Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Một buổi trưa thật đẹp trời em đnag mơ man ngủ thì trong giấc mơ em đã được gặp vua Lý Công Uẩn em và ông ấy đã trò chuyện với nhau rất lâu em đã giớ thiệu cho ông ấy biết Thủ đo Hà Nội của nước Việt Nam ta niềm kiêu hãnh của dân tộc
Thủ đô Hà Nội là thủ đô ngàn năm tuổi, kể từ năm 1010 khi vị vua triều lí là Lí Công Uẩn đã quyết định rời đô từ kinh đô Hoa Lư về thành Thăng Long đến nay, thì thủ đô Hà Nội cũng vừa tròn một ngàn năm tuổi. Để kỉ niệm ngàn năm văn hiến của mình thì vào năm 2010 Việt Nam đã long trọng tổ chức lễ đón “Một ngàn năm Thăng Long Hà Nội” để cùng với quốc dân đồng bào cùng chia sẻ niềm tự hào của dân tộc ngàn năm tuổi, đồng thời cũng là lời tuyên bố trong tự hào với các quốc gia trên thế giới, rằng Việt nam là đất nước có truyền thống văn hóa, lâu đời.
Không phải là ngẫu nhiên mà khi xưa Lí Thái Tổ lựa chọn thành Thăng Long chính là kinh đô mới của Việt Nam. Thành Thăng Long hội tụ đầy đủ các yếu tố cả về địa lí , cả về yếu tố trọng yếu về chính trị để trở thành nơi quan trọng nhất của đất nước. Theo lập luận của Lí Thái Tổ, thành Thăng Long được thế “rồng cuộn hổ ngồi”. lại đúng ngôi nam bắc đông tây, tiện hướng nhìn sông, dựa núi. Địa hình thì rộng mà bằng, đất đai cao mà phẳng. Nếu sinh sống nơi đây người dân sẽ không phải đương đầu với nạn lụt lội, vạn vật cũng phong phú tốt tươi. Và khắp đất Việt thì thành Thăng Long chính là nơi trọng yếu hội tụ của đất nước.
Và lịch sử đã chứng minh sự lựa chọn của vua Lí Thái Tổ là hoàn toàn đúng đắn, vì ngày nay, trải qua hàng ngàn năm thì thành Thăng Long xưa và Hà Nội ngày nay vẫn là lựa chọn hàng đầu làm thủ đô,là nơi trung tâm của đất nước. Tên gọi Hà Nội có cách đây vào khoảng cuối thế kỉ mười tám, đầu thế kỉ mười chín. Về ý nghĩa của tên gọi này có thể lí giải như sau, Hà Nội tức là thành phố nằm trong sông, cách lí giải này phù hợp với vị trí địa lí của thủ đô Hà Nội, bởi đây chính là thành phố được bồi tụ, bao bọc bởi con sông Hồng rộng lớn. Khi xưa, Hà Nội còn có tên gọi khác là sông Nhị Hà.
Trong giấc mơ buổi trưa hè hôm nay, em đã may mắn được gặp vua Lý Công Uẩn – người là tác giả của tác phẩm “Chiếu dời đô” em mới được học trên lớp. Được biết, vua Lý Công Uẩn, tức Lý Thái Tổ chính là người dời đô từ Hoa Lư về thành Thăng Long năm 1010, đặt nền móng cho sự phát triển của đất nước đến ngày nay. Chính vì thế, khi gặp được ông, em đã hỏi thăm sức khỏe của ông và hao hức kể cho ông nghe về thủ đô Hà Nội ngày nay.
Trải qua hơn một ngàn năm tuổi, ngày nay, thủ đô Hà Nội được coi là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục của cả nước, là biểu tượng của mảnh đất hình chữ S thân yêu ngàn năm văn hiến.
Em đã kể với vua Lý Công Uẩn về những danh lam thắng cảnh nổi tiếng của thủ đô, những nơi người ta sẽ nhắc tới đầu tiên khi nói về Hà Nội ngày nay. Đầu tiêu phải kể đến khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám với 82 tấm bia lưu danh các vị dỗ Tiến sĩ từ khoa thi năm 1442 đến năm 1779 tại Văn Miếu. Quốc Tử giám là trường đại học đầu tiên của nước ta, là nơi dạy dỗ các hoàng tử, những người tài giỏi.
