Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
chúc giang sinh vui vẻ
DÀN Ý THAM KHẢO
Mở bài:
Dẫn dắt, giới thiệu câu nói
– Một câu danh ngôn nổi tiếng đã nói; Mất tiền còn có thể tìm lại được nhưng mất niềm tin là mất tất cả.
– Đúng vậy! Nói về niềm tin của mỗi người trong cuộc sống đã có rất nhiều ý kiến nói về điều đó: “Một người đã đánh mất niềm tin vào bản thân thì chắc chắn sẽ còn đánh mất thêm nhiều thức quý giá khác nữa” . Vậy niềm tin có ý nghĩa như thế nào với mỗi con người trong cuộc sống?
Thân bài:
Giải thích câu nói:
-Khái niệm niềm tin:
– Niềm tin vào bản thân: Đó là niềm tin vào chính mình, tin vào năng lực, trí tuệ, phẩm chất, giá trị của mình trong cuộc sống. Đó còn là mình hiểu mình và tự đánh giá được vị trí, vai trò của mình trong các mối quan hệ của cuộc sống.
– Câu nói là lời nhắc nhở mỗi chúng ta hãy có niềm tin vào bản thân. Đó cũng là bản lĩnh, là phẩm chất, là năng lực của mỗi người, là nền tảng của niềm yêu sống và mọi thành công. Khi đánh mất niềm tin là ta đánh mất tất cả.
Phân tích, chứng minh ý nghĩa câu nói:
Vì sao đánh mất niềm tin vào bản thân là sẽ đánh mất nhiều thứ quý giá khác?
– Bởi niềm tin vào bản thân là niềm tin cần thiết nhất trong mọi niềm tin. Nó không chỉ đem lại niềm tin yêu cuộc sống, yêu con người, hi vọng vào những gì tốt đẹp mà còn là nền tảng của mọi thành công. Để đạt được điều đó, con người phải biết dựa vào chính bản thân mình chứ không phải dựa vào ai khác, khách quan chỉ là điều kiện tác động, hỗ trợ chứ không phải là yếu tố quyết định thành công.
– Đánh mất niềm tin hoặc không tin vào chính khả năng của mình thì con người sẽ không có ý chí, nghị lực để vươn lên và tất nhiên: “Thiếu tự tin là nguyên nhân của phần lớn thất bại” (Bovee).
– Cuộc sống muôn màu muôn vẻ, đầy những dư vị đắng cay, ngọt ngào, hạnh phúc và bất hạnh, thành công và thất bại, và có những lúc sa ngã, yếu mềm… Nếu con người không có ý chí, nghị lực, niềm tin vào bản thân sẽ không đủ bản lĩnh để vượt qua, không khẳng định được mình, mất tự chủ, dần buông xuôi, rồi dẫn đến đánh mất chính mình. Khi đã đánh mất chính mình là đánh mất tất cả, trong đó có những thứ quý giá như: tình yêu, hạnh phúc, cơ hội… thậm chí cả sự sống của mình. Vì vậy, con người biết tin yêu vào cuộc sống, tin vào sức mạnh, khả năng của chính mình, biết đón nhận những thử thách để vượt qua, tất yếu sẽ đạt đến bến bờ của thành công và hạnh phúc.
– Trong cuộc sống, có biết bao con người không may mắn, họ phải trải qua nhiều khó khăn, thử thách, bất hạnh. Nhưng càng khó khăn, bản lĩnh của họ càng vững vàng. Họ tin vào ý chí, nghị lực, khả năng của bản thân và họ đã vượt lên, chiến thắng tất cả.
Đánh giá, bàn bạc:
– Phê phán: Trong thực tế cuộc sống, có những người mới va vấp, thất bại lần đầu nhưng không làm chủ được mình, không tin vào mình có thể gượng dậy mà từ đó dẫn đến thất bại:
+ Một học sinh nhút nhát, e sợ, không tin vào năng lực bản thân mình khi đi thi sẽ dẫn đến làm bài không tốt. Cũng có những học sinh thi trượt, tỏ ra chán nản, không còn niềm tin vào bản thân nên sẽ dễ bỏ cuộc.
