K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

26 tháng 12 2017

mình bt bạn ơi. mai lên lớp mình cho xem!!

26 tháng 12 2017

\(\Rightarrow\)Học thuộc các dạng thì là được nờ :)
 GOOD LUCK!

11 tháng 1 2023

Đặt 5 câu với How much và trả lời (chia động từ đa dạng các thì)
- how much water do you drink everyday ?
=> i drink 2000ml of water everyday
từ cái câu mà mình ví dụ này bạn có thể làm thêm các thì như thì quá khứ đơn, tương lai đơn nhé
Đặt 5 câu với How many và trả lời (chia động từ đa dạng các thì)
how many books did you have last year ?
=> i had 10 books last year
từ cái câu mà mình ví dụ này bạn có thể làm thêm các thì như thì quá khứ đơn, tương lai đơn nhé

7 tháng 1 2019

My name is Nhung. Today I'm going to tell about my best friend. I have many friends. But among my friends, I cherish most is Lan. She is a good student of my class. Lan has short black hair, an oval face and brown eyes. I when she glad because she looks so lovely when she smiles. She is a form of friends that I can share everything. She always help me in every situations. She s English, reading books and listening to music. Lan and I have a lot of common with each other, so we have been good friends over past years. I hope we will keep this friendship forever.

7 tháng 4 2021

hi im Phuong. I have a lot of friends. my cherish most is Anh. she a good and clever friend. she has long black hair and brown eyes. she  high 1m45. she so clever. sometime she greedy and kind.she favorite lesson is music. she play skipping . in the future she want to a doctoc

22 tháng 9 2019

a hourse in the countryside, my huorse has 3 bedrooms, 2 bathrooms, 1 toilet, 1 kitchen, 1 livingroom, 1 big room, 1 storehourse, 1 big garden, 1 big yard, 1 at

2 tháng 5 2020

Bảng động từ bất quy tắc – Hơn 360 từ thông dụng

STT

Động từ nguyên mẫu (V1)

Thể quá khứ (V2)

Quá khứ phân từ (V3)

Nghĩa của động từ

1

abide

abode/abided

abode / abided

lưu trú, lưu lại

2

arise

arose

arisen

phát sinh

3

awake

awoke

awoken

đánh thức, thức

4

backslide

backslid

backslidden / backslid

tái phạm

5

be

was/were

been

thì, là, bị, ở

6

bear

bore

borne

mang, chịu đựng

7

beat

beat

beaten / beat

đánh, đập

8

become

became

become

trở nên

9

befall

befell

befallen

xảy đến

10

begin

began

begun

bắt đầu

11

behold

beheld

beheld

ngắm nhìn

12

bend

bent

bent

bẻ cong

13

beset

beset

beset

bao quanh

14

bespeak

bespoke

bespoken

chứng tỏ

15

bet

bet / betted

bet / betted

đánh cược, cá cược

16

bid

bid

bid

trả giá

17

bind

bound

bound

buộc, trói

18

bite

bit

bitten

cắn

19

bleed

bled

bled

chảy máu

20

blow

blew

blown

thổi

21

break

broke

broken

đập vỡ

22

breed

bred

bred

nuôi, dạy dỗ

23

bring

brought

brought

mang đến

24

broadcast

broadcast

broadcast

phát thanh

25

browbeat

browbeat

browbeaten / browbeat

hăm dọa

26

build

built

built

xây dựng

27

burn

burnt/burned

burnt/burned

đốt, cháy

28

burst

burst

burst

nổ tung, vỡ òa

29

bust

busted / bust

busted / bust

làm bể, làm vỡ

30

buy

bought

bought

mua

31

cast

cast

cast

ném, tung

32

catch

caught

caught

bắt, chụp

33

chide

chid/ chided

chid/ chidden/ chided

mắng, chửi

34

choose

chose

chosen

chọn, lựa

35

cleave

clove/ cleft/ cleaved

cloven/ cleft/ cleaved

chẻ, tách hai

36

cleave

clave

cleaved

dính chặt

37

cling

clung

clung

bám vào, dính vào

38

clothe

clothed / clad

clothed / clad

che phủ

39

come

came

come

đến, đi đến

40

cost

cost

cost

có giá là

41

creep

crept

crept

bò, trườn, lẻn

42

crossbreed

crossbred

crossbred

cho lai giống

43

crow

crew/crewed

crowed

gáy (gà)

