Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Mở đoạn:
Dẫn dắt, giới thiệu nhân vật Vũ Nương thông qua tác phẩm, tác giả.
Vd: dẫn từ câu chủ đề: Vũ Nương là người vợ thủy chung, tình nghĩa", ...v..v
Thân đoạn:
Khái quát chung về đặc điểm của nhân vật này:
+ Là người vợ chung thủy, người con dâu hiếu thảo.
Đi sâu vào phân tích, bàn luận vẻ đẹp trong vai trò người vợ của Vũ Nương:
+ Nàng là người vợ rất mực thủy chung với chồng, có thú vui gia thất nhưng vì chồng mà một mực giữ gìn trinh tiết.
+ Khi chồng ra trận thì một tuần sau, nàng sinh con và cố gắng làm tròn vai trò người mẹ: chăm sóc nuôi con từng li từng tý.
+ Nàng vừa làm tròn bổn phận người vợ, người mẹ vừa làm tròn bổn phận của một người con, nàng luôn chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ chồng.
+ Nàng sợ bé Đản cô đơn khi thiếu vắng đi hình ảnh người cha, nàng chỉ chiếc bóng của mình trên tường và nói đó là cha của cậu bé. Giúp cho cậu nguôi ngoai phần nào về cha mình.
+ Có thể nói, nàng đã hoàn thành rất tốt nhiệm vụ của người vợ, nàng chăm chỉ tảo tần, nàng đoan trang giữ gìn, nàng thương con thương chồng.
Nhận xét:
+ Có thể nói là nàng đã cố gắng dành trọn "tình" và "nghĩa" cho chồng con của mình, cha mẹ.
+ Có lẽ vẻ đẹp của Vũ Nương cũng là vẻ đẹp của người phụ nữ thời xưa.
+ Ta có thể kết luận rằng nàng chính là người phụ nữ lý tưởng cho xã hội bấy giờ, có đủ: Công, dung, ngôn và hạnh.
+ Số phận: Chỉ đáng tiếc rằng cái vẻ đẹp ấy của nàng lại bị chồng xem thường, không tin tưởng mình mà cuối cùng nàng có cái kết rất bi kịch là: lấy cái chết của bản thân để chứng minh sự trong sạch của mình.
-> Bi kịch từ đầu đã là do chồng Nương đa nghi lại thêm tính không tin tưởng vợ mình mà chỉ tin trẻ con dẫn đến cái chết của nàng.
-> Cuộc đời nàng sống công dung ngôn hạnh, khắc khổ nhưng chưa bao giờ được yêu thương thực sự.
-> Nàng - cũng như bao người phụ nữ khác thời phong kiến bị ràng buộc bởi định kiến làm vợ nên không dám sống tiếp.
Kết đoạn:
Tổng kết, khẳng định lại suy nghĩ và cảm nhận của mình dành cho nhân vật này.
1. Các chi tiết kì ảo là:
- Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.
- Phan Lang gặp nạn, lạc vào động rùa, gặp Linh Phi, được cứu giúp; gặp lại Vũ Nương rồi được sứ giả của Linh Phi rẽ đường nước đưa về dương thế.
- Vũ Nương hiện về trong cờ hoa rợp trời, trong lễ giải oan trên bến Hoàng Giang giữa lung linh huyền ảo rồi lại biến đi mất.
2. Ý nghĩa của các chi tiết kì ảo:
- Các chi tiết kì ảo (đặc biệt ở phần kết thúc truyện) làm nên đặc trưng của thể loại truyện truyền kì.
- Làm hoàn chỉnh thêm nét đẹp vốn có của Vũ Nương: nặng tình, nặng nghĩa, quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, khao khát được phục hồi danh dự.
- Tạo nên kết thúc phần nào có hậu cho câu chuyện.
- Thể hiện ước mơ về lẽ công bằng ở cõi đời của nhân dân ta.
- Chi tiết kì ảo đồng thời cũng không làm mất đi tính bi kịch của câu chuyện. Vũ Nương trở về mà vẫn xa cách ở giữa dòng bởi nàng và chồng con vẫn âm dương chia lìa đôi ngả, hạnh phúc đã vĩnh viễn rời xa.
Vũ Nương là người phụ nữ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Phẩm chất của nàng được thể hiện qua các chi tiết sau:
- Qua lời giới thiệu ở đầu câu chuyện: "tính tình thùy mị nết na", "tư dung tốt đẹp",...
- Trong cuộc sống hôn nhân gia đình: Vũ Nương hiểu Trương Sinh "có tính đa nghi nên luôn giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải thất hòa".