+ Một người khi làm việc, không tự tin vào mình, không có chính kiến của mình mà phải thực hiện theo ý kiến tham khảo của nhiều người khác thì dẫn đến tình trạng “đẽo cày giữa đường”, “lắm thầy thối ma”.
+ Có những người từ nhỏ được sống trong nhung lụa, mọi việc đều có người giúp việc hoặc bố mẹ lo , khi gặp khó khăn họ có thể làm chủ được bản thân, tự mình độc lập để vượt qua?
Bàn bạc mở rộng :
– Khẳng định: Tuy nhiên, đừng quá tự tin vào bản thân mình mà dẫn đến chủ quan, đừng quá tự tin mà bước sang ranh giới của tự kiêu, tự phụ sẽ thất bại. Tự tin, khiêm tốn, cẩn trọng là những đức tính đáng quý của con người. Nó dẫn con người ta đến bến bờ thành công và được mọi người quý trọng.
– Bài học nhận thức, hành động: Học sinh, sinh viên, những người trẻ tuổi phải làm gì để xây dựng niềm tin trong cuộc sống? Phải cố gắng học tập và rèn luyện tư cách đạo đức tốt. Việc học phải đi đôi với hành, dám nghĩ, dám làm, tự tin, yêu đời, yêu cuộc sống. Phải biết tránh xa các tệ nạn xã hội, phải luôn làm chủ bản thân.
Kết bài:
Liên hệ bản thân.
DÀN Ý THAM KHẢO
Mở bài:Dẫn dắt, giới thiệu câu nói
– Một câu danh ngôn nổi tiếng đã nói; Mất tiền còn có thể tìm lại được nhưng mất niềm tin là mất tất cả.
– Đúng vậy! Nói về niềm tin của mỗi người trong cuộc sống đã có rất nhiều ý kiến nói về điều đó: “Một người đã đánh mất niềm tin vào bản thân thì chắc chắn sẽ còn đánh mất thêm nhiều thức quý giá khác nữa” . Vậy niềm tin có ý nghĩa như thế nào với mỗi con người trong cuộc sống?
Thân bài: Giải thích câu nói:
-Khái niệm niềm tin:
– Niềm tin vào bản thân: Đó là niềm tin vào chính mình, tin vào năng lực, trí tuệ, phẩm chất, giá trị của mình trong cuộc sống. Đó còn là mình hiểu mình và tự đánh giá được vị trí, vai trò của mình trong các mối quan hệ của cuộc sống.
– Câu nói là lời nhắc nhở mỗi chúng ta hãy có niềm tin vào bản thân. Đó cũng là bản lĩnh, là phẩm chất, là năng lực của mỗi người, là nền tảng của niềm yêu sống và mọi thành công. Khi đánh mất niềm tin là ta đánh mất tất cả. Phân tích, chứng minh ý nghĩa câu nói: Vì sao đánh mất niềm tin vào bản thân là sẽ đánh mất nhiều thứ quý giá khác?
– Bởi niềm tin vào bản thân là niềm tin cần thiết nhất trong mọi niềm tin. Nó không chỉ đem lại niềm tin yêu cuộc sống, yêu con người, hi vọng vào những gì tốt đẹp mà còn là nền tảng của mọi thành công. Để đạt được điều đó, con người phải biết dựa vào chính bản thân mình chứ không phải dựa vào ai khác, khách quan chỉ là điều kiện tác động, hỗ trợ chứ không phải là yếu tố quyết định thành công.
– Đánh mất niềm tin hoặc không tin vào chính khả năng của mình thì con người sẽ không có ý chí, nghị lực để vươn lên và tất nhiên: “Thiếu tự tin là nguyên nhân của phần lớn thất bại” (Bovee).