Tiếp đến là khu Hoàng Thành Thăng Long được xây dựng từ thành Đại La cũ, ngày nay đã được khai quật và bảo tồn, trờ thành địa điểm tham quan cho du khách trong và ngoài nước.
Một địa danh vô cùng nổi tiếng mà em cũng đã giới thiệu với vua Lý Công Uẩn đó là hồ Gươm (hồ Hoàn Kiếm). Đây là công trình với quần thể kiến trúc bao gồm: đài Nghiên, tháp Bút, cầu Thê Húc, đền Ngọc Sơn và Tháp Rùa. Hồ Gươm gắn liền với truyền thuyết Lê Lợi trả gươm cho Long Quân thế kỉ XV. Nhờ có thanh gươm thần mà Lê Lợi đã dẹp tan quân Minh xâm lược.
Lăng Bác là một địa điểm nổi tiếng. Đây là nơi yên nghỉ của chủ tịch Hồ Chí Minh, người là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Trong khuôn viên lăng Bác có bảo tang Hồ Chí Minh và chùa Một Cột luôn được bảo vệ nghiêm ngặt.
Sau đó, em có kể cho vua nghe về tình hình kinh tế hiện nay của thủ đô với nên kinh tế tăng trưởng nhanh chóng, các khu đô thị phát triển vượt bậc so với trước đây. Thủ đô Hà Nội luôn vươn lên phát triển về mọi mặt. Qua đó, em cũng đã gửi lời cám ơn tới vua Lý Công Uẩn đã là người có tầm nhìn chiến lược, sự lựa chọn Thăng Long là thủ đô Hà Nội ngày nay vô cùng đúng đắn.
Cuối cuộc trò chuyện, vua Lý bày tỏ sự vui mừng về sự phát triển của thủ đô ngày nay. Ông không quên dặn dò em – đại diện cho thế hệ tương lai của đất nước hãy cố gắng chăm chỉ học tập và rèn luyện để chung tay xây dựng thủ đô Hà Nội và đóng góp cho đất nước.
Hà Nội nằm ở Trung tâm vùng đồng bằng sông Hồng. Đây là một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị lớn của Việt Nam. Khi đặt chân đến đây, bạn sẽ bị bất ngờ bởi nhịp sống trẻ trung, năng động. Cơ sở hạ tầng ở đây rất điện đại và tráng lệ. Dọc theo đại lộ mọc lên biết bao nhiêu những tòa cao ốc, những khu trung tâm thương mại, những cơ quan hành chính. Đây cũng là nơi tập trung nhiều trường đại học uy tín và nổi tiếng trong nước như Ngoại thương, Bách khoa, Kinh tế quốc dân,... Ban ngày, các con đường không ngớt xe đi lại, hay bị tắc nghẽn giao thông, đặc biệt là vào những giờ cao điểm, khi các em học sinh đến trường và người lớn đi làm. Tuy nhiên, về đêm, Hà Nội nhộn nhịp hơn bao giờ hết. Tất cả các con đường, mái nhà chìm ngập trong ánh sáng rực rỡ sắc màu, những quán ăn dọn hàng. Lúc này, hầu như mọi người đã trở về nhà từ cơ quan, quây quần bên mâm cơm gia đình. Sau đó, họ dẫn nhau đi đến những khu vui chơi giải trí, công viên để thư giãn sau một ngày làm việc căng thẳng. Với mình, Hà Nội là một một nơi tuyệt vời để sống và làm việc. Về đêm đi lang thang giữa lòng đường Hà Nội, mùi hoa sữa tràn ngập dọc con đường khiến tâm hồn trở nên bình yên đến lạ kì. Trong tương lai sắp tới, mình sẽ xây một căn nhà xinh đẹp cho riêng mình ở đây.
Bạn tham khảo :
Đối với một quốc gia, nhắc đến những nhà lãnh đạo đất nước là nhắc đến những người đứng đầu bộ máy hành chính nhà nước hay tổ chức quân sự, văn hoá...
Đứng trên cương vị một nhà lãnh đạo, trước hết họ phải là những người có tầm nhìn xa trông rộng, nhận định đúng tình hình đất nước, từ đó xác định đúng nhiệm vụ của cả dân tộc.