- Khi tiễn chồng đi lính: nàng rót chén rượu đầy và nói lời tiễn biệt mà ai nghe cũng phải ứa hai hàng lệ. Trong lời dặn dò chồng, nàng không mong vinh hiển, chỉ cầu chồng được bình an trở về, cảm thông trước nỗi khổ và nỗi vất vả gian lao mà chồng phải chịu đựng.
- Khi chồng ở xa:
+ Nàng là người con dâu hiếu thảo. Chăm sóc mẹ chồng chu đáo, mẹ chồng ốm, nàng hết sức thuốc thang và lo cầu khấn thần phật. Khi mẹ chồng qua đời, nàng lo ma chay chu tất. Lời mẹ chồng trăng trối trước lúc ra đi cũng thể chứng minh nàng là người con sống có hiếu.
+ Nàng là người mẹ đảm đang. Trong những ngày Trương Sinh đi lính, để con khỏi thiếu tình cha, nàng trỏ cái bóng của mình trên tường và nói đó là cha Đản. Đứa con vì thế mà luôn đầy đủ tình cảm, nhưng cũng chính đây là nguyên nhân gây ra cái chết oan khuất cho nàng.
- Khi bị chồng nghi oan:
+ Lời thoại 1: Vũ Nương phân trần để chồng hiểu rõ mình.
+ Lời thoại 2: Nàng nói lên nỗi đau đớn, thất vọng, không hiểu vì sao bị đối xử bất công.
+ Lời thoại 3: nàng bày tỏ niềm thất vọng đến tột cùng, không thể hàn gắn. Nàng quyết định trẫm mình ở sông Hoàng Giang để chứng minh sự trong sạch. => Đây là hành động quyết liệt cuối cùng để Vũ Nương bảo vệ danh dự của mình.
=> Vũ Nương là người phụ nữ xinh đẹp, nết na, đảm đang, tháo vát: Nàng là người vợ thủy chung, người con dâu hiếu thảo và người mẹ đảm đang, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình. Một con người như thế đáng ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn.
1. trước khi lấy ck
mới vào đầu tác phẩm để lm nền cho sự phát triển của câu chuyện tascgiar đã giới thiệu tính cách của nv :"Vũ Thị...tư dung tốt đẹp", chỉ bằng câu văn ngắn đã khái quát đc vẻ đẹp toàn diện của VN.VN có 1 vẻ đẹp từ hình dáng,nhan sắc bên ngoài đến tôm hồn,tính cách bên trong
2.Khi lấy ck
a.trong cuộc sống vk ck bth
bt ck có tính đa nghi,VN lúc nào cs"giữ gìn khuôn phép...thất hòa"
\(\rightarrow\)VN đã bt giữ đạo lm vk của ng phụ nữ trong xã hội pk ngày xưa
b.Khi tiễn ck đi lính
nàng rót rượu tiễn ck và ns những lời mà ai nghe cs
đều ứa 2 hàng lệ.Nàng k mong vinh hiển mà chỉ mong ck đc bình an trở về:'chàng đi chuyến này...thế là đủ r'
\(\rightarrow\)VN là ng k ham cái công danh phú quí giành đc nơi trận mạc,k muốn đánh đổi sự bình yên trong cuộc sống gđ để đánh dổi sự vinh hiển.Nàng mong muốn ck sớm toàn vẹn trở về sum họp.Đó là mong ước hết sức bth của 1 ng vk,1 ng phụ nữ khao khát cuộc sống gđ bình yên
Tình thg ck còn thể hiện qua sự cảm thông những vất vả,gian lao mà ck sẽ phải chịu đựng:'chỉ e vc quân...chẻ tre chx có',qua nỗi khắc khoải nhớ nhung:'mà mùa dưa...cánh hồng bay bổng'.Trong nỗi niềm của ng vk xa ck nàng cảm thông cho cả nỗi niềm của ng mẹ xa con
c.Khi ck đi lính xa nhà
VN là ng vk thủy chung, yêu ck tha thiết.Tác giả đã miêu tả thật xúc động nỗi buồn thg nhớ ck khắc khoải triền miên theo thời gian:'ngày qua tháng lại...ngăn đc'.Thời gian trôi qua k gian cảnh vật thay đổi , mùa xuân vui tươi-'bướm lượn đầy vườn', mùa đông ảm đạm-'mây che kín núi' còn lòng ng thì chỉ dằng dặc một nỗi buồn thg
*nàng còn là ng dâu thảo
Ck đi lính xa xôi,1 mik nàng vừa nuôi con nhỏ,vừa chăm sóc mẹ ck.Cách chăm sóc của nàng thật cảm động.Mẹ già đau ốm,'nàng hết sức thuốc...khuyên lơn'.Lời trối trăng của bà mẹ ck trc khi mất chính là sự ghi nhận nhân cách và đánh giá cao công lao của nàng đối vs gđ nhà ck:'một tấm thân tàn...chẳng phụ mẹ',Mẹ mất, 'nàng hết lời thg xót...cha mẹ đẻ mik'.Nàng lm tất cả những vc đó k phải vì trách nhiệm mà vì tình nghĩa thực sự trong lòng.