– Cuộc sống muôn màu muôn vẻ, đầy những dư vị đắng cay, ngọt ngào, hạnh phúc và bất hạnh, thành công và thất bại, và có những lúc sa ngã, yếu mềm… Nếu con người không có ý chí, nghị lực, niềm tin vào bản thân sẽ không đủ bản lĩnh để vượt qua, không khẳng định được mình, mất tự chủ, dần buông xuôi, rồi dẫn đến đánh mất chính mình. Khi đã đánh mất chính mình là đánh mất tất cả, trong đó có những thứ quý giá như: tình yêu, hạnh phúc, cơ hội… thậm chí cả sự sống của mình. Vì vậy, con người biết tin yêu vào cuộc sống, tin vào sức mạnh, khả năng của chính mình, biết đón nhận những thử thách để vượt qua, tất yếu sẽ đạt đến bến bờ của thành công và hạnh phúc.
– Trong cuộc sống, có biết bao con người không may mắn, họ phải trải qua nhiều khó khăn, thử thách, bất hạnh. Nhưng càng khó khăn, bản lĩnh của họ càng vững vàng. Họ tin vào ý chí, nghị lực, khả năng của bản thân và họ đã vượt lên, chiến thắng tất cả. Đánh giá, bàn bạc:
– Phê phán: Trong thực tế cuộc sống, có những người mới va vấp, thất bại lần đầu nhưng không làm chủ được mình, không tin vào mình có thể gượng dậy mà từ đó dẫn đến thất bại:
+ Một học sinh nhút nhát, e sợ, không tin vào năng lực bản thân mình khi đi thi sẽ dẫn đến làm bài không tốt. Cũng có những học sinh thi trượt, tỏ ra chán nản, không còn niềm tin vào bản thân nên sẽ dễ bỏ cuộc.
+ Một người khi làm việc, không tự tin vào mình, không có chính kiến của mình mà phải thực hiện theo ý kiến tham khảo của nhiều người khác thì dẫn đến tình trạng “đẽo cày giữa đường”, “lắm thầy thối ma”.
+ Có những người từ nhỏ được sống trong nhung lụa, mọi việc đều có người giúp việc hoặc bố mẹ lo , khi gặp khó khăn họ có thể làm chủ được bản thân, tự mình độc lập để vượt qua? Bàn bạc mở rộng :
– Khẳng định: Tuy nhiên, đừng quá tự tin vào bản thân mình mà dẫn đến chủ quan, đừng quá tự tin mà bước sang ranh giới của tự kiêu, tự phụ sẽ thất bại. Tự tin, khiêm tốn, cẩn trọng là những đức tính đáng quý của con người. Nó dẫn con người ta đến bến bờ thành công và được mọi người quý trọng.
– Bài học nhận thức, hành động: Học sinh, sinh viên, những người trẻ tuổi phải làm gì để xây dựng niềm tin trong cuộc sống? Phải cố gắng học tập và rèn luyện tư cách đạo đức tốt. Việc học phải đi đôi với hành, dám nghĩ, dám làm, tự tin, yêu đời, yêu cuộc sống. Phải biết tránh xa các tệ nạn xã hội, phải luôn làm chủ bản thân.
Kết bài: Liên hệ bản thân.
Trong cuộc sống, sự hi sinh chính là biểu hiện của tình yêu thương và sự cho đi trong cuộc sống. Thật vậy, nhờ có sự hi sinh mà con người có thể mang đến hạnh phúc cho những người xung quanh. Hi sinh chính là hành động cho đi, cống hiến một thứ gì đó của bản thân để người khác được hạnh phúc hơn, để cuộc sống xung quanh tươi đẹp hơn. Ta có thể thấy trong các cuộc chiến tranh, sự hi sinh là vô cùng nhiều, được thể hiện ở các chiến sĩ vì dân tộc, vì quê hương đất nước đã lần lượt lên đường ra chiến trường, cho dù có thể bỏ mạng cũng không hề chùn bước. Các bà mẹ Việt Nam anh hùng đã hi sinh đứa con của mình, không sợ nguy hiểm bảo vệ các chiến sĩ cách mạng, tất cả cũng vì hòa bình của dân tộc. Hay có thể thấy, trong mỗi gia đình, hình ảnh những người cha, người mẹ tần tảo sớm hôm, thức khuya dậy sớm, không quản khó nhọc, để lo cho con, mong con no đủ. Tuy nhiên vẫn còn có nhiều người còn lối sống ích kỉ, sống chỉ biết lợi ích của riêng mình,... đó vẫn còn là mảng tối trong xã hội hiện nay. Đức hi sinh là một đức tính vô cùng cao đẹp, giúp cho người với người lại gần nhau hơn, lòng yêu thương được lan tỏa, vì vậy chúng ta cần phải biết trân trọng và phải biết hi sinh vì người khác, tránh lối sống vô tâm, ích kỷ. Chúng ta cần rèn luyện đức hi sinh ngay khi còn là học sinh và phát huy để ngày càng có nhiều người biết " sống vì mọi người".
Hi sinh là cho đi và nhận lại! Hi sinh được hiểu theo nhiều nghĩa như hi sinh một phần nho nhỏ cho đất nước xã hội thêm giàu mạnh. Hay những lần giúp nhưng người có hoàn cảnh khó khăn cũng là hi sinh dù nó chưa lớn. Nhưng hi sinh trong 'Bếp lửa' là cái hi sinh của một người bà, một người mẹ dành cho con cháu mà không phải ai cũng có thể làm được. Người bà ở đây sẵn sàng hi sinh mọi thứ 'bà dạy cháu làm bà chăm cháu học' dù bà học không cao nhưng được tác giả Bằng Việt thể hiện vào trong bài thơ 'bà chăm cháu học'. Có thể hiểu được rằng đây là sự hi sinh vô giá nó không phải là hi sinh thông thường mà nó là sự hi sinh đầy vật chất. Mỗi người bà, người mẹ đều luôn muốn dành những điều tốt đẹp nhất đến cho con cháu của mình. Người mà họ đã mang nặng đẻ đau suốt chín tháng mười ngày, rồi chỉ mong nó nhớ đến mình như người đã sinh ra nó, nuôi lớn và dạy dỗ. Những người bà, người mẹ hi sinh tất cả cho con cái, họ có quyền được kì vọng vào nó!
Tham khảo:
Đề 1:
Xã hội đang hướng đến nền kinh tế của kiến thức. Mà để có được kiến thức vững chắc, thì tinh thần tự học lại là yếu tố quyết định. Tự học là sự chủ động, tích cực tìm hiểu kiến thức qua hướng dẫn của thầy cô. Tự học mà không cần người khác nhắc nhở mình. Tự học giúp chúng ta tiếp nhận kiến thức bằng niềm đam mê, hứng thú, chủ động. Còn giúp chúng ta có thói quen không dựa dẫm vào những thứ có sẵn, mà còn giúp ta sáng tạo, linh hoạt hơn trong mọi việc. Muốn thực hiện ước mơ, thì tự học là con đường giúp ta biến ước mơ trở thành hiện thực. Chúng ta cần lĩnh hội được những kiến thức trọng tâm, sáng tạo trong cách học... không chỉ tiếp nhận kiến thức trong trường học mà còn cả trong gia đình và xã hội. Dù ở hình thức nào thì tự học vẫn là yếu tố quan trọng nhất, có vậy thì chúng ta mới thành công. Ngược lại, bên cạnh còn có những thái độ học tập không tốt như: học để đối phó với thầy cô, học mà ỉ lại vào bạn bè mà bản thân không tự làm lấy. Qua đây mỗi người cần rút ra bài học cho bản thân: chúng ta cần có tinh thần ham học, say mê tìm tòi, giàu khát vọng và kiên trì trên con đường chinh phục tri thức. Chủ động sáng tạo, độc lập trong học tập. Như vậy, mới có thể tiếp nhận đầy đủ kiến thức để vươn tới những ước mơ của mình.