Lí Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn đều là những nhà lãnh đạo tài ba, uyên bác thông hiểu kim cổ đông tây. Vị vua đầu tiên của triều Lý đã nhắc đến gương chuyển đô của vua Bàn Canh nhà Thương, nhà Chu. Trần Quốc Tuấn lại nêu gương những anh hùng hào kiệt, biết xả thân vì chủ tướng vì đất nước: Do Vu, Dự Nhượng, Kỉ Tín,... Có thể nói, biết "ôn cố” để "tri tân" là một trong những tố chất không thể thiếu của một nhà lãnh đạo. Và từ việc "nhớ chuyện cũ", các nhà lãnh đạo tài ba đã thể hiện thiên năng "biết chuyện mới, chuyện đời nay” rất tài tình.
Nhà Đinh, Lê "không noi theo dấu cũ Thương Chu" giữ nguyên vị trí kinh đô tại Hoa Lư mà đất Hoa Lư chỉ là chốn núi rừng hiểm trở, khắc nghiệt. Điều đó khiến thời vận đất nước gặp nhiều trắc trở. Lịch sử cũng đã chứng minh điều đó, hai nhà Đinh Lê triều vận ngắn ngủi, nhân dân gặp nhiều khó khăn. Có thể nói, việc phê phán hai triều Đinh, Lê một phần lớn đã thể hiện tầm nhìn lãnh đạo của Lí Công Uẩn. Ông đã nhìn rõ một thực tế quan trọng: đất nước đang bước vào thời bình, Hoa Lư không còn phù hợp với vị thế kinh đô nữa!
Trần Quốc Tuấn cũng vậy. Từ thực tế của việc giặc Nguyên Mông xâm lược nước ta lần một và thái độ của chúng hiện nay, ông đã thấu rõ nguy cơ của một cuộc chiến chống xâm lược. Sang nước ta, quân Nguyên Mông “uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt Tể phụ”, “đi lại nghênh ngang”, bắt dân ta cống nạp khoáng sản, vàng bạc.. Vậy rõ ràng, chúng chưa hề thấm thía bài học từ thất bại của cuộc xâm lược lần một và đang mưu mô cuộc chiến tranh ăn cướp lần hai.Giặc như vậy còn lực lượng quân sĩ ta thì sao? Vị nguyên soái lỗi lạc thêm một lần đau xót khi chứng kiến thực cảnh binh sĩ dưới quyền lơ là mất cảnh giác trước nguy cơ mất nước. Họ “hoặc thích chọi gà, hoặc mê tiếng hát”, chơi cờ... Ông cay đắng chỉ ra một điều tất yếu là khi giặc đến những thú vui ấy chỉ trở thành tai họa “cựa gà trống không đâm thủng áo giáp của giặc”, “tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai", “mẹo đánh cờ không thể dùng làm mưu lược nhà binh”…
Từ việc nhìn nhận thấu suốt tình hình đất nước, các nhà lãnh đạo anh minh đều xác định rõ nhiệm vụ của quân và dân. Điều quan trọng là họ có những quyết định đúng đắn, những hành động táo bạo để đưa đất nước đển được bến bờ của sự bình yên và phát triển.
Lí Thái Tổ xác định nhiệm vụ hiện tại là cần dời đô khỏi Hoa Lư. Nhưng dời đô đến đâu? "Thành Đại La.. là nơi trung tâm trời đất,có thế rồng cuộn hổ ngồi lại tiện hướng nhìn sông dựa núi, dân cư không khổ vì ngập lụt, muôn vật phong phú tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta chỉ có nơi đây là thánh địa”. Từ việc có ý thức sâu sắc ưu thế của thành Đại La đối với việc phát triển đất nước, Lí Thái Tổ đã có quyết định đúng đắn là thiên đô về mảnh đất văn hiến này.Trần Quốc Tuấn trên cương vị Tổng chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông đã khẳng định ý chí đánh giặc của toàn dân tộc đồng thời khuyên khích, động viên tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Ông khuyên quân sĩ phải biết “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội”, phải biết ra sức tập luyện để sẵn sàng chiến đấu. Không chỉ vậy, ông còn soạn thảo “Binh thư yếu lược” làm sách lược cho binh sĩ tập luyện, rèn quân.
