Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
a. từ láy "long lanh" đã góp phần đặc tả độ trong, bồng bềnh của làn nước mùa thu. Chỉ với từ láy được được đảo ngữ này thôi đã nhấn mạnh được làn nước mùa thu, trong tới mức có thể nhìn tới tận đáy.
b. Từ láy "lơ phơi", "hắt hiu" cho thấy sự mềm mại, uyển chuyển, như một nét vẽ mượt mà của Nguyễn Khuyến để miêu tả bức tranh cảnh vật mùa thu. Cần trúc vốn gợi sự xuất hiện của người câu cá, nhưng cần trúc lại rất hài hòa, nương theo, gắn mình với thiên nhiên cảnh vật.
c. Từ láy "chờn vờn" cho thấy hình ảnh bếp lửa tuy không rực rỡ, mạnh mẽ nhưng luôn âm ỉ cháy, bếp lửa không tắt cũng giống như tình cảm của bà dành cho cháu trong những năm tháng chiến tranh, dù còn nhiều gian khó nhưng bà luôn dành cho cháu những điều tốt đẹp nhất.
Từ láy "ấp iu" bộc lộ trực tiếp tình cảm của bà dành cho cháu. Từ láy nói riêng và câu thơ nói chung mở ra hình ảnh và đôi bàn tay tảo tần của bà vẫn ngày ngày lửa, nhóm lên tình yêu và niềm tin trong cháu.
a) Việc kết hợp từ láy "long lanh" trong câu thơ thứ nhất gúp người đọc hình dung cảnh đất trời lúc sang thu: bầu trời cao rông, làn nước trong xanh, mây trắng lửng lơ.
b) -từ láy lơ phơ .......> chỉ sự thưa thớt, mỏng manh, đưa đi đưa lại của cần trúc.
- diễn tả vẻ đẹp của mùa thu tại một làng quê thanh bình, yên tĩnh trong một không gian rộng lớn với bầu trời thu trong xanh, cao vút hiện lên đó là hình ảnh của cần trúc được gió hắt hiu làm nó đưa đi đưa lại trông thật đẹp mắt.
a) Từ láy “long lanh” mở đầu 2 câu thơ đã hé mở một không gian lung linh, huyền ảo của bóng nước…Bức tranh mùa thu ở đây có một vẻ đẹp lồng kết, hoà quyện của ánh sáng, hình ảnh, hoà cùng sắc màu soi chiếu lẫn nhau cho thấy không chỉ là sự trong xanh của nước mà cả chiều cao, độ rộng mênh mông của trời.
b)
+) Lơ khơ: Ở trạng thái nửa tỉnh nửa mê, không có gì rõ ràng, nửa như biết, nửa như không. Chưa nắm được vấn đề.
+) Hắt hiu: Ở trạng thái yếu ớt, mong manh, gây cảm giác buồn vắng, cô đơn, cảm giác của cái sắp lụi tàn\
c)
+ Từ láy“chờn vờn” rất thực như gợi nhớ, gợi thương đến dáng hình bập bùng, chập chờn của ngọn lửa trong kí
+ Từ láy “ấp iu” gợi bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người nhóm lửa, lại rất chính xác với công việc nhóm bếp cụ thể.
a) long lanh
b) lơ phơ , hắt hiu
c) chờn vờn
Biết mấy nắng mưa - Thanhf ngữ
Những từ láy nao nao, nho nhỏ, sè sè, rầu rầu vừa tả cảnh, vừa tả tâm trạng
- Gợi hình ảnh nơi hoang vắng, trơ trọi, buồn tẻ của ngôi mộ vô chủ và tâm trạng nao nao buồn bã của chị Thúy Kiều.
- Thời điểm cuối ngày hội đạp thanh đồng thời báo một sự kiện sắp xảy ra.
- Những từ láy: nao nao, nho nhỏ, sè sè, rầu rầu .
- Vừa tả cảnh, vừa tả tâm trạng: gợi vẻ hoang vắng, trơ trọi, buồn tẻ của ngôi mộ vô chủ và tâm trạng nao nao buồn của ba chị em Thúy Kiều vào thời điểm cuối ngày hội đạp thanh đồng thời báo hiệu một sự kiện sắp xảy ra.
- “Truyện Kiều” là tiếng nói xót thương, đồng cảm sâu sắc với mọi nỗi đau khổ của con người, đặc biệt là người phụ nữ.
