Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Lớp cặn này là do calcium bicarbonate hoặc magnesium bicarbonate tan trong nước, nhờ nhiệt độ sinh ra calcium carbonate hoặc magnesium hydroxide lắng xuống đáy cùng một số tạp chất.
- Phương pháp loại bỏ lớp cặn ở đáy ấm:
+ Giấm hoặc chanh: thành phần chủ yếu của cặn nước là calcium carbonate, sẽ phản ứng với axetic acid trong giấm, tạo thành các chất khoáng tan được trong nước và khí CO2. Đổ giấm 10% vào trong ấm đun nước, sau đó thêm nước, đun sôi để nguội 1 tiếng, sau đó rửa lại là ấm lại sáng bóng như mới.
+ Baking soda: Hầu hết các ấm đun nước đều làm bằng nhôm, vì vậy, có thể bỏ một thìa nhỏ baking soda vào, đun sôi lên vài phút là cặn có thể được loại bỏ. Hoặc cũng có thể đổ baking soda có độ đặc 1%, thêm 500ml nước, lau nhẹ đáy ấm là sạch.
Lớp cặn này là do calcium bicarbonate hoặc magnesium bicarbonate tan trong nước, nhờ nhiệt độ sinh ra calcium carbonate hoặc magnesium hydroxide lắng xuống đáy cùng một số tạp chất.
+ Khoai sọ: Khi mới mua ấm siêu tốc về, nên cho vỏ khoai sọ vào ấm, thêm đầy nước và nấu khoảng 30 phút. Làm như vậy, sau này khi đun nước sẽ không còn bị cặn nữa. Đối với ấm siêu tốc cũ đã tích cặn thì cũng có thể áp dụng cách này để lấy đi lớp cặn trong ấm.
Giấm hoặc chanh: Đây là cách đơn giản và hiệu quả nhất. Mọi người đều biết thành phần chủ yếu của cặn nước là calcium carbonate, sẽ phản ứng với axetic acid trong giấm, tạo thành các chất khoáng tan được trong nước và khí CO2. Đổ giấm 10% vào trong ấm đun nước, sau đó thêm nước, đun sôi để nguội 1 tiếng, sau đó rửa lại là ấm lại sáng bóng như mới....
Câu 1 :
+ Na2CO3 và H2SO4 vẫn được sử dụng trong bình chữa cháy nhưng không phố biến bằng NaHCO3 và H2SO4 . Vì lượng CO2 giải phóng ra khi dùng NaHCO3 nhiều và nhanh hơn .
Chứng minh :
Xét 2 phương trình :
Na2CO3 + H2SO4 -------------> Na2SO4 + H2O + CO2
2NaHCO3 + H2SO4 ------------> Na2SO4 + 2H2O + 2CO2
Từ đây dễ thấy điều trên .
+ Nếu là bình bột thì bắt buộc phải dùng NaHCO3 vì chỉ NaHCO3 mới có thể phân hủy vì nhiệt độ , còn Na2CO3 thì không .
PTHH : 2NaHCO3 ----to------> Na2CO3 + H2O + CO2
Câu 2 :
Lớp cặn đó xuất hiện là do trong nước có chưa Ca(HCO3)2 và Mg(HCO3)2 ( những thành phần này có trong đá )
Khi đun sôi nước bằng ấm , 2 chất nói trên sẽ bị nhiệt phân hủy
Ca(HCO3)2 ---------> CaCO3 + H2O + CO2
Mg(HCO3)2-----------> MgCO3 +H2O +CO2
Sản phẩm tạo thành là hai muối cacbonat không tan và bám vào đáy ấm .
Câu 1
Khí CO2 sinh ra sẽ khiến cho vùng cháy xung quanh nó không đủ Oxy để cung cấp duy trì sự cháy, dẫn tới việc đám cháy tự tắt đi. ... Vì NaHCO3 khi bị phân hủy bởi nhiệt sẽ tạo ra Na2CO3 nên khi sử dụng bình chữa cháy dạng bột thì sau khi đã dập tắt được đám cháy sẽ để lại hóa chất cặn từ bột chữa cháy (Na2CO3).
Nước vôi trong có CTHH là \(Ca(OH)_2\)
Do trong không khí có khí CO2 td với \(Ca(OH)_2\) tạo CaCO3 nên xuất hiện váng
\(Ca(OH)_2 + CO_2 \rightarrow CaCO_3 + H_2O\)
nước vôi trong để lâu trong không khí sẽ có váng mỏng bởi cao trong nước vôi sẽ phản ứng với co2 trong không khí tạo thành muối ( CaCO3)
PTHH:
CaO + Co2 -----> CaCO3
đây nha
a)
Quá trình hình thành thạch nhũ là quá trình của các phản ứng
$CaCO_3 + CO_2 + H_2O \to Ca(HCO_3)_2$
$Ca(HCO_3)_2 \xrightarrow{t^o} CaCO_3 + CO_2 + H_2O$
b)
Người ta chế nhiều lỗ trên than tổ ong nhằm tăng bề mặt tiếp xúc với oxi khi đốt cháy than ngoài không khí.
c)
Vì khi đun nước chứa nhiều thành phần $Ca^{2+},Mg^{2+}$ , hay là một số loại nước cứng sẽ bị phân hủy thành muối cacbonat của canxi và magie bám vào đáy ấm.
d)
Khi đốt than có sinh ra một hàm lượng lớn khí $CO$ - là một loại khí độc, làm giảm khả năng hô hấp khí oxi và dẫn đến tử vong. Do đó không được đốt than trong phòng kín cửa.
e) Nước máy là một loại nước cứng tạm thời.
Khi đun thì muối hidrocacbonat bị phân hủy ra khí $CO_2$, tạo bọt khí lăn tăn.
Khi để đoạn mía lâu ngày trong không khí, ở đầu đoạn mía thường có mùi rượu etylic vì đoạn đầu cây mía tiếp xúc trực tiếp với không khí, trong không khí có thể có một số vi khuẩn giúp phân hủy dần saccarozơ thành glucozơ, sau đó lên men glucozơ thành rượu etylic. Do vậy lâu ngày đoạn đầu mía thường có mùi chua của rượu etylic.
Khi để đoạn mía lâu ngày trong không khí, ở đầu đoạn mía thường có mùi rượu etylic vì đoạn đầu cây mía tiếp xúc trực tiếp với không khí, trong không khí có thể có một số vi khuẩn giúp phân hủy dần saccarozơ thành glucozơ, sau đó lên men glucozơ thành rượu etylic. Do vậy lâu ngày đoạn đầu mía thường có mùi chua của rượu etylic.
Có lẽ đề cho 1000 ml chứ không phải 1000 (l) bạn nhỉ?
a, \(CO_2+2NaOH\rightarrow Na_2CO_3+H_2O\)
b, \(n_{CO_2}=\dfrac{8,96}{22,4}=0,4\left(mol\right)\)
\(n_{NaOH}=1.1=1\left(mol\right)\)
Theo PT: \(n_{NaOH\left(pư\right)}=2n_{CO_2}=0,8\left(mol\right)\) ⇒ nNaOH (dư) = 1 - 0,8 = 0,2 (mol)
\(n_{Na_2CO_3}=n_{CO_2}=0,4\left(mol\right)\)
\(\Rightarrow m_{cr}=m_{Na_2CO_3}+m_{NaOH\left(dư\right)}=50,4\left(g\right)\)