Cảm hứng chủ đạo của văn học thế kỷ X đến thế kỉ XV là yêu nước với những thể loại đặc trưng. Chiếu, biểu, hịch, cáo là những văn bản do vua, chúa hoặc những vị tướng đứng đứng đầu viết để ban bố mệnh lệnh hay cổ vũ, kêu gọi, khích lệ tình cảm...Dù được viết ở thể loại nào thì lời lẽ hùng hồn và thuyết phục của các văn bản này luôn thể hiện được phẩm chất cùng tầm nhìn xa trông rộng của người chỉ huy. Từ khi hình thái nhà nước xuất hiện, cuộc sống của con người có nền nếp, quy củ thì đó cũng là lúc người lãnh đạo ra đời. Nước Việt ta tồn tại qua hàng nghìn năm Bắc thuộc cùng bao nhiêu năm giặc ngoại xâm gây hấn âu cũng là nhờ vai trò to lớn của người đứng đầu chỉ huy. Một trong số những người chỉ huy tài tình đó là Lý Công Uẩn với “Chiếu dời đô” danh bất hư truyền.
Nhà vua Lý Công Uẩn - người đầu tiên lập nên triều đại nhà Lí ở nước ta. Ông là người thông minh, nhân ái, yêu nước thương dân, có chí lớn, luôn mong muốn đất nước được thịnh trị, nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Cũng chính bởi thế mà chỉ ít lâu sau khi khai sinh nhà Lý, ông đã đưa ra một quyết định táo bạo: ban "Chiếu dời đô”, dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về thành Đại La, sau đối tên là Thăng Long. “Chiếu dời đô” có một ý nghĩa đặc biệt, không chỉ bởi “nghĩa sâu, ý xa, lý rành, khí mạnh, lời giàu, văn hay” mà còn vì bản chiếu thư này đã tạo được một bước ngoặc không nhỏ đối với vận mệnh đất nước lúc bấy giờ, đồng thời còn thể hiện tầm nhìn sâu rộng , ý chí giữ vững nền độc lập cùng tấm lòng với nước non của vị vua mới. Dời đô ra Thăng Long là một bước ngoặt rất lớn. Nó đánh dấu sự trưởng thành của dân tộc đại Việt. Cũng là khởi đầu sự nghiệp lẫy lừng của nhà Lí - triều đại có ý nghĩa hết sức quan trọng đưa văn hiến của nước nhà đến đỉnh cao.
Bằng sự thông minh và tầm nhìn sáng suốt của mình Lí Công Uẩn đã nhận thấy đất Hoa Lư trong mấy mươi năm, với địa thế núi non hiểm trở, đã hoàn thành sứ mệnh giúp hai nhà Đinh, Tiền lê củng cố chính quyền, chống Tống xâm lược .Nhưng nay đất nước đã thái bình vùng đất này không còn phù hợp để phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước nữa. Trước yêu cầu của thời kỳ mới, một nhà lãnh đạo tài ba cần có những quyết sách lớn và quyết sách của Lý Công Uẩn chính là dời đô về Đại La. Một nơi mà vị trí “ở vào nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi”, là phương hướng “đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây”, là địa thế “rộng mà bàng, đất đai cao mà thoáng", là điều kiện phát triển kinh tế “dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng được phong phú tốt tươi".Có thể nói, với trí tuệ anh minh, với lòng nhân hậu tuyệt vời, nhà vua Lí Công Uẩn đã bày tỏ ý định với các quan trong triều ý định dời đô giàu sức thuyết phục. “Chiếu dời đô” là áng văn xuôi cổ độc đáo, đặc sắc, đúng là khẩu khí của bậc đế vương. Đó là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ Việt Nam. Nó khơi dậy trong lòng nhân dân ta lòng tự hào và ý chí tự cường mạnh mẽ. Triều đại nhà Lí rất vẻ vang với sự khởi thuỷ là vị vua anh minh Lí Thái Tổ, nước Đại Việt viết tiếp những trang sử vàng chói lọi của mình. Vai trò và công lao của Lý Công Uẩn đã được thực tế lịch sử chứng minh: cùng với kinh đô Thăng Long, quốc gia Đại Việt bước vào một giai đoạn phát triển mới, vững vàng về kinh tế, ổn định về chính trị, đặc sắc về văn hóa, mở ra thời kỳ hưng vượng nhất của lịch sử phong kiến Việt Nam. Nếu Lý Công Uẩn vần theo lệ nhà Đinh - Lê, giữ nguyên kinh kì ở đất Hoa Lư hiểm trở, chắc hẳn nhà nước Đại Việt đã không có những bước tiến to lớn ấy.