\(\rightarrow\)VN là ng phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu của ng phụ nữ VN truyền thống
*VN là ng mẹ rất mực thg con
-Ck đi chinh chiến xa xôi ,VN phải 'vượt cạn' 1 mik sinh ra bé Đản rồi vất vả nuôi nấng,chăm sóc con nên ng
-Khi ck vắng nhà,VN chỉ vào cái bóng trên vách mà ns vs bé Đản đấy là cha của nó
+Vc lm ấy thể hiện tình thg của 1 ng mẹ.VN k muốn con mik lớn lên trong sự thiếu vắng bố, như 1 ng cha,lại vừa chăm sóc,dạy dỗ con cái vs trách nhiệm của 1 ng mẹ
+Hình ảng cái bóng trên vách còn thể hiện tình cảm thủy chung của VN đối vs ck:có lẽ tự thẳm sâu cõi lòng của VN luôn thường trực nỗi khát khao về sự keo sơn,gắn bó trong tình nghĩa vk ck như hình vs bóng
*VN là ng phụ nữ nết na,hiền thục,lại đảm đg,tháo vát,rất mực híu thảo vs mẹ ck,1 dạ thủy chung vs ck,hết lòng vun đắp cho hạnh phúc gđ.Một con ng như thế đág ra phải nhận đc hạnh phúc trọn vẹn vậy mà phải chịu bao nỗi oan khuất
Học rộng, tài cao, nhưng Nguyễn Dữ phải sống trong xã hội phong kiến Việt Nam thời kì khủng hoảng, nên ông chỉ làm quan một vài năm rồi lui về ở ẩn, viết sách. Tuy không có nhiều tác phẩm lớn đóng góp cho nền văn học trung đại, nhưng Nguyễn Dữ với Truyền kì mạn lục, ông thường viết về những người phụ nữ bị xã hội phong kiến chà đạp, đẩy vào hoàn cảnh bất hạnh, Chuyện người con gái Nam Xương là một trong số đó. Vũ Nương, nhân vật chính trong tác phẩm là người phụ nữ nết na, hiền thục, nhưng phải chịu số phận đau thương, oan nghiệt.
Vũ Nương luôn khao khát hạnh phúc gia đình. Sống trong gia đình chồng, nàng phụng dưỡng mẹ chồng chu đáo như với cha mẹ đẻ của mình, đến mẹ chồng cũng phải khen nàng “xanh kia chẳng phụ con, cũng như con chẳng phụ mẹ”. Sống với chồng, nàng hết sức giữ gìn khuôn phép, không bao giờ có sự thất hòa giữa hai vợ chồng, nên gia đình luôn êm ấm. Khi Trương Sinh phải đi lính, nàng hết sức lo lắng, phút chia tay, nàng nói với chồng rằng: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu,.. chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên”. Vũ Nương chẳng cần vinh hoa phú quý, chỉ khao khát được đoàn tụ, gia đình sum vầy, hạnh phúc mà thôi.
Thế nhưng nàng cố gắng vun vén cho hạnh phúc gia đình bao nhiêu thì càng phải chịu đau khổ, bất hạnh bấy nhiêu. Thật oan trái! Bi kịch thứ nhất là nàng bị chồng nghi ngờ một cách vô lí mà không được thanh minh. Những lời biện bạch tha thiết “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguội lòng… Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói” đều bị chồng để ngoài tai. Những lời van xin thống thiết, hỏi chuyện đó ai nói: “ Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ”, đều bị chồng gạt phắt đi, anh ta chỉ một mực mắng nhiếc và đánh đuổi nàng đi.
Và một bi kịch tiếp tất sẽ xảy ra, dù nàng đã tìm mọi cách để cứu vãn sự đổ vỡ vẫn không tránh khỏi gia đình tan vỡ như “bình rơi tram gãy,… sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”. Nàng than khóc mà nghe đứt ruột “khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn…”. Đó là nỗi thất vọng tột cùng của Vũ Nương. Không những thế nàng càng đau lòng vì sự trong sáng bị sỉ nhục, tấm lòng thủy chung bị nghi ngờ, nhân cách cao quý của đời người phụ nữ bị xúc phạm nặng nề, nên nàng chỉ còn tìm đến cái chết được minh oan cho mình. Đó là bi kịch thứ ba của cuộc đời nàng.