44

cut

cut

cut

cắt, chặt

45

daydream

daydreamed / daydreamt

daydreamed / daydreamt

nghĩ vẩn vơ, mơ mộng

46

deal

dealt

dealt

giao thiệp

47

dig

dug

dug

đào

48

disprove

disproved

disproved / disproven

bác bỏ

49

dive

dove/ dived

dived

lặn, lao xuống

50

do

did

done

làm

51

draw

drew

drawn

vẽ, kéo

52

dream

dreamt/ dreamed

dreamt/ dreamed

mơ thấy

53

drink

drank

drunk

uống

54

drive

drove

driven

lái xe

55

dwell

dwelt

dwelt

trú ngụ, ở

56

eat

ate

eaten

ăn

57

fall

fell

fallen

ngã, rơi

58

feed

fed

fed

cho ăn, ăn, nuôi

59

feel

felt

felt

cảm thấy

60

fight

fought

fought

chiến đấu

61

find

found

found

tìm thấy, thấy

62

fit (tailor, change size)

fitted / fit

fitted / fit

làm cho vừa, làm cho hợp

63

flee

fled

fled

chạy trốn

64

fling

flung

flung

tung; quăng

65

fly

flew

flown

bay

66

forbear

forbore

forborne

nhịn

67

forbid

forbade/ forbad

forbidden

cấm, cấm đoán

68

forecast

forecast/ forecasted

forecast/ forecasted

tiên đoán

69

forego (also forgo)

forewent

foregone

bỏ, kiêng

70

foresee

foresaw

forseen

thấy trước

71

foretell

foretold

foretold

đoán trước

72

forget

forgot

forgotten

quên

73

forgive

forgave

forgiven

tha thứ

74

forsake

forsook

forsaken

ruồng bỏ

75

freeze

froze

frozen

(làm) đông lại

76

frostbite

frostbit

frostbitten

bỏng lạnh

77

get

got

got/ gotten

có được

78

gild

gilt/ gilded

gilt/ gilded

mạ vàng

79

gird

girt/ girded

girt/ girded

đeo vào

80

give

gave

given

cho

81

go

went

...
2 tháng 5 2020

abide

30 tháng 3 2016

Chưa đọc nha!