Hơn một ngàn năm qua, lịch sử nước Việt đã trải qua bao sóng gió thăng trầm, nhưng công lao của Lý Thái Tổ mãi mãi là những vết son không phai trong văn học và lịch sử việt Nam. Qua áng văn “Chiếu dời đô”, chúng ta càng hiểu rõ hơn vai trò của người lãnh đạo anh minh có ý nghĩa vô cùng to lớn trong trường kì phát triển của dân tộc và thời nào cũng vậy dân tộc Việt Nam. Người là tấm gương sáng ngời để đời sau soi vào đó mà học tập. Chúng ta phải tiếp nối hào khí ngút trời của cha ông ta cùng xây dựng lên một Việt Nam giàu mạnh phồn thịnh, hòa nhập vào sự phát triển của thế giới.
TK
1
Chợ nổi Cà Mau chính là sự giao hoà của con người và thiên nhiên ở miền sông nước hữu tình.Là một vùng đất trẻ, Cà Mau quê em mới chỉ được khai phá từ những thập niên cuối thế kỷ XVIII. Miền đất này được thiên nhiên ưu đãi, ban tặng cho những điều kiện mà nhiều nơi khác không có được: ba mặt tiếp giáp biển (tổng cộng là 250km) và một hệ thống sông rạch chằng chịt (chiều dài tổng cộng hơn 7000km). Chợ nổi Cà Mau chính là sự giao hoà của con người và thiên nhiên ở miền sông nước hữu tình này.Chợ nổi nằm trên sông Gành Hào (thuộc trung tâm thành phố Cà Mau), cách cầu Gành Hào khoảng hơn 200km, thuộc địa bàn phường 8. Ngày trước, chợ ở giữa ngã ba Chùa Bà, cách đó khoảng hơn chục cây số. Xưa kia, đây là nơi tụ tập kiếm sống của người tứ xứ và bán nhiều loại hàng hoá khác nhau. Bây giờ, chợ chỉ còn bán các sản vật của miệt vườn.
Ngay mờ sáng, từ hàng trăm ngàn con sông rạch khác, các ghe xuồng từ các vùng quê của các huyện Ngọc Hiển, Đầm Dơi, Cái Nước, Năm Căn... đem hàng về chợ nổi trên sông Gành Hào này. Trong làn sương mù lãng đãng trên sông nước, những chiếc ghe to, ghe nhỏ chở nặng hàng đậu sát vào nhau trên mặt nước dập dềnh, chuẩn bị cho một ngày mới.
Chợ nổi Cà Mau hội tụ rất nhiều loại trái cây và sản vật miệt vườn như: đu đủ, xoài, ổi, chôm chôm, khóm thơm (dứa), dừa nước, dưa gang, khế, bí bầu, cà chua, khoai tây... Trong nắng gió phương Nam, chợ bừng lên hương sắc của những miệt vườn ở đâu đó bên sông Tiền, sông Hậu, sông Trẹm,... Đôi khi còn có những ghe bán chiếu rong - những ghe chiếu đã trở thành cảm hứng để soạn giả Viễn Châu thuở nào viết nên bài ca vọng cổ "Tình anh bán chiếu" nổi tiếng đến hôm nay.
Chợ trên sông nên khách mua hàng cũng phải đi xuồng hoặc đò. Khách đi chợ chỉ cần ngồi trên con đò lướt nhẹ qua những ghe hàng, nhìn những thứ được treo lúc lắc trên các nhánh cây dựng trên ghe (gọi là cây "bẹo") là sẽ biết ghe đó bán hàng gì. Đó là những lời chào mời lặng lẽ nhưng thật hấp dẫn. Nếu bạn ghé vào, sẽ được người bán hàng hiếu khách mời nếm thử một thứ trái cây với phong cách bình dị, chân thành và phóng khoáng thật dễ thương của con người đất Mũi.
2Văn Miếu Quốc Tử Giám là một trong những di tích tiêu biểu, ghi nhận những thành tựu văn hoá của Đại Việt đã nghìn năm của Thăng Long cố đô.
Tham khảo
1.
Là một vùng đất trẻ, Cà Mau quê em mới chỉ được khai phá từ những thập niên cuối thế kỷ XVIII. Miền đất này được thiên nhiên ưu đãi, ban tặng cho những điều kiện mà nhiều nơi khác không có được: ba mặt tiếp giáp biển (tổng cộng là 250km) và một hệ thống sông rạch chằng chịt (chiều dài tổng cộng hơn 7000km). Chợ nổi Cà Mau chính là sự giao hoà của con người và thiên nhiên ở miền sông nước hữu tình này.
Chợ nổi nằm trên sông Gành Hào (thuộc trung tâm thành phố Cà Mau), cách cầu Gành Hào khoảng hơn 200km, thuộc địa bàn phường 8. Ngày trước, chợ ở giữa ngã ba Chùa Bà, cách đó khoảng hơn chục cây số. Xưa kia, đây là nơi tụ tập kiếm sống của người tứ xứ và bán nhiều loại hàng hoá khác nhau. Bây giờ, chợ chỉ còn bán các sản vật của miệt vườn.
Ngay mờ sáng, từ hàng trăm ngàn con sông rạch khác, các ghe xuồng từ các vùng quê của các huyện Ngọc Hiển, Đầm Dơi, Cái Nước, Năm Căn... đem hàng về chợ nổi trên sông Gành Hào này. Trong làn sương mù lãng đãng trên sông nước, những chiếc ghe to, ghe nhỏ chở nặng hàng đậu sát vào nhau trên mặt nước dập dềnh, chuẩn bị cho một ngày mới.
Chợ nổi Cà Mau hội tụ rất nhiều loại trái cây và sản vật miệt vườn như: đu đủ, xoài, ổi, chôm chôm, khóm thơm (dứa), dừa nước, dưa gang, khế, bí bầu, cà chua, khoai tây... Trong nắng gió phương Nam, chợ bừng lên hương sắc của những miệt vườn ở đâu đó bên sông Tiền, sông Hậu, sông Trẹm,... Đôi khi còn có những ghe bán chiếu rong - những ghe chiếu đã trở thành cảm hứng để soạn giả Viễn Châu thuở nào viết nên bài ca vọng cổ "Tình anh bán chiếu" nổi tiếng đến hôm nay.
Chợ trên sông nên khách mua hàng cũng phải đi xuồng hoặc đò. Khách đi chợ chỉ cần ngồi trên con đò lướt nhẹ qua những ghe hàng, nhìn những thứ được treo lúc lắc trên các nhánh cây dựng trên ghe (gọi là cây "bẹo") là sẽ biết ghe đó bán hàng gì. Đó là những lời chào mời lặng lẽ nhưng thật hấp dẫn. Nếu bạn ghé vào, sẽ được người bán hàng hiếu khách mời nếm thử một thứ trái cây với phong cách bình dị, chân thành và phóng khoáng thật dễ thương của con người đất Mũi.
Xem thêm:
Soạn bài Thuyết minh về một thể loại văn học siêu ngắnSoạn bài Viết đoạn văn trong văn bản thuyết minh siêu ngắnChợ nổi Cà Mau nhóm họp trên sông suốt từ khoảng 3-4 giờ sáng đến chiều tối. Ở đây, người ta cũng buôn bán theo phường, hội giống như các chợ khác trên bờ. Những chiếc ghe chở khẳm hàng đi tới và những chiếc ghe mua hàng rong nhẹ nhàng rời chợ, cứ thay nhau lui tới trong tiếng máy nổ âm vang trên mặt sông. Xen kẽ trong đó là những ghe hàng rong phục vụ nhu cầu của người trong chợ. Cũng giống như những chủ ghe hàng ngồi hút thuốc lá lặng lẽ đợi khách, các ghe hàng rong cũng không thấy cất lời rao, chỉ lặng lẽ len lách trong chợ với những khách hàng quen thuộc.