+ Nguyễn Du đã giành cho Thúy Kiều tất cả lòng cảm thương sâu sắc:
“Người sao hiểu nghĩa đủ đường
Kiếp sao rặt những đoạn trương thế thôi”
+ Từ đó, “Truyện Kiều”trở thành tiếng khóc đứt ruột cho phận bạc của người phụ nữ trong xã hội xưa.
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
- “Truyện Kiều” là tiếng nói khám phá, khẳng định, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp, cao quý của con người.
+ Thúy Kiều có vẻ đẹp toàn diện: nhan sắc, trí tuệ, tài hoa, đức hạnh vẹn toàn (hiếu thảo, vị tha, nhân hậu, thủy chung)
+ Kim Trọng hiện thân: chung thủy, cao thượng.
+ Từ Hải: hào hiệp, nghĩa khí của một đấng anh hùng.
- “Truyện Kiều” là tiếng nói đồng tình với những khát vọng chính đáng, táo bạo của con người.
+ Khát vọng tự do trong tình yêu và hôn nhân (Nguyễn Du đã miêu tả mối tình Kim – Kiều vượt khỏi lễ giáo phong kiến mà vẫn thủy chung, trong sáng, bền vững)
+ Khát vọng tự do, công lí. (qua nhân vật Từ Hải)
- “Truyện Kiều” là tiếng nói tố cáo, lên án một xã hội đen tối, bất công, coi trọng đồng tiền, một xã hội mà các thế lực đen tối như quan lại tham lam, tàn ác, lưu manh, côn đồ lại công khai lộng hành, tàn hại người lương thiện.
=> Bộc lộ tư tưởng nhân đạo sâu sắc và giàu tính chiến đấu.
Tài hoa của Nguyễn Du: Nguyễn Du viết "Đoạn trường tân thanh" dựa trên tiểu thuyết "Kim Vân Kiều truyện" nhưng sự sáng tạo của đại thi hào đã làm nên giá trị tác phẩm. Cái tâm và cái tài của người nghệ sĩ làm nên sức sống tác phẩm.
"Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Câu thơ mở ra một bức tranh tuyệt đẹp về mùa xuân với hình ảnh cỏ non xanh mướt tới tận chân trời và hoa lê đang bắt đầu nở khi xuân sang. Bức tranh có sự hài hòa đến tuyệt diệu. Màu trắng tinh khôi của hoa lê hòa cùng với màu xanh non mỡ màng của cỏ. Không gian rộng lớn bạt ngàn ngút ngàn với những bãi cỏ “rợn chân trời” kết hợp với không gian thu nhỏ trên một cành hoa xuân. Tất cả gợi lên một sức sống tràn đầy, một bầu khí quyển trong trẻo, nên thơ, dịu nhẹ của tiết thanh minh. Xuân về khoác áo xanh cho cỏ, mặc áo trắng cho hoa. Cỏ và hoa bừng dậy sau giấc ngủ đông dài lạnh lẽo để rồi cỏ non nối tiếp chân trời xanh, và hoa lê bừng sắc trắng trên cành. Còn gì đẹp hơn thế, còn gì trong trẻo hơn thế! Câu thơ của Nguyễn Du làm ta chợt nhớ tới câu thơ của thi nhân Ức Trai ngay trước :
Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời
(Độ đầu xuân thảo lục như yên
Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên)
(Bến đò xuân đầu trại – Nguyễn Trãi)
Cùng đặc tả màu xanh của cỏ nhưng mỗi thi nhân lại có cảm nhận rất khác nhau. Nếu đến với thơ Nguyễn Trãi, cỏ dưới làn mưa xuân giăng nhè nhẹ “xanh như khói” thì trong thơ của Nguyễn Du màu xanh của cỏ vẫn vẹn nguyên có cảm giác như cỏ nối liền chân trời tạo làm không gian được mở rộng tới vô cùng. Đó phải chăng chính là sức hấp dẫn của thơ ca, cùng viết một hình ảnh nhưng ở mỗi một bài thơ, qua những lăng kính nhìn khác nhau sẽ đem đến những cách cảm nhận riêng biệt, không trộn lẫn.
Câu thơ của Nguyễn Du được lấy tứ từ câu thơ cổ Trung Hoa:
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa
(Cỏ thơm liền với trời xanh
Trên cành lê có mấy bông hoa)
Câu thơ mở ra một bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp có màu sắc, có đường nét đặc biệt lại có cả hương thơm. Đó là hương thơm của cỏ non “phương thảo”. Đó là màu xanh mướt của cỏ nối liền với trời xanh “liên thiên bích”. Đó còn là đường nét của cành lê điểm nhẹ vài bông hoa mới nở “sổ điểm hoa”. Câu thơ của Nguyễn Du rất gần với tứ của câu thơ này. Nhưng chúng có nét giống nhau chứ không hề đồng nhất. Nguyễn Du đã có những sáng tạo của riêng mình để đem lại sức hấp dẫn cho câu thơ của Truyện Kiều. Nếu như câu thơ cổ Trung Hoa chỉ miêu tả một cách đơn thuần: cành lê có một vài bông hoa thì câu thơ trong Truyện Kiều lại nhấn mạnh màu sắc của hoa “trắng điểm”. Ở đây tính từ “trắng” đã được động từ hóa, câu thơ không chỉ nói lên màu sắc của hoa mà còn cho thấy được cả một sức sống mãnh liệt đang bừng dậy. Câu thơ không hề tĩnh tại mà có tính chất động. Chúng ta không chỉ cảm nhận được một màu trắng tinh khôi của hoa lê mà còn dường như thấy được cả những mạch sống đang cựa mình trỗi dậy theo bước chuyển mình của mùa xuân. Hai câu thơ cổ Trung Quốc chỉ gợi mà không tả, còn hai câu thơ của Nguyễn Du tả rõ màu sắc khiến câu thơ sinh động, có hồn. Từ câu thơ ngũ ngôn mang phong vị Đường thi, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du thành câu thơ lục bát uyển chuyển mang đậm hồn thơ dân tộc. Chỉ đôi câu thơ nhưng cũng đủ cho ta thấy sự sáng tạo, sức bút kì diệu của thiên tài Nguyễn Du. Đó phải chăng chính là một trong những yếu tố làm nên sức sống bất diệt của Truyện Kiều,Truyện Kiều của Nguyễn Du nằm ngoài sự “băng hoại” của thời gian.
Tám câu thơ cuối bài "Kiều ở lầu Ngưng bích" trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du đã dựng lên bốn bức tranh phong cảnh qua con mắt Thúy Kiều,qua đó thể hiện tâm trạng buồn lo và số phận bất hạnh cuă nàng. Mỗi bức trang đều được bắt đầu bằng hai tiếng "buồn trông" thể hiện nỗi buồn miên man, sâu sắc của Kiều, dưòng như ở đây không có con người mà chỉ có cái nhin của nhân vật hay đúng hơn, chỉ có tâm trạng. Hình ảnh"cánh buồm xa xa" trơ trọi nơi "cửa bể chiều hôm" thể hiện nỗi nhớ mong quê hương da diết và cảnh đời lưu lạc của Kiều. Cánh "hoa trôi man mác" giữa "ngọn nước mới sa" phải chăng chính là tâm trạng bi thương, số phận lênh đênh, vô định của nàng? Và Kiều ngày càng chìm sâu vào những buồn lo khiến cảnh vật xung quanh nàng thêm thấm đẫm nỗi sầu đau tê tái. "Nội cỏ rầu rầu "giữa" chân mây mặt đất một màu xanh xanh" kia hay chính là tâm trạng đau đớn của nàng trước tương lai mờ mịt, tăm tối? Ngoài biển cả, âm thanh dữ dội "ầm ầm tiếng sóng" như nói lên tâm trạng hãi hùng và cuộc sống đầy đe dọa đang bủa vây cuộc đời nàng,thiên nhiên dữ dội cũng là lời dự báo trước một thảm họa sắp xảy ra với Kiều, sẵn sàng vùi dập cuộc đời nàng!Tám câu thơ cuối bài là một bức trang miêu tả thiên nhiên nhưng ta vẫn thấy bên trong thấm đẫm tâm trạng nhân vật, bút pháp tả cảnh ngụ tình dặc sắc của Nguyễn Du là ở đó. Thơ của ông luôn lấy những cảnh vật hết sức chân thực, hết sức đời thường và những âm thanh vô cùng sinh động cuă thiên nhiên làm nền cho hoạt động nội tâm của nhân vật. Đối với tám câu thơ cuối thì những hình ảnh, âm thanh đó là:cửa biển, cánh buồm, hoa trôi, nội cỏ, tiếng sóng ầm ầm,...tất cả đều được miêu tả bằng bút pháp khắc họa khái quát, bằng hình tượng và ngôn ngữ ước lệ, công thức. Tám câu thơ cuối bài "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là đoạn thơ hay, đặc sắc trong Truyện Kiều, những câu thơ vừa có nhạc, có họa ấy đã tạo nên giai điệu sâu lắng lòng người, và trong nó không chỉ có cảnh thiên nhiên, tâm trạng của nhân vậtmà còn có cả tấm lòng nhà thơ, Nguyễn Du đã dành sự đồng cảm, buồn thương, chua xót cho kiếp người "hồng nhan bạc mệnh".