1 tháng 4 2016

Các bạn đọc thân mến, tôi đưa các bạn sang đất nước Thụy Sỹ. Hãy nhìn xung quanh các bạn, nhìn lên những khu rừng âm u trên những đỉnh núi hiểm trở. Hãy trèo lên những bãi tuyết sáng chói và trở xuống những bình nguyên xanh tươi, ở đấy có biết bao nhiêu sông con và khe suối đang ầm ầm chảy xiết, như sợ không đến kịp để tiêu tan trong biển cả. Mặt trời rọi những tia nóng bỏng vào những thung lũng sâu, làm tan những khối tuyết. Đến đêm tuyết lại đông lại thành những tảng băng, lở ra rồi lăn xuống núi, hoặc đóng thành những con sông băng chồng chất lên nhau. Trong số ấy có hai con sông băng đóng đầy những khe vực lớn dưới chân hai ngọn Schreckhorn và Wetterhorn gần thị trấn Grindelwald. Những sông băng ấy hình thành một cách lạ kỳ nên đến mùa hè rất nhiều nhà du lịch từ khắp các nước đến đều dừng chân tại đó. Từ các thung lũng, leo hàng giờ đồng hồ mới lên tới đỉnh núi, ở đó, họ cảm thấy như đang nhìn thấy đồng bằng từ một quả khinh khí cầu lơ lửng trên không. Mây luôn luôn tụ lại trên các ngọn núi thành một màn hơi bao la, còn mặt trời thì chiếu xuống thung lũng làm cho cỏ cây rực rỡ như một bức tranh lụa đặt trước đèn. Phía dưới, nước cuốn ầm ầm như gào thét. Khi còn ở trên cao, nước thì thầm, khẽ róc rách và trườn theo các tảng đá, trải ra thành những dải bạc. Hai bên đường đi lên sông băng là những nhà gỗ, xung quanh mỗi cái có vườn khoai nhỏ nuôi sống các em bé, miệng xinh xắn háu ăn, lốc nhốc trong những gian nhà nhỏ bé đó. Người ta thấy hàng đàn các em bé ấy xô đến trước những người du lịch, vây quanh họ và mời mua những chiếc nhà gỗ xinh xinh do cha mẹ chúng đẽo gọt. Ngày nắng đẹp cũng như ngày mưa trút nước, lũ trẻ con ấy luôn luôn đứng rải rác trên đường để chào mời du khách mua món hàng bé nhỏ của mình. Cách đây chừng hai mươi năm, du khách thấy một em bé cũng đến bán hàng, cùng chạy tới với các trẻ em khác, nhưng bao giờ em cũng đứng cách ra xa một chút. Em có một bộ mặt nghiêm nghị đáng yêu, và hai tay giữ khư khư cái hộp gỗ, tưởng chừng như không bao giờ em muốn rời nó ra cả. Các em khác quấy rầy mọi người. Riêng em chẳng nói chẳng rằng. Nhưng vẻ nghiêm trang của đứa bé làm cho mọi người thích gọi em hơn các em láu táu kia và em bán được nhiều hàng hơn, tuy em chẳng biết tại sao Chính ông em đã đẽo gọt những cái kẹp hột bồ đào, những ông phỗng kỳ quái, những con gấu, những thìa, nĩa, những cái hộp chạm trổ cành lá thanh tao và những con nai mảnh khảnh. Ông cụ ở trên núi cao. Cụ có một tủ đầy những đồ chơi xinh xinh như thế thường làm trẻ con rất mê thích. Nhưng em bé, tên gọi Rudy, không chú ý đến những đồ chơi đó lắm. Cái mà em thích nhìn và thèm muốn, cái mà em khao khát chiếm được, là cây súng cổ treo trên xà nhà. Ông em đã hứa cho em, nhưng chỉ khi nào em đã lớn và đủ sức dùng cây súng ấy. Tuy còn bé tí, em đã phải đi chăn dê. Nếu một tay chăn dê giỏi cần phải biết cùng dê leo lên các mỏm đá thì Rudy là một em bé chăn dê giỏi. Em còn trèo cao hơn cả dê nữa. Em thích trèo lên ngọn cây cao để gỡ tổ chim. Em can đảm, còn liều lĩnh là khác. Chỉ khi nào đến bên một thác nước đang gầm thét, hay nghe thấy tiếng băng lở đổ ầm ầm, mới thấy em mỉm cười. Em chẳng bao giờ chơi với những đứa trẻ khác. Chỉ thấy em trong bọn chúng khi nào ông em sai em đi bán các đồ gỗ chạm trổ do ông cụ làm ra. Rudy chẳng thích làm việc ấy tí nào. Em chỉ thích một mình leo lên các ngọn núi hiểm trở, hoặc ngồi cạnh ông ngoại để nghe kể lại những câu chuyện thời xưa và những truyền thuyết về xứ Meyringen, nơi ông cụ sinh trưởng, xứ sở ngày xưa đã bị một dân tộc thuộc dòng giống Thụy Điển từ trên tít miền Bắc xuống xâm lăng. Vì thế Rudy học được khối thứ. Trong khi lắng tai nghe những câu chuyện của nhà điêu khắc già ấy, em đã thu lượm được một kiến thức nho nhỏ mà các em khác cùng tuổi không hề có. Nhưng trí tuệ em lại càng minh mẫn nhờ sự giao du với những con vật sống trong gian nhà gỗ. Đó là Ajola, con chó lớn của cha em và một con mèo mà Rudy rất yêu quý. Chính con mèo này đã dạy em leo trèo. Một hôm mèo bảo: “Này, đi lên mái nhà với tớ đi”, em nghe hiểu ngay. Khi người ta còn bé và nói chưa sõi, người ta rất hiểu tiếng nói của gà, vịt, chó và mèo. Chúng cũng nói rành rọt như cha mẹ nói với ta. Khi ta lấy cây gậy của ông làm ngựa cưỡi chơi thì ta cũng nghe thấy nó hí và trông thấy như nó có cả đầu, cả chân và cả đuôi. Nhưng một khi ta lớn lên thì tính năng đó mất đi. Tuy nhiên, cũng có nhiều em giữ được tính năng đó lâu hơn các em khác, người ta cho rằng chúng là những đứa đần độn hạng nặng. Nhưng, người đời thật là lắm chuyện! Đây, mèo đã bảo em: “Này, đi lên mái nhà với tớ đi! Tưởng là nguy hiểm thì thật là hão huyền. Khi người ta không hề sợ ngã, thì chẳng bao giờ ngã. Nào, cậu đặt một cẳng như thế, một cẳng như vậy. Giữ cho chắc hai cẳng đằng trước. Mắt phải thật tinh, người phải thật mềm, khi tới một vực sâu cứ nhảy qua, không sợ gì cả. Trông tớ làm đây này”. Thế là Rudy thuộc lầu cả bài diễn giảng đó, theo con mèo lên tận mái nhà và các ngọn cây. Sau đó, em leo lên tận các mỏm đá nhọn, nơi mà loài mèo không leo đến bao giờ. Chính những bụi cây mọc cheo leo đã dạy em bám lấy những rìa núi chật hẹp hiểm trở nhất. Rudy thường hay trèo lên núi trước lúc mặt trời mọc, và ở đấy em thở hít không khí tươi mát, lành mạnh. Đó là một thứ rượu tiên mà chỉ có Chúa Trời nhân đức mới biết làm, và đây là cách pha chế: Hãy trộn hương thơm của tất cả các loại cỏ tươi trên núi lẫn với bạc hà, xạ hương, hoa hồng và tất cả các thứ hoa khác mọc dưới thung lũng. Hãy lọc lấy những vị thơm tinh túy nhất; còn các hơi nặng nề thì để cho mây hút đi. Nhờ gió đẩy tất cả qua những khu rừng thông, sau đó bạn được hương của một bó hoa tươi tắn, dịu dàng và cực kỳ thơm ngát. Chính Rudy sáng nào cũng lên hưởng hương thơm ấy trên núi cao. Ánh sáng mặt trời đến vuốt ve đôi má em. Thần Choáng váng, con quỷ kinh tởm đang rình mò em; nhưng có lệnh của bề trên cấm nó đến gần em bé. Những con chim nhạn trong bảy tổ chim làm dưới mái nhà của ông ngoại, bay theo em lên núi cao, nơi em chân dê, và hát lên những điệp khúc bí ẩn: “Vi ốốc i, ốốc i, ốốc vi[3]”. Chúng truyền lại cho em nghe những lời khen ngợi của mọi người trong nhà, kể cả của đôi gà mái, những con vật mà em không hề giao du. Tuy vẫn còn bé tí, em đã từng du lịch khá nhiều. Em sinh ra ở tổng Valais, từ đấy người ta mang em vượt qua dãy núi Alps về Oberland, khi em còn nhỏ xíu. Sau này, em đã từng đi bộ đến đến tận Staubbach để ngắm nghía cái thác nước mỹ lệ tỏa trong không trung như một tấm sa màu bạc chừng ba trăm thước trước ngọn Jungfrau phủ đầy băng tuyết trắng toát.
Cũng đã có lần em đến gần những dòng sông lớn ở Grindelwald nữa. Nhưng đó là một câu chuyện buồn. Mẹ em đã chết ở đấy và em đã mất hết tính vui vẻ của tuổi thơ. Thỉnh thoảng ông ngoại em lại kể rằng: “Hồi thằng Rudy lên hai, hầu như lúc nào nó cũng cười. Thư của mẹ cháu viết cho tôi toàn kể những nét vui tươi như điên rồ của cháu, nhưng từ khi cháu bị rơi xuống hang băng đến nay, cháu trở thành nghiêm nghị hơn ông già”. Ông cụ không thích nhắc đến biến cố ấy lắm, nhưng khắp vùng xung quanh, mọi người đều biết. Câu chuyện xảy ra như sau: Người ta chỉ nhớ rằng cha Rudy là một người đánh xe ngựa. Con chó lớn Ajola luôn chạy theo khi ông đánh xe từ Geneva qua đèo Simplon, đi sang nước Ý. Ông có một người em trai ở thung lũng ven sông Rhone thuộc tổng Valais. Đó là một tay săn nai[4] dũng cảm và còn làm nghề dẫn đường cho các khách du lịch. Rudy mồ côi cha từ năm lên hai. Mẹ em quyết định quay trở về quê hương Obeclan thuộc Berne, sống với ông nghoại em ở cách Grindelwald một dặm đường. Ông cụ làm nghề chạm trổ những đồ gỗ xinh xinh để kiếm ăn. Thế là đến tháng sau bà ta bế con đi cùng với hai người thợ săn nai. Họ đã vượt qua dốc núi Gemmi và đã trông thấy từ xa các nhà gỗ nằm trong thung lũng của quê hương. Họ chỉ còn phải vượt qua một con sông băng lớn nữa thôi. Đường đi thật vất vả. Tuyết vừa mới rơi xuống, che một cái vực chỉ rộng độ mấy chục thước - như thường thấy ở vùng này - nhưng lại sâu hơn một đầu người. Người thiếu phụ trượt chân, thụt xuống tuyết và cùng Rudy rơi biến xuống đáy vực. Lúc đầu người ta không nghe thấy tiếng kêu, cũng không nghe thấy tiếng rên rỉ. Nhưng chẳng bao lâu em bé cất tiếng khóc. Phải mất hơn một giờ sau hai người săn nai mới tìm kiếm được cọc và dây ở một nhà gần đấy. Sau nhiều cố gắng, đến tảng sáng họ mới mang lên được người mẹ và đứa bé nom như đã chết rồi. Người ta cứu được đứa bé còn người mẹ thì không cứu được. Em bé được mang về với ông ngoại và ông cụ đã cố gắng hết sức mình nuôi nấng em thật chu đáo. Cụ không thấy cháu cụ vui vẻ, tươi cười như mẹ nó đã tả. Em bé hầu như không bao giờ cười nữa.
Ấy là hậu quả của cái tai nạn làm em bé bị rơi vào thế giới băng giá kỳ lạ. Thế giới đó toàn là những khối băng vĩ đại sắc trắng hoặc xanh, đủ các hình thù, chồng chất lên nhau. Theo óc mê tín của nhân dân miền núi Thụy Sỹ thì linh hồn những người có tội bị giam giữ trong đó cho đến ngày phán xử cuối cùng. Bên trong sông băng có những hang rộng bao la, những vực sâu suốt đến tận trong lòng dãy núi Alps. Nơi ấy có một lâu đài tuyệt đẹp. Đó là cung điện của Nữ thần Băng giá, bà chúa của địa hạt âm u này. Mụ thích phá phách, đè bẹp và nghiền nát mọi vật. Không trung là cha mụ. Quyền lực của mục rải trên tất cả các dòng sông bắt nguồn từ xứ sở của mụ. Mụ có thể lao nhanh hơn nai lên những đỉnh núi tuyết vĩnh cửu mà người liều lĩnh nhất cũng phải đẽo bậc thang vào băng mới leo lên được. Có những lần mụ trút xuống các cành cây thông những thác nước hung dữ nhất để rồi nhảy từ mỏm đá này sang mỏm đá khác, mớ tóc dài trắng xóa tỏa phất phơ quanh mình: mụ khoác một áo choàng màu hồ thủy giống như nước các hồ vùng Helvetii. Khi người ta kéo Rudy từ dưới vực lên, mụ gào thét: “Thôi đi! Để nó đấy, nó là của ta”. Khi người ta giành chú bé mang đi, thì mụ nói: “Chúng đã cướp của ta một đứa bé xinh đẹp; ta đã ôm nó, sắp sửa cho nó một cái hôn giết chết nó. Thế là nó lại được quay về sống với người đời. Nó chăn dê trên núi. Nó trèo lên cao nữa, cao mãi. Nó đi xa hơn mọi ngư...

31 tháng 8 2021

Có trường hợp động từ thêm đuôi ing trong quá khứ ở thì quá khứ tiếp diễn

VD.: I was doing my homework at this time yesterday.

Động từ có đuôi -ing trong quá khứ đơn là quá khứ tiếp diễn:
 1.Cách dùng
-Diễn đạt hành động đang xảy ra tại 1 thời điểm trong quá khứ. Diễn đạt hai hành động xảy ra đồng thời trong quá khứ và Hành động lặp đi lặp lại trong quá khứ và làm phiền đến người khác. 
 2.Các ví dụ:
Ex1: When i was taking a bath, she was using the computer.(Trong khi tôi đang tắm thì cô ấy dùng máy tính.)
 Ex2: I was listening to the news when she phoned.(Tôi đang nghe tin tức thì cô ấy gọi tới.)
Ex3: When he worked here, he was always making noise.
3.Các công thức:
(+): S + was/were + V-ing(+O)
Ex: I was thinking about him last night.
(-): S + was/were + not + V-ing(+O) 
Ex: I wasn't thinking about him last night. 
(?): Was/were + S + V-ing(+O)
Ex: Were you thinking about him last night?

Are you in 4A?

No, I am not.

Học tốt!

18 tháng 2 2020

Are you in 4A? - No , I am not.

18 tháng 4 2018

London, UK.London is the second-largest English-speaking city in the world, and according to some sources, even the largest. The city is home to about 8.2 million people, not counting the metropolitan area. Due to the specific accent in southern England, London is considered one of the best places in the world to learn English.

19 tháng 4 2018

Cho bt ban la con ai 

9 tháng 3 2018

mn nghĩ là : 

buồn là cái j ??

mn ko biết có đúng ko nữa !!

9 tháng 3 2018

co phai la:buon la gi