Cuối cùng, tuy được Linh Phi cứu và được giải oan giữa thanh thiên bạch nhật, nhưng niềm khao khát hạnh phúc giữa trần gian của Vũ Nương vẫn không thực hiện được. Nàng trở về giữa con sông quê hương, xiêm y lộng lẫy, ngồi trên kiệu hoa nhưng không được trở về ngôi nhà nhỏ bé ấp áp bên chồng con mãi mãi. Đoàn tụ hạnh phúc chỉ là ảo ảnh, chia li tan nát vẫn là hiện thực. Lời nói vĩnh biệt: “thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa” thể hiện niềm mong mỏi hạnh phúc không thể thực hiện được vì thế gian đầy bất công này không dành những điều tốt đẹp cho nàng. Hình ảnh Vũ Nương “lúc ẩn, lúc hiện… Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất” như ánh sáng đã tàn, gieo vào lòng người đọc nỗi xót xa tột đỉnh.
Cuộc đời Vũ Nương là điển hình cho số phận đau thương của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến suy tàn. Qua đó, em cảm nhận được nỗi đau thương của thân phận sống lệ thuộc của họ. Những người phụ nữ ấy không bao giờ được quyết định cuộc đời mình. Ở nhà phải phục tùng cha, đi lấy chồng phải phục tùng chồng, chồng chết phải phục tùng con trai trưởng của mình, dù cha, chồng, con trai có quyết định vô lí đến đâu. Họ thường bị ép gả vào những cuộc hôn nhân không bình đẳng, không tình yêu với người chồng gia trưởng, độc đoán. Dù bị chồng hành hạ tàn nhẫn cũng phải cắn răng mà chịu, nếu phản ứng lại sẽ bị coi là lăng loan, bị chồng rẫy bỏ, gia đình chồng mắng nhiếc, bị người đời phỉ nhổ, sỉ nhục đến chết. Vì vậy, họ chỉ có thể chọn một trong hai con đường: đi tu thoát tục hoặc chết một cách thảm khốc. Chế độ gia trưởng của thời phong kiến đã cho người đàn ông cái quyền độc tôn trong gia đình, hại bao cuộc đời người phụ nữ.
Nguyễn Dữ viết Chuyện người con gái Nam Xương phản ánh số phận oan nghiệt của người phụ nữ là góp một bản án về cái chết oan khốc nhằm lên án chế độ phong kiến; đồng thời khơi dậy ở chúng ta niềm cảm thương trước một bi kịch về thân phận người phụ nữ đương thời. Em càng cảm nhận rõ về số phận đau thương vì luôn bị phụ thuộc của họ, vừa cảm phục họ vì như Hồ Xuân Hương đã viết “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn/ Mà em vẫn giữ tấm lòng son” (trích Bánh trôi nước) thì càng căm ghét cái xã hội phong kiến bất công.
Trong văn bản "Chuyện người con gái Nam Xương", tác giả Nguyễn Dữ đã khắc họa thành công nhân vật Vũ Nương. Nàng là một người phụ nữ thùy mị , nết na lại thêm tư dung tốt đẹp. Tuy lấy được một người chồng là Trương Sinh ít học, có tính hay đa nghi nhưng Vũ Nương vẫn luôn gìn giữ gia đình hòa thuận, không để vợ chồng thất hòa. Lúc Trương Sinh đi lính, nàng rằng: "Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gầm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên". Vũ Nương hết mực lo cho chồng, chẳng mong vinh hoa phú quý, chỉ mong được rằng Trương Sinh trở về trong yên bình là nàng đã mãn nguyện rồi. Đối với xã hội thời phong kiến, có lẽ tình cảm mẹ chồng - nàng dâu thường "khác máu tanh lòng", thế nhưng đối với Vũ Nương và mẹ chồng thì lại khác. Sau khi chồng đi lính, nàng luôn chăm sóc, quan tâm mẹ chồng đang ốm đau, hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật, dùng những lời ngọt ngào khuyên lơn nhưng người mẹ chồng cuối cùng cũng vẫn ra đi vì quá mong mỏi người con trai đi lính chưa trở về. Vũ Nương vô cùng thương xót, lo liệu chu tất việc ma chay tế lễ như đối với cha mẹ đẻ mình. Từ đó, tác giả đã cho người đọc thấy được Vũ Nương là một người phụ nữ có nhiều phẩm chất tốt đẹp. Nàng không những xinh đẹp, dịu dàng, nết na mà còn là người vợ thủy chung son sắt, là người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng. Vũ Nương chính là hiện thân cho vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến - những người phụ nữ phải chịu số phận oan nghiệt, đau thương nhưng vẫn luôn khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ.