Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427): Trong cuộc khởi nghĩa chống lại xâm lược của quân Minh, vua Lê Lợi đã thành lập khối đại đoàn kết dân tộc bao gồm các tầng lớp nhân dân từ nông dân, lính, quan lại cho đến các tôn giáo và phái đoàn. Sự đoàn kết này đã giúp đẩy lùi quân Minh và giành lại độc lập cho nước Việt Nam.
- Cuộc kháng chiến chống Mỹ (1955-1975): Trong giai đoạn này, khối Đại Đoàn Kết dân tộc đã chơi một vai trò then chốt trong việc đoàn kết toàn bộ nhân dân Việt Nam để chống lại cuộc xâm lược của Mỹ. Tinh thần đoàn kết và sự hy sinh tập thể đã hỗ trợ trong việc đánh bại quân Mỹ và đạt được thắng lợi lịch sử tại Điện Biên Phủ (1954) và cuối cùng đưa tới thống nhất đất nước.
- Cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954): Trong giai đoạn này, khối Đại Đoàn Kết dân tộc đã kết hợp các lực lượng dân quân từ các tầng lớp xã hội khác nhau để kháng chiến chống lại quân đội Pháp. Sự đoàn kết của các dân tộc trong Việt Nam, bao gồm người Kinh, người Tày, người Mường và người Khơ Me, đã góp phần quan trọng vào việc đánh bại quân Pháp tại Điện Biên Phủ (1954).
Trong công cuộc xây dựng đất nước:
Dẫn chứng: Trong lịch sử Việt Nam, việc đoàn kết dân tộc đã đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển đất nước. Ví dụ, trong thời kỳ bảo vệ quốc gia trước sự xâm lược của các quốc gia hàng xóm, như Trung Quốc và Mông Cổ, người Việt đã thể hiện sự đoàn kết mạnh mẽ để chống lại kẻ thù. Đây là dẫn chứng cụ thể cho vai trò và tầm quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc xây dựng đất nước.
Vai trò, tầm quan trọng: Khối đại đoàn kết dân tộc là yếu tố quyết định trong việc xây dựng đất nước. Sự đoàn kết giúp tạo ra sức mạnh và tinh thần chung, hỗ trợ trong việc vượt qua khó khăn và thách thức. Nó cũng gắn kết và thống nhất các dân tộc, tôn vinh đa dạng văn hóa và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Trong công cuộc bảo vệ đất nước:
Dẫn chứng: Một ví dụ điển hình về vai trò và tầm quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc bảo vệ đất nước là cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ - Trung Kỳ - Bắc Kỳ (1940-1945) chống lại sự xâm lược của Nhật Bản. Trong cuộc kháng chiến này, người Việt đã đoàn kết mạnh mẽ để tổ chức và tiến hành các hoạt động kháng chiến, góp phần vào việc giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ.
Vai trò, tầm quan trọng: Khối đại đoàn kết dân tộc là nền tảng quan trọng để bảo vệ đất nước. Sự đoàn kết mang lại sức mạnh thống nhất và sự tin tưởng vào mục tiêu chung, làm tăng khả năng chống lại kẻ thù và bảo vệ lãnh thổ. Nó cũng tạo ra sự đồng lòng và sự hy sinh tập thể để bảo vệ lợi ích chung của quốc gia.
Tham khảo:
Nội dung so sánh | Các quốc gia cổ đại Phương Đông | Các quốc gia cổ đại Phương Tây |
Điều kiện tự nhiên | – Do hình thành trên lưu vực các con sông lớn nên các quốc gia này có điều kiện đồng bằng phù sa màu mỡ, tơi xốp, thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp – Nguồn nước vô cùng dồi dào, tạo điều kiện quan trọng trong việc cung cấp nước cho hoạt động sản xuất và nước dùng trong sinh hoạt, đồng thời cung cấp nước cho nguồn thủy sản, và đây cũng là đường giao thông quan trọng của đất nước | – Có đường bờ biển kéo dài, nhiều vũng vịnh sâu và kín gió, thuận lợi cho việc phát triển giao thông đường biển. – Đất đai thích hợp để trồng các loại cây như nho, ôliu |
Kinh tế | Nền kinh tế nông nghiệp được chú trọng và rất phát triển , đồng thời gắn liền với công tác thủy lợi | – Nền kinh tế công thương, mậu dịch hàng hải phát triển, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. – Ngành nông nghiệp chỉ được xác định là thứ yếu |
Chế độ chính trị | Chế độ chuyên chế cổ đại hay nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền | Bộ máy nhà nước 100% là quý tộc, đất nước mang tính dân chủ chủ nô hay cộng hòa quý tộc |
Xã hội | Xã hội tồn tại hai giai cấp chính là:
– Giai cấp thống trị, gồm vua, quý tộc, quan lại – Giai cấp bị trị, là nông dân, nô lệ, thợ thủ công… | Có hai giai cấp cơ bản và luôn tồn tại mối quan hệ đối kháng nhau là: Chủ nô và nô lệ |
Thành tựu văn hóa | – Sáng tạo ra nông lịch;
– Chữ viết tượng hình, tượng ý; – Phát minh và nghiên cứu ra toán học (số pi, diện tích hình tròn…) – Kiến trúc nổi trội: Kim tự tháp (Ai Cập), thành Babilon (Lưỡng Hà)… | – Sáng tạo ra lịch;
– Hệ chữ cái Latinh; – Số La Mã; – Toán học với các định lý Pitago, Ta lét… – Nghệ thuật: Tượng nữ thần Atena, đấu trường Roma… |
tham khảo
+ Văn hóa phương Đông đề cao tính tự do, dân chủ, không cần phải quá đặt nặng tiêu chí kính trên nhường dưới; ngôi xưng tương đồng thái độ lịch sự. Đôi với văn hóa phương Đông đặt nặng tinh lễ nghi, tín ngưỡng và đạo lý. Còn văn hóa phương Tây tôn trọng luật lệ, biết tuân thủ quy định, xếp hàng khi mua sắm, văn hóa phương Đông có đôi chút bất quy tắc.
– Văn hóa phương Tây đơn giản, khá nhàm chán và không tốt cho sức khỏe. Còn văn hóa ẩm thực của phương Đông đa dạng, nhiều nguyên liệu, hương vị và cách chế biến.
– Văn hóa phương Đông tôn trọng phụ nữ có nhân phẩm, biết cách cư xử, da trắng, môi đỏ, tóc đen và nét đẹp dịu dàng, tinh tế còn văn hóa phương Tây đề cao vẻ đẹp khỏe khoán, rám nắng, khêu gợi.
– Văn hóa phương Đông thường trễ giờ còn văn hóa phương Tây tôn trọng giờ giấc.
– Đối với đời sống:
+ Mọi thứ ở phương Tây đều được đơn giản hóa, họ ăn uống đơn giản để tiết kiệm thời gian, các mối quan hệ rành mạch, rõ ràng, thể hiện rõ cảm xúc của bản thân và nói lên điều mình muốn. Còn ở văn hóa phương Đông thường né tránh bộc lộ cảm xúc, không thể hiện quá nhiều quan điểm cá nhân thường có mối quan hệ phức tạp.
+ Văn hóa phương Đông hướng đến việc dựa vào nhau để tạo nên thể đoàn kết, văn hóa phương Tây dạy người ta cách sống độc lập, phân tán.
+ Thể hiện bản thân đối với người phương Tây luôn tự tin, mạnh mẽ còn đối với người phương Đông thường né tránh, điều này thể hiện bản thân một cách khiêm nhường.
–
tk:
1)Tác động của văn hóa tới mục tiêu và chính sách phát triển kinh tế
Đây có thể là sự tác động của văn hóa tới sự phát triển kinh tế ở tầng vỹ mô (cao nhất), cũng như ở các chủ thể sản xuất kinh doanh. Ở đây các giá trị con người, giá trị xã hội thể hiện ở quyền, nghĩa vụ, lợi ích và cuộc sống của con người được xem xét và đặt vào vị trí như thế nào trong trọng tâm của các mục tiêu và chính sách phát triển kinh tế, vào việc hình thành các mục tiêu đó trong thể chế - cơ chế phát triển kinh tế. Điều này được thể hiện rất rõ trong tư duy và chính sách phát triển kinh tế hướng tới như thế nào trong việc thực hiện các giá trị con người và giá trị xã hội. Trên thực tế thường có ba xu hướng sau : Một là, khi nhận thức rõ tầm quan trọng của việc hướng tới thực hiện các gia trị con người và các giá trị xã hội, coi đó vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển (đương nhiên là cần phải phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của từng giai đoạn cụ thể), thì trong mục tiêu, cơ chế và chính sách phát triển kinh tế sẽ có sự kết hợp một cách hữu cơ với phát triển các vấn đề xã hội, mà trọng tâm là các giá trị con người, giá trị văn hóa. Hai là, xu hướng coi nhẹ các các mục tiêu giá trị con người, giá trị văn hóa, đặt các mục tiêu kinh tế (phát triển công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…) tách biệt với các mục tiêu phát triển xã hội, đặt cao các mục tiêu phát triển kinh tế như là những mục đích tối thượng – tự thân. Xu hướng này kéo dài sẽ dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa các vấn đề kinh tế và các vấn đề xã hội, làm giảm động lực nhân tố con người trong phát triển. Về điều này có thể liên hệ qua một ví dụ nhỏ : Việc quy hoạch và phát triển tràn lan các nhà máy thủy điện nhỏ ở nhiều nơi (vì mục tiêu tăng sản lượng điện), nhưng không tính tới và đảm bảo đầy đủ về lợi ích của người dân trong vùng liên quan, về môi trường sinh thái, về rừng …, gây ra những hệ quả nghiêm trọng, đã phải rà soát lại và bỏ ra khỏi quy hoạch hàng trăm công trình. Điều này còn thấy thể hiện ở những chính sách đầu tư ở tầm cao hơn. Ba là, xu hướng coi trọng việc đặt và thực hiện các mục tiêu xã hội cao hơn điều kiện và trình độ thực tế của nền kinh tế, thể hiện ở chế độ bao cấp cao và mang tính bình quân cho việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Điều này, nhìn bề ngoài được thể hiện như là một tính ưu việt của xã hội; tuy nhiên nếu kéo dài có thể sẽ dẫn đến hai hệ quả : nguồn lực kinh tế của đất nước không đủ sức chịu đựng cho sự bao cấp như vậy, đầu tư cho phát triển sẽ giảm dần. Đồng thời, trong xã hội có thể sẽ hình thành “giá trị con người – giá trị xã hội” quen hưởng thụ được bao cấp cao hơn năng lực và cống hiến của mình, chính điều này cũng sẽ làm yếu đi động lực con người trong sự phát triển. Có thể nêu lên đây hai ví dụ cho xu hướng này: Ở Việt nam, chính sách xóa đói giảm nghèo rất ưu việt, song một số nơi thực hiện sự bao cấp bình quân cao và không có điều kiện kèm theo, vì vậy dẫn đến hiện tượng nhiều hộ, nhiều địa phương “không muốn thoát nghèo”. Còn ở Châu Âu, cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về nợ công và thâm hụt ngân sách ở nhiều nước, có nhiều nguyên nhân, song trong đó có một nguyên nhân là các nước đó đã thực hiện các chính sách xã hội cao hơn so với nguồn lực thực tế, điều kiện và khả năng phát triển kinh tế của mình.
Như vậy, việc nhận thức cho đúng các mục tiêu về giá trị văn hóa, giá trị xã hội trong mỗi giai đoạn và việc đặt các mục tiêu đó gắn hữu cơ – biện chứng với mục tiêu, chiến lược, quy hoạch, cơ chế và chính sách phát triển kinh tế có một tầm quan trọng đặc biệt.
2)Tác động của văn hóa trong sản xuất kinh doanh:
Như trên đã trình bày, khi văn hóa phát triển xác lập được thành những thể chế, thiết chế mới, những giá trị con người, giá trị văn hóa, giá trị xã hội mới sẽ tác động trở lại đối với sự phát triển kinh tế và các lĩnh vực khác. Sự tác động này có thể mang tính thuận chiều hoặc ngược chiều : Khi những giá trị con người – giá trị văn hóa phù hợp với quy luật và cơ chế phát triển kinh tế khách quan sẽ có sự tác động cùng chiều và tạo nên động lực mạnh cho sự phát triển cả về kinh tế và xã hội. Ngược lại, khi các giá trị con người - giá trị văn hóa không phù hợp với quy luật và cơ chế phát triển kinh tế sẽ có tác động ngược chiều, làm suy yếu động lực phát triển cả về kinh tế và xã hội, thậm chí có thể còn dẫn tới những rối loạn xã hội. Có thể thấy điều này ở trong cơ chế HTX – Tập thể hóa trước đây, hình thành các giá trị con người và giá trị văn hóa của cơ chế đó, về bản chất là không phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, đã đi đến mất động lực phát triển, làm cho nền nông nghiệp rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng trong những năm 1970 – 1980, phải đi đến giải thể. Khi chuyển sang xác định “Hộ nông dân là đợn vị kinh tế tự chủ” với các giá trị mới về vị thế của kinh tế hộ nông dân, về quyền của người nông dân như quyền làm chủ ruộng đất, tư liệu sản xuất và sản xuất kinh doanh…, và trên cơ sở phát triển kinh tế hộ nông dân để hình thành các hợp tác xã kiểu mới, phù hợp với bản chất của nền kinh tế nông nghiệp, đã tạo nên động lực mạnh mẽ - chủ yếu cho phát triển nông nghiệp, tạo nên những “kỳ tích” của nền nông nghiệp trong những thập kỷ qua (nhưng giờ đây lại đang đặt ra những vấn đề mới trong phát triển nông nghiệp) .
Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, vai trò của văn hóa kinh doanh, văn hóa quản trị doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng đối với phát triển kinh tế. Ở đây sẽ diễn ra sự tương tác giữa các giá trị văn hóa và các giá trị kinh tế phước tạp và mang tính hai mặt. Một mặt, các mô hình quản trị kinh doanh mới, các hình thức tổ chức và phương pháp quản trị doanh nghiệp tiến tiến cùng với nguồn nhân lực chất lượng cao hơn từ các nước có nền công nghiệp tiên tiến hơn được đưa vào Việt nam với các các giá trị văn hóa kinh doanh mới (thông qua các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp liên doanh liên kết, qua các hợp đồng hợp tác kinh doanh, qua đào tạo nhân lực…). Đây là những giá trị văn hóa kinh doanh tiên tiến (như coi trọng xây dựng chiến lược phát triển dài hạn, xây dựng thương hiệu, chất lượng, hiệu quả, đổi mới công nghệ, trọng dụng nhân tài, văn hóa hội nhập quốc tế…) có tác dụng quan trọng đối với việc đổi mới và xây dựng nền quản trị kinh doanh của Việt Nam từng bước tiếp cận với chuẩn mực quốc tế. Nhưng đồng thời, khi khung khổ pháp lý của nước ta chưa đồng bộ, kém hiệu lực – hiệu quả, thì cũng bị các đối tác nước ngoài “đưa vào” những giá trị văn hóa kinh doanh tiêu cực như hiện tượng “chuyển giá” rất nghiêm trọng ở những doanh nghiệp FDI mà báo chí đã nêu, hay cách bắt lao động làm quá sức lại trả lương rất thấp ở không ít doanh nghiệp…Đồng thời, trong quá trình này không ít các giá trị văn hóa kinh doanh mang tính “chộp giật”, lừa đảo, cò con, thiếu trách nhiệm giải trình, trách nhiệm xã hội…của một nền sản xuất nhỏ còn đang tồn đọng đã có tác động tiêu cực lớn đến kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh, đến xây dựng nền văn hóa kinh doanh mới đáp ứng với yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế..
Phát triển văn hóa và con người trong bối cảnh từ một đất nước với nền sản xuất nông nghiệp tiểu nông, thủ công là chủ yếu, còn mang nặng dấu ấn của tồn đọng của xã hội phong kiến thực dân, từ một xã hội nhiều năm có chiến tranh sang xã hội hòa bình; chuyển đổi thể chế phát triển kinh tế - xã hội từ tập trung quan liêu bao cấp sang phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; từ khép kín, đóng cửa sang hội nhập quốc tế toàn diện; từ mô hình phát triển chủ yếu theo chiều rộng sang mô hình phát triển theo chiều sâu… đang đứng trước rất nhiều cơ hội và thách thức. Trong đó nổi lên một trong những vấn đề trung tâm là hình thành và phát triển hệ giá trị xã hội, hệ giá trị con người như thế nào để tạo động lực cho sự phát triển kinh tế và xã hội. Trên thực tế đang tồn tại những nhận thức, quan niệm và thực tiễn rất khác nhau (được thể hiện ngay trong các cách đánh giá “tốt, xấu”, “tích cực, tiêu cực”, “chính đáng, không chính đáng”…). Có thể nêu lên một số thực trạng để thấy rõ hơn bản chất của vấn đề : Thứ nhất, đó là tệ nạn tham nhũng. Đảng, Nhà nước và toàn hệ thống chính trị đã nhận rõ mối nguy hại của tệ nạn này (coi là quốc nạn, giặc nội xâm), đã tổ chức những “binh chủng” hùng mạnh, đã ban hành nhiều cơ chế chính sách và giải pháp, nhưng kết quả và hiệu quả vẫn rất hạn chế, tệ nạn này vẫn đang rất nghiêm trọng và tạo ra những “giá trị văn hóa, giá trị con người, giá trị xã hội” tiêu cực , đang làm sói mòn lòng tin của nhân dân (mà lòng tin là một trong những giá trị cao nhất của văn hóa). Trên diễn đàn Quốc Hội kỳ họp này đã gióng lên những lời cảnh tỉnh : “nợ xấu lòng tin” và “tồn đọng trách nhiệm”; “liên minh ma quỷ đó khiến ngân khố quốc gia ngày càng bị bòn rút”; “xuất hiện tình trạng lãnh đạo các địa phương vận động các đại biểu Quốc Hội trước mỗi kỳ họp không chất vấn hay nói về tham nhũng”; “giờ đây đang có một thực trạng đáng lo ngại, đó là việc người dân đang vô cảm với công tác phòng chống tham nhũng”. Ở đây không đánh giá về công tác phòng chống tham nhũng, mà xét dưới giác độ văn hóa cho thấy rằng “giá trị xã hội” của tham nhũng đang còn tồn tại rất mạnh trong một lượng xã hội gắn với chức quyền (mà trong văn kiện của Đảng và Nhà nước nhận định là một bộ phận không nhỏ), lại được “bảo trợ” bởi những bất cập, yếu kém, sơ hở của hệ thống thiết chế chưa được hoàn thiện. “Giá trị xã hội” của tham nhũng đang chìa tay ra kết nhân duyên và thẩm thấu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, làm băng hoại những giá trị tốt đẹp của xã hội (khi nói về công tác tuyển dụng và đề bạt cán bộ, công chức, đến Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng phải thốt lên không tham nhũng lấy gì mà chạy chức, hiện nay tiêu cực, “bôi trơn”, chạy chọt ở khâu nào cũng có; hay như trong điều tra của Thanh tra Chính phủ vừa công bố có đến 70 % doanh nghiệp phải chủ động đưa hối lộ). Nhưng rất tiếc là những thiết chế đặt ra và thực thi chưa đủ mạnh để ngăn chặn và đẩy lùi các “gia trị tham nhũng”, và những giá trị tiêu cực này đang ảnh hưởng và tác động rất xấu đến kết quả và hiệu quả của nền kinh tế, làm suy yếu nghiêm trọng động lực phát triển. Trong kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII, khi trả lời về nợ công cao, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nêu trong đó có nguyên nhân sử dụng kém hiệu quả và tham nhũng. Thứ hai, đó là thực trạng chất lượng nguồn nhân lực còn thấp. Điều này phản ánh những “khiếm khuyết” về giá trị văn hóa, giá trị con người và giá trị xã hội không chỉ trong kinh tế mà còn trong nhiều lĩnh vực xã hội. Thế giới đánh giá nguồn nhân lực Việt nam trẻ, dồi dào, thông minh, nhanh nhạy, tháo vát…, nhưng trước yêu cầu của lối sống công nghiệp lại đang bộ lộ nhiều yếu kém, bất cập, như ý thức và văn hóa nghề nghiệp yếu, kỷ luật lao động chưa cao, trình độ tay nghề thấp, khả năng vận dụng sáng tạo kiến thức đã học vào thực hành bị hạn chế, kỹ năng làm việc nhóm yếu, kỹ năng mềm còn nhiều hạn chế, năng suất lao động thấp (bình quân chỉ bằng 1/4 trung bình của các nước trong khối ASEAN) …Điều này không phải chỉ là hệ quả của một nền giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập mà giờ đây đang đứng trước yêu cầu phải đổi mới căn bản , toàn diện, mà còn là hệ quả của một tâm lý xã hội coi trọng “giá trị danh vọng” không gắn với gía trị lao động xã hội đích thực; đó cũng còn là hệ quả của một tâm lý xã hội và trong hệ thống cán bộ - công chức còn không ít “tiêu chí”coi trọng văn bằng chứng chỉ hơn là năng lực lao động thực tế. Những điều này đã làm “biến dạng” đi những định hướng về giá trị con người và giá trị xã hội. Những giá trị “méo mó” về con người, về nhân lực đó đã tác động tiêu cực lâu dài đến sự phát triển kinh tế, xã hội. Những điều nêu trên chỉ muốn nói rằng để xây dựng và hiện thực hóa được hệ giá trị xã hội và hệ giá trị con người đúng đắn, phù hợp và tốt đẹp, không đơn thuần nêu lên và mong muốn có những giá trị đó về mặt lý thuyết, không chỉ là giáo dục và thuyết phục về mặt đạo lý, dù rất quan trọng; Điều quan trọng là phải xây dựng được đồng bộ hệ thống các thiết chế công khai minh bạch, phù hợp, hiệu lực và hiệu quả trong tất cả các lĩnh vực, các mặt của đời sống xã hội, nhằm điều tiết các hoạt động của mọi người, mọi tổ chức kinh tế, xã hội, và của chính Nhà nước trong khuôn khổ của pháp luật, tạo cơ sở để hình thành, nuôi dưỡng, bảo vệ và phát triển những giá trị con người, gía trị xã hội với những chuẩn mực tốt đẹp. Nhưng đây thực sự là một quá trình không đơn giản vì nó gắn với trình độ phát triển của xã hội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế .
Trên thực tế, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng, quá trình phát triển văn hóa và con người đang diễn ra sự đan xen của rất nhiều quá trình, có mâu thuẫn với nhau, có hợp lực với nhau:
- Quá trình hội nhập, “học hỏi”, thẩm thấu, giao thoa, tích hợp giữa các gía trị.
- Quá trình cạnh tranh, đấu tranh, “va đập”, “xâm lăng” (giữa cái cũ và cái mới, giữa truyền thống và hiện đại, giữa các nền văn hóa, giữa các quốc gia…).
- Quá trình nảy sinh, ra đời các giá trị mới từ chính điều kiện và nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội (như lối sống, kỹ năng sống công nghiệp thời kinh tế thị trường, công nghệ thông tin và hội nhập quốc tế…).
- Hình thành các giá trị quốc tế, nhân loại.
Các quá trình này đòi hỏi một cách tiếp cận mới, rất tổng hợp, khoa học, thực tiễn về phát triển văn hóa và con người Việt Nam trong giai đoạn mới.
3. Các mô hình kết hợp kinh tế và văn hóa trong kinh doanh, cung cấp dịch vụ
Sự kết hợp và tương tác lẫn nhau giữa văn hóa và kinh tế về thực chất là kết hợp và tương tác giữa các giá trị văn hóa và các giá trị kinh tế trong quá trình phát triển. Có rất nhiều cấp độ và mô hình kết hợp giữa các giá trị của hai lĩnh vực này, song về mặt thực tiễn có thể khái quát thành ba mô hình sau : Mô hình lấy hoạt động kinh tế và mục tiêu kinh tế làm cốt lõi; Mô hình lấy hoạt động văn hóa với mục tiêu kinh tế làm cốt lõi; Mô hình lấy hoạt động văn hóa và mục tiêu văn hóa làm cốt lõi. Cần nhận rõ bản chất và cơ chế tương tác giữa kinh tế và văn hóa trong các mô hình này.
1) Mô hình lấy hoạt động kinh tế và mục tiêu kinh tế làm cốt lõi
Trong mô hình này (ví dụ trong các tổ chức hoạt động kinh tế), các “đối tượng” của hoạt động sản xuất kinh doanh là các đối tượng kinh tế, là các quá trình kinh tế; các sản phẩm và dịch vụ làm ra với mục đích kinh doanh tìm kiếm lợi ích kinh tế (ví dụ sản xuất ô tô …). Cơ chế chi phối các hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động tìm kiếm mục tiêu kinh tế đều bị chi phối bởi các quy luật kinh tế. Yếu tố văn hóa trong mô hình này thể hiện ở văn hóa kinh doanh, văn hóa quản trị doanh nghiệp, ở các giá trị văn hóa trong sản phẩm hàng hóa và dịch vụ; ở việc thực hiện các giải pháp văn hóa để phát huy cao nhân tố con người (như năng lực sáng tạo, dân chủ, tình thần trách nhiệm…) trong sản xuất kinh doanh, để nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Dù đóng vai trò rất quan trọng nhưng các yếu tố văn hóa không thể đóng vai trò chủ đạo trong các mô hình này, các hoạt động kinh tế và mục tiêu kinh tế vẫn là động lực chủ yếu trong sự phát triển. Ngày nay, trong điều kiện khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ, nhất là công nghệ tự động hóa, công nghệ thông tin và viễn thông, làm cho quá trình quản lý sản xuất kinh doanh càng có điều kiện và cơ sở phát huy cao hơn nhân tố văn hóa trong các quá trình sản xuất kinh doanh.
2) Mô hình lấy hoạt động văn hóa với mục tiêu kinh tế làm cốt lõi
Trong mô hình này, bản chất là sự kết hợp hữu cơ giữa hoạt động văn hóa với mục tiêu kinh tế. Ở đây, đối tượng “sản xuất” là các quá trình văn hóa, sản phẩm văn hóa, dịch vụ văn hóa sẽ được đưa ra thị trường. Đương nhiên các sản phẩm và dịch vụ văn hóa này sẽ tác động vào đời sống xã hội với tư cách là những giá trị văn hóa (không giống như ở mô hình trên là các giá trị kinh tế). Nhưng quá trình sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ này bị chế định – điều tiết bởi hai loại quy luật (và hai loại cơ chế) : quy luật kinh tế và quy luật sáng tạo ra các sản phẩm và dịch vụ văn hóa, để sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ văn hóa với tính cách là những hàng hóa. Ở đây các sản phẩm và dịch vụ văn hóa đối với người sản xuất và người tiêu dùng đều là hàng hóa. Song đối với người tiêu dùng các sản phẩm và dịch vụ đó sẽ mang lại những giá trị văn hóa cho họ; còn đối với người sản xuất thì các sản phẩm và dịch vụ đó chỉ là “giá mang”, là điều kiện để họ thực hiện mục tiêu kinh tế, lợi ích kinh tế. Nhưng mục tiêu kinh tế trong mô hình này chỉ có thể thực hiện được khi các sản phẩm và dịch vụ văn hóa đó đáp ứng nhu cầu xã hội, được xã hội chấp nhận, “mua” sử dụng. Vì vậy trên thực tế diễn ra quá trình sản xuất các sản phẩm và dịch vụ văn hóa chạy theo nhu cầu và thị hiếu của xã hội (có thể là lành mạnh, tích cực, có thể là không lành mạnh). Như vậy giữa, mục tiêu kinh tế và các giá trị văn hóa rất có thể đưa lại những tác động ngược chiều nhau trong xã hội (ví dụ lĩnh vực sản xuất các trò chơi điện tử mang tính bạo lực và không lành mạnh trên mạng có thể mang lại lợi nhuận rất lớn cho nhà sản xuất, nhưng sẽ tác động rất tiêu cực đến hình thành nhân cách con người, nhất là trẻ em; ngược lại có những bộ phim được đầu tư rất tốn kém, làm rất công phu nhưng không được người xem đánh giá cao, bị lỗ lớn…). Vì vậy, đối với mô hình này rất cần phải có khung khổ pháp lý và cơ chế hoạt động phù hợp, chặt chẽ không chỉ về phương diện kinh tế, mà còn về phương diện văn hóa.
Mô hình này hiện nay đang phát triển mạnh trên thế giới và là một xu thế khách quan, dưới một tên gọi chung là “công nghiệp văn hóa”, thể hiện sự thẩm thấu ngày càng sâu của văn hóa vào kinh tế và văn hóa trực tiếp trở thành một lĩnh vực kinh tế mũi nhọn quan trọng. Công nghiệp văn hóa đã và đang phát triển trong nhiều lĩnh vực văn hóa, như: điện ảnh, truyền thông, phát thanh – truyền hình, xuất bản, công viên văn hóa, du lịch văn hóa, các dịch vụ văn hóa trên mạng…Đặc điểm cơ bản quan trọng nhất của nền công nghiệp văn hóa là sự phát triển của nó dựa chủ yếu trên nền tảng sáng tạo văn hóa (cả giá trị truyền thống và giá trị hiện đại, không phải chủ yếu trên nền tảng sản xuất vật chất), do đó không gian phát triển và tác động của nó rất rộng lớn, một mặt trở thành một ngành kinh doanh ngày càng quan trọng, mặt khác tác động trực tiếp đến hình thành các gia trị con người, giá trị xã hội (theo những chiều cạnh khác nhau), và động lực phát triển xã hội, với sức lan tỏa rộng lớn trong mỗi nước cũng như xuyên qua biên giới giữa các nước với hệ thống Internet – viễn thông toàn cầu hiện nay.
Chính quá trình phát triển kinh tề thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của KH – CN, Internet – viễn thông đã tạo cơ hội và điều kiện phát triển mạnh công nghiệp văn hóa ở mỗi quốc gia. Đồng thời diễn ra quá trình cạnh tranh giữa các nước về lĩnh vực này như một sức mạnh mềm, mà nước yếu thế có thể coi là bị “xâm lăng” cả về kinh tế và văn hóa (như phải mua nhiều phim và chương trình truyền hình của nước ngoài, trong đó truyền bá giá trị văn hóa nước ngoài, lịch sử nước ngoài nhiều hơn của trong nước, do nền công nghiệp văn hóa trong nước yếu kém, không dáp ứng nhu cầu của người dân). Ở nhiều nước đã nghiên cứu rất kỹ việc sử dụng các giá trị văn hóa của dân tộc được thể hiện bằng những phương pháp nghệ thuật trình độ cao cùng với ứng dụng KH – CN hiện đại để tạo nên những sản phẩm văn hóa có gia trị văn hóa cao đồng thời cũng là sản phẩm hàng hóa “rất có giá” để thu được lợi nhuận cao. Những bộ phim cổ trang nổi tiếng của Trung Quốc, của Hàn Quốc, những bộ phim “bom tấn” của những nước trên thế giới đi vào nhiều nước trên thế giới (trong đó có Việt nam) đang nói lên điều này. Không những thế, họ còn rất khéo léo kết hợp vào đó quảng cáo (không bị ngăn cản, không bị mất tiền, xuyên biên giới) cho những sản phẩm hàng hóa của họ (như trong các bộ phim truyện đã cho các nhân vật nổi tiếng sử dụng các mẫu điện thoại mới nhất, mẫu ô tô mới nhất, các loại mỹ phẩm mới nhất…Nhân đây xin nêu một hiện tượng vừa khôi hài vừa buồn là ở một số địa phương Miền Trung và Tây Nguyên nước ta, một số đồng bào dân tộc thiểu số đã lấy tên của các diễn viên nổi tiếng của Hàn Quốc ở trong các phim mà họ đã xem và tên các loại xe Môtô của Nhật bản để đặt tên cho con mình).
Ở Việt Nam công nghiệp văn hóa phát triển còn yếu, chưa có một chiến lược rõ ràng. Trước hết đó là do nhận thức của các cấp lãnh đạo - quản lý về công nghiệp văn hóa còn nhiều bất cập, chưa sâu sắc, chưa coi đó là một lĩnh vực kinh tế mũi nhọn, mà chủ yếu vẫn coi là các hoạt động văn hóa tinh thần; cơ chế chính sách cho phát triển công nghiệp văn hóa còn thiếu nhiều và chưa đồng bộ, sự đầu tư của nhà nước cho lĩnh vực này còn rất hạn chế. Kế đó là đội ngũ hoạt động kinh tế trong lĩnh vực văn hóa cũng như đội ngũ hoạt động văn hóa vẫn chưa có tư duy kinh tế sâu sắc về công nghiệp văn hóa, các hoạt động văn hóa vẫn thiên về mang tính bao cấp của nhà nước; trong một số lĩnh vực văn hóa có sự phát triển theo hướng xã hội hóa lại chưa mang tính chuyên nghiệp cao, hoạt động chủ yếu ở trình độ “lấy thu bù chi”, chưa có sự đầu tư lớn theo một chiến lược phát triển kinh tế văn hóa dài hạn…
3) Mô hình lấy hoạt động văn hóa và mục tiêu văn hóa làm cốt lõi
Đây là mô hình trong đó nội dung các hoạt động là về văn hóa, đồng thời mục tiêu hoạt động cũng là hướng tới quảng bá các giá trị văn hóa. Bản chất của mô hình này không phải lấy mục tiêu kinh tế làm cốt lõi, mà mục tiêu cốt lõi là phát triển các giá trị văn hóa; các hoạt động văn hóa trong mô hình này, về mặt kinh tế có thể theo cơ chế bao cấp, hoặc theo cơ chế không vì lợi nhuận, hoặc theo cơ chế lợi nhuận hạn chế. Điều này không có nghĩa là trong mô hình này yếu tố kinh tế không cần tính tới, mà cần được tính tới với giác độ sử dụng hiệu quả và tiết kiệm nhất trong quá trình thực hiện các mục tiêu văn hóa. Các mô hình này thường bao gồm các hoạt động được gọi là cung cấp các dịch vụ văn hóa công cộng, hoặc phát triển các sản phẩm và dịch vụ văn hóa đặc thù không để tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, hoặc làm tổn hại đến lợi ích quốc gia. Các hoạt động văn hóa trong mô hình này thường mang lại các sản phẩm và dịch vụ văn hóa cho đông đảo nhân dân nhằm phát triển các giá trị con người, gia trị văn hóa, giá trị xã hội phổ quát. Chính vì vậy, các hoạt động văn hóa trong mô hình này thường phải được định hướng và lựa chọn kỹ lưỡng (ví dụ các kênh phát thanh – truyền hình mang tính chính luận của nhà nước, các xuất bản phẩm chính thức của nhà nước …).
4) Mô hình tổng hợp
Trên thực tế đang tồn tại và phát triển mạnh các đơn vị hoạt động văn hóa và kinh tế hốn hợp, trong đó các mục tiêu văn hóa và các mục tiêu kinh tế được coi trọng gần như nhau (mặc dù sản phẩm đầu ra là văn hóa). Các mục tiêu văn hóa hướng tới phục vụ xã hội, song nền tảng kinh tế của các hoạt động văn hóa này không phải theo cơ chế bao cấp, nhưng cũng không phải theo cơ chế vì lợi nhuận, mà hoạt động theo cơ chế không vì lợi nhuận (có nghĩa là về mặt kinh tế các đơn vị này phải tự cân đối được thu chi, có tích lũy để phát triển bằng các nguồn cung cấp sản phẩm và dịch vụ văn hóa và các nguồn hợp pháp khác, nhưng không lấy lợi nhuận làm mục tiêu hoạt động, và không hoạt động theo cơ chế vì lợi nhuận). Các đơn vị hoạt động theo cơ chế này được phát triển mạnh trong các lĩnh vực như thông tin – truyền thông mang tính định hướng xã hội rộng lớn cả về chính trị - xã hội, một số loại hình hoạt động văn hóa – nghệ thuật…
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đều thúc đẩy phát triển các mô hình trên và đều cho thấy sự gắn bó phát triển kinh tế với phát triển văn hóa là thuộc tính bản chất của quá trình phát triển xã hội. Nhận thức đúng bản chất của mối quan hệ này và xây dựng được thể chế, cơ chế, chính sách và mô hình phát triển phù hợp sẽ tạo được động lực phát triển mạnh mẽ cả về kinh tế và văn hóa. Điều quan trọng là cần phải chuyển từ quá trình tự phát sang quá trình chủ động – tự giác – tích cực xây dựng mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế trong quá trình phát triển (cả trên tầm vỹ mô, toàn xã hội, các cộng đồng dân cư, xuống đến các tổ chức, đơn vị xã hội, gia đình và tới mỗi con người).