Du khách có thể ghé qua chợ nổi trên sông Gành Hào vào buổi chiều tối, khi chợ nổi đã lắng lại trong một sự im lặng lãng mạn cùng với gió và sóng nước. Những chiếc ghe trở thành những căn nhà nổi bồng bềnh vương vấn khói cơm chiều. Mấy đứa trẻ ngồi vắt vẻo câu cá trên sông; ánh mắt nhìn xa xăm của người thiếu nữ đang chăm sóc mấy chậu đất trồng hoa và rau trên mui ghe; tiếng đàn ghi ta phím lõm trầm buồn loang trên mặt sông trong khúc "Nam ai" hay "Dạ cổ hoài lang" buồn mênh mông; một giọng ai đó cảm khái cất lên câu vọng cổ... Đó là khi chợ nổi trở về với những nỗi niềm của cuộc sống lênh đênh sông nước, vọng nhớ về một dải đất liền ở đâu đó trong tiềm thức. Để rồi, từ 3 giờ sáng hôm sau, cả một khúc sông Gành Hào lại bừng tỉnh với những ghe hàng đầy ắp những trái cây và rau quả, bắt đầu một ngày mới, nhộn nhịp và lãng mạn. Nếu có dịp, xin ai đó đừng bỏ lỡ một lần đến với chợ nổi trên sông Gành Hào. Nắng, gió sông nước và sự bình dị, chân thành của con người, sản vật nơi đây chắc chắn sẽ để lại những dấu ấn thật sâu đậm cho khách phương xa.
2.2Văn Miếu Quốc Tử Giám là một trong những di tích tiêu biểu, ghi nhận những thành tựu văn hoá của Đại Việt đã nghìn năm của Thăng Long cố đô.
Hà Nội là nơi tập trung đông dân cư ở nhiều vùng miền khác nhau vì vậy nên nơi đây là hội tụ của rất nhiều những nét đẹp văn hóa. Nhắc đến Hà Nội, người ta không thể không nhắc đến món Phở – mang hương vị đặc trưng của đất Hà Thành.
Phở là một món ăn rất tinh tế đã có từ rất lâu đời và mang rất nhiều những hương vị khác nhau tùy tay người nấu. Tuy nhiên, thành phần chính của phở bao gồm bánh phở, nước dùng có mùi thơm từ gừng, quế, hồi và thảo quả nướng kết hợp với vị ngọt từ xương lợn được ninh nhừ, thịt bò được thái mỏng và trần vào bát phở cùng với các loại rau thơm. Khi ăn phở, ta thường ăn kèm với quẩy nóng và các loại gia vị như dấm ớt, chanh tươi vắt vào nước dùng để có vị chua thanh thanh. Phở có mùi thơm kỳ lạ rất cuốn hút người ăn. Không có gì tuyệt vời hơn, một buổi sáng mùa đông lạnh, được thưởng thức một bát phở nóng rồi tiếp tục đi làm. Phở là món ăn rất dễ ăn, mọi người ở mọi lứa tuổi đều có thể ăn được mà không sợ béo hoặc bị ngấy. Chúng ta có thể thưởng thức phở Hà Nội ở các nhà hàng sang trọng, các quán ven đường,..Ngoài phở bò, ta có thể thưởng thức các món phở khác như phở gà cũng rất ngon và hấp dẫn.
Điều quan trọng nhất làm nên vị ngon của món phở đó là nước dùng. Nước dùng phải có ngọt từ xương chứ không phải vị ngọt từ đường hoặc mì chính. Nước dùng phải có màu trong và có mùi thơm nhẹ. Để có được phần nước dùng ngon người nấu cũng cần rất cẩn thận và tỉ mỉ. Bí quyết nấu nước dùng phụ thuộc vào kinh nghiệm ẩm thực của từng người.
Ta có thể thưởng thức rất nhiều các món được làm từ phở: phở nước, phở xào, phở chiên phồng,..tuy nhiên món phở nước luôn là món ăn hấp dẫn nhất. Đối với người Việt Nam và cả khách du lịch nước ngoài thì phở nước được coi là một món ăn tinh tế. Phở phải được đựng trong chiếc bát sứ thì mới thấy hết được tính ẩm thực và tính thẩm mỹ của nó. Bát phở thật hấp dẫn với rất nhiều gia vị đi kèm và các màu sắc đẹp mắt. Chỉ cần ngửi mùi thơm của nước dùng cũng đủ để ta cảm thấy ngất ngây. Các hương vị của thịt, xương, rau thơm quyện vào nhau tạo nên mùi thơm đặc biệt đi vào lòng người. Khi ăn phở, ta nên ăn chậm để cảm nhận được vị ngon của nó. Thịt thì mềm, bánh thì dẻo, thỉnh thoảng lại thấy cái cay dịu của gừng, cái cay nồng của ớt, cái thơm nhè nhẹ của rau thơm, và mùi thơm nồng của hành lá. Tất cả hòa quyện một cảnh ngọt ngào, tạo nên vị thơm ngon đặc trưng của món phở.
Phở là món ăn tinh tế và trở thành đặc trưng mang hương vị Hà Thành. Dù đi đâu hay làm gì, thì người dân Hà Nội cũng luôn mong trở về Hà Nội để được thưởng thức món ăn quen thuộc. Món phở Hà Nội đã làm xao xuyến bao tâm hồn nhà văn như Thạch Lam, Nguyễn Tuân,..và đã dần đi vào lịch sử như một nét đẹp văn hóa.
Không có từ ngữ nào có thể diễn tả một cách đầy đủ sự tinh tế và cảm giác tuyệt vời khi thưởng thức món phở Hà Nội. Chỉ biết rằng, đó là một món quà đặc biệt không lẫn với bất cứ món nào khác. Cuộc sống càng hiện đại, con người luôn sáng tạo để chế biến những món ăn ngon, hợp với văn hóa ẩm thực trong nước và thế giới, nhưng món phở Hà Nội chắc chắn sẽ luôn là sự lựa chọn tin cậy đối với những người dân Hà thành và các du khách khi đặt chân đến Hà Nội.
Một buổi trưa thật đẹp trời em đnag mơ man ngủ thì trong giấc mơ em đã được gặp vua Lý Công Uẩn em và ông ấy đã trò chuyện với nhau rất lâu em đã giớ thiệu cho ông ấy biết Thủ đo Hà Nội của nước Việt Nam ta niềm kiêu hãnh của dân tộc
Thủ đô Hà Nội là thủ đô ngàn năm tuổi, kể từ năm 1010 khi vị vua triều lí là Lí Công Uẩn đã quyết định rời đô từ kinh đô Hoa Lư về thành Thăng Long đến nay, thì thủ đô Hà Nội cũng vừa tròn một ngàn năm tuổi. Để kỉ niệm ngàn năm văn hiến của mình thì vào năm 2010 Việt Nam đã long trọng tổ chức lễ đón “Một ngàn năm Thăng Long Hà Nội” để cùng với quốc dân đồng bào cùng chia sẻ niềm tự hào của dân tộc ngàn năm tuổi, đồng thời cũng là lời tuyên bố trong tự hào với các quốc gia trên thế giới, rằng Việt nam là đất nước có truyền thống văn hóa, lâu đời.
Không phải là ngẫu nhiên mà khi xưa Lí Thái Tổ lựa chọn thành Thăng Long chính là kinh đô mới của Việt Nam. Thành Thăng Long hội tụ đầy đủ các yếu tố cả về địa lí , cả về yếu tố trọng yếu về chính trị để trở thành nơi quan trọng nhất của đất nước. Theo lập luận của Lí Thái Tổ, thành Thăng Long được thế “rồng cuộn hổ ngồi”. lại đúng ngôi nam bắc đông tây, tiện hướng nhìn sông, dựa núi. Địa hình thì rộng mà bằng, đất đai cao mà phẳng. Nếu sinh sống nơi đây người dân sẽ không phải đương đầu với nạn lụt lội, vạn vật cũng phong phú tốt tươi. Và khắp đất Việt thì thành Thăng Long chính là nơi trọng yếu hội tụ của đất nước.
Và lịch sử đã chứng minh sự lựa chọn của vua Lí Thái Tổ là hoàn toàn đúng đắn, vì ngày nay, trải qua hàng ngàn năm thì thành Thăng Long xưa và Hà Nội ngày nay vẫn là lựa chọn hàng đầu làm thủ đô,là nơi trung tâm của đất nước. Tên gọi Hà Nội có cách đây vào khoảng cuối thế kỉ mười tám, đầu thế kỉ mười chín. Về ý nghĩa của tên gọi này có thể lí giải như sau, Hà Nội tức là thành phố nằm trong sông, cách lí giải này phù hợp với vị trí địa lí của thủ đô Hà Nội, bởi đây chính là thành phố được bồi tụ, bao bọc bởi con sông Hồng rộng lớn. Khi xưa, Hà Nội còn có tên gọi khác là sông Nhị Hà.