với nỗi cơ cực, thê thảm của dân chúng. Thông qua đó còn lên án gay gắt giữa giai cấp thống trị thối nát, bất tài và vô trách nheiejm trước tính mạng của người dân nghèo, đồng thời còn bày tỏ mối cảm thương thực sự sâu sắc của mình trước những đau thương và hoạn nạn của đồng bào.
Mở đầu cho câu truyện được tả với nhiều chi tiết cụ thể về thời gian không gian : “Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá. Khúc sông làng X, thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất”.
Cảnh hằng trăm nghìn con người hốt hoảng chạy ngược xuôi lo vỡ đê, tìm mọi cách để giữ cho đê không bị vỡ trước sức tấn công khủng khiếp của dòng lũ đã được tác giả miêu tả bằng ngòi bút hiện thực thấm đẫm cảm xúc xót thương… “kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột”.
Không khí đã diễn tới đỉnh điểm “ Tuy trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai cù củng mệt lử cả rồi. Ấy vậy mà trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống, dưới sông thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên. Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước ! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất. Cảnh những người dân loay hoay , tuyệt vọng chống chọi với nước lại hoàn toàn trái ngược với những gì diễn ra ở trong đình : “Ấy, lũ con dân đang chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân hèn yếu mà đối với sức mưa to nước lớn, để bảo thủ lấy tính mạng gia tài, thế thời nào quan cha mẹ ở đâu ?”
Thưa rằng: Đang ở trong đình kia, cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy củng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì.
Ở trong hai cảnh này tác giả đã kể chuyện về viên quan phủ đang chơi tổ tôm với đám quan lại và được lũ sai nha , lính hầu hạ, cung phụng tới nơi tới chốn. giọng văn lúc này tường thuật một cách khách quan, chi tiết , cụ thể nhưng mà đằng sau nó lại chứa chất về thái độ mỉa mai, châm biếm có phần phẫn uất.
Đáng ra trước tình thế đo, người phụ mẫu của dân phải ra chỉ đạo hộ dân nhưng trớ trêu thay lại ở trong đình với không khí nhàn hạ , chiễm chệ : “ đèn thắp sáng trưng; nha lệ, lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Chân dung của quan lớn được hiện lên thật cụ thể, sắc nét: Trên sập; mới kê ở gian giữa, có một người quan phụ mẫu, uy nghi chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sẽ phẩy…”
Qua đây cho thấy quan nhàn hạ, ung dung và không hề quan tâm tới tình cảnh thảm thương của dân chúng ở phía bên ngoài. Với việc dựng lên hai cảnh tượng đối lập như vậy, tác giả có dụng ý nói lên nỗi thống khổ của dân đen phải trải qua và qua đó còn tố cáo thái độ vô trách nhiệm, vô lương tâm của tên quan vô lại .
Lúc này người độc không thể tưởng tượng nổi là trong tình cảnh nước sôi lửa bỏn như thế , tính mạng của cải của hàng nghìn người dân đáng thương đang bị đe dọa từng giây từng phút thế mà tên quan vô lại kia lại ngồi điềm nhiên vui chơi hưởng thú vui.
“ Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn để trong khay khảm, khói bay nghi ngút, tráp đồi mồi chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau đậu, rễ tía, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuôi ngà, nào ống vôi chạm, ngoáy tai, ví thuốc, quản bút, tăm bông trông mà thích mắt.
Từng chi tiết như khắc ghi tâm cốt của người độc, nó lại hoàn toàn trái ngược với hình ảnh của người dân, làm cho người đọc tê tái cả cõi lòng, có phần uất hận, căm phẫn thay cho dân đen : … mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít… trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đàn sâu lũ kiến ở trên đê…
Sự đối lập này nhằm phê phán sự tàn bạo, độc ác và vô nhân đạo của tên quan phủ và những gì mà dân chúng phải hứng chịu.
Có người bẩm báo là có khi đê vỡ, hắn trả lời thật phũ phàng: Mặc kệ! Sau đó lại tiếp tục đánh bài. Thú vui cờ bạc và những đồng tiền vơ vét được từ ván bài đã làm cho hắn mất hết lương tri, nhân tính.
Tính cách của tên quan phủ còn được miêu tả khá là tỉ mỉ từ cử chỉ, lời nói tiêu biểu. “ Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi. Ngài xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọc…” Khi có người chạy vào báo tin đê vỡ, quan đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng: “Đê vỡ rồi ! Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy ? Không còn phép tắc gì nữa à ? Khi chơi bài, quan lớn tỏ ra vô cùng thành thạo: ù Ị Thông tôm, chi chi nảy!… Điếu, mày !”
Trong khi miêu tả và kể chuyện cảnh hộ để tác giả thực sự thấy thương xót đồng cảm cho dân chúng : “Than ôi ! Cứ như cái cách quan ngồi ung dung như vậy, mà hai bên tả hữu, nha lại nghiêm trang, lính hầu rầm rập, thì đố ai dám bảo rằng: gần đó có sự nguy hiểm to, sắp sinh ra một cảnh nghìn sầu muôn thảm, trừ những kẻ lòng lang dạ thú, còn ai nghĩ đến, mà chẳng động tâm, thương xót đồng bào huyết mạch!…”
Ở trong đoạn cuối tác giả vừa dùng ngôn ngữ miêu tả lại vừa dùng biểu cảm để miêu tả về cảnh tượng vỡ đê và tỏ lòng ai oán cảm thương của mình đối với những người nông dân khốn cùng. Nhà văn muốn nhấn mạnh rằng cuộc sống lầm than đói khỏ của nhân dân không phải là do thiên tai gây nên mà trước tiên là do thái độ vô trách nhiệm, vô nhân đạo của kẻ cầm quyền đương thời.
Nghệ thuật tăng cấp được được nhà văn sử dụng tài tình xuyên suốt có tác dụng nhấn mạnh về ý nghĩa của tác phẩm, làm khắc họa rõ rệt về nét tính cách của nhân vật chính đó là tên quan phụ mẫu.
Nhờ sự khéo léo giữa việc kết hợp thủ pháp nghệ thuật tương phản và tăng cấp trong việc miêu tả, kể chuyện cho nên tác giả truyện sống chết mặc bay đã đạt được mục đích lên án gay gắt tên quan phủ độc ác và qua đó bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc đối với người dân.