Nói đến truyện Kiều, người ta thường nghĩ đến thiên tài nghệ thuật của Nguyễn Du ở nhiều phương diện trong đó có nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên. Thiên nhiên đã trở thành một nhân vật song hành cùng Thuý Kiều và những gì liên quan đến cuộc đời chìm nổi đoạn trường của nàng. Thiên nhiên không biết nói nhưng chứa đựng bao nỗi niềm mà không ngôn từ nào có thể diễn tả thành lời. Nhà thơ đã không chỉ phác họa những bức tranh thiên nhiên diễm lệ mà ở trong đó còn đọng đầy những tâm tư nỗi niềm thiết tha của lòng người. Trong số đó người đọc không thể nào quên bức tranh trong hai câu thơ:
Long lanh đáy nước in trờiThành xây khói biếc, non phơi bóng vàng.
Có thể nói đây là một trong những câu thơ hay nhất viết về mùa thu của thi ca Việt Nam nói riêng và thi ca nói chung. Độc giả có thể thấy ở đây ngôn từ trong sáng, uyển chuyển đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tuơi đẹp. Sử dụng từ ngữ đậm chất dân tộc, tác giả không chỉ vẽ bức tranh của thiên nhiên Trung Quốc mà còn đậm sắc màu quê hương xứ sở. Từ láy “long lanh” mở đầu 2 câu thơ đã hé mở một không gian lung linh, huyền ảo của bóng nước…Bức tranh mùa thu ở đây có một vẻ đẹp lồng kết, hoà quyện của ánh sáng, hình ảnh, hoà cùng sắc màu soi chiếu lẫn nhau cho thấy không chỉ là sự trong xanh của nước mà cả chiều cao, độ rộng mênh mông của trời. Hình ảnh thơ đã nới rộng không gian, gợi nên trạng thái sóng sánh đẹp đẽ của bức tranh thiên nhiên. Trên phông nền đó xuất hiện cặp hình ảnh “ Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng ” hiện ra vừa có nét tả thực vừa đậm những nét mơ hồ. Đó là cảnh vật với những thành quách, núi non, mây vàng trong buổi chiều se lạnh, hơi nước toả lên như những sợi khói lam trong hoàng hôn hắt bóng. Những từ miêu tả màu sắc: biếc, vàng và cả màu xanh long lanh đáy nước đã khiến không gian vừa diệu vợi, vừa lung linh huyền diệu đến lạ lùng. Trong sắc khói lam chiều đó những thành quách như vừa kiên cố lại vừa mềm mại, thơ mộng cùng với nó là nét duyên dáng của núi non đang ngả bóng. Hình ảnh thơ không chỉ nói đến màu sắc, cảnh vật mà còn có sự phản xạ, hoà quyện của ánh sáng. Từ đó cho thấy một cảm xúc trong trẻo, tươi sáng của nhân vật trữ tình. Có nước non, hơi nước mỏng manh của bóng chiều nhưng không có cái cảm giác lạnh lẽo, cô đơn, bâng khuâng như trong những ngày vườn Bùi chốn cũ khi ẩn dật ở quê nhà của thi sĩ Nguyễn Khuyến được thể hiện trong câu thơ “ Sóng biếc trông như tầng khói phủ” mà ngược lại đó là sự ngỡ ngàng, say mê, náo nức lạ kì của nhân vật trữ tình hay đó chính là sự hoá thân của nhân vật Thúc Sinh. Cảnh được nhìn dưới cảm xúc của chàng trên đường từ nhà Hoạn Thư quay trở về gặp lại Thuý Kiều sau bao ngày xa cách. Chính sự xôn xao, đón đợi trong tâm hồn của chàng đã khiến cho cảnh vốn đã đẹp giờ đây lại càng lung linh hơn bội phần ...
Có thể nói, hai câu thơ không chỉ là tâm hồn tinh tế cña NgDu khi c/n vẻ đẹp của ngoại cảnh và quy luật tâm lý của lòng người mà cthơ còn thể hiện tài năng NT và tấm lòng nhà thơ