THAM KHẢO
V
Cùng mạch chủ đề này, nhà thơ người dân tộc Tày - Y Phương cũng có bài thơ “ Nói với con”. Mượn lời của người cha nói với con, nhà thơ gợi về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, bộc lộ niềm tự hào, sức sống mạnh mẽ bền bỉ của quê hương mình. II/ THÂN BÀI: Mở đầu bài thơ là một khung cảnh gia đình ấm cúng đầy ắp tiếng nói tiếng cười:Tham khảo:
Ngô Thế Vinh cho rằng: “Lời là tiếng nói của con tim, văn chương là cái làm cho lời dài thêm vậy”. Tức thơ ca nói riêng và văn học nói chung là nơi ký thác những tâm sự, những nỗi niềm của trái tim thi nhân. Từ ấy, mỗi khi ngâm khẽ tiếng thơ ta luôn giác ngộ được đâu đây một lời nhắn nhủ chân thành của chính người viết dành cho ai đó, cho nhân sinh và cho cả cuộc đời. Ngược dòng thời gian trở về với địa hạt thơ ca năm 1980, có một thi phẩm đặc sắc đã ra đời, đó là "Nói với con" của Y Phương. Bài thơ là một khúc nhạc đan xen nhiều cung bậc, vừa mộc mạc, nhẹ nhàng vừa hàm súc, cô đọng, vừa thủ thỉ tâm tình, vừa triết lý sâu xa. Y Phương đã gợi nhắc cho con về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi sinh linh trên cõi đời này, về vẻ đẹp phẩm chất của người đồng mình.
Y Phương là một ngòi bút xuất sắc và tiêu biểu. Tác phẩm của ông khẳng định được vị thế riêng trong thơ ca hiện đại bởi một “chất giọng” đặc trưng của người Tày, vừa đậm đà bản sắc “người đồng mình", vừa rộng mở, giao hòa với vùng văn hóa rộng lớn để hợp lưu thành con sông văn chương Việt Nam. Nhà thơ Y Phương vẫn miệt mài trên cánh đồng chữ nghĩa, cần mẫn gom nhặt và làm sống dậy những giá trị nhân văn trong truyền thống văn hóa của dân tộc. Bài thơ “Nói với con” được sáng tác năm 1980, in trong "Thơ Việt Nam 1945 - 1985". Thi phẩm là lời tâm sự của ông với đứa con gái đầu lòng, cũng là lời tâm sự với chính ông. Ngòi bút Y Phương đã khơi gợi trong lòng độc giả những xúc cảm dạt dào khi hướng về cội nguồn, về gia đình, về mảnh đất mình sinh ra và vẻ đẹp của những con người nơi ấy.
Thi phẩm mở ra với khúc nhạc dạo đầu gợi lên hình ảnh một gia đình đầm ấm, hạnh phúc, ngọt ngào yêu thương:
"Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói”
Hai bước tới tiếng cười" Xuyên suốt bốn câu thơ là những hình ảnh đối xứng "chân phải - chân trái", một bước - hai bước", "tiếng nói - tiếng cười", "cha - mẹ". Bốn câu thơ dùng với 15 thanh trắc, như 15 phím đàn tấu nên những âm điệu gân guốc. Ngâm khẽ tiếng thơ, bất chợt ta mường tượng đến cảnh đứa trẻ chập chững đi những bước đầu đời, vấp ngã, òa khóc rồi lại khúc khích đứng lên trong vòng tay chở che dìu dắt, trong ánh nhìn trìu mến của song thân. Bên phải con là "tình cha ấm áp như vầng thái dương", bên trái con là "nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra", con bước đi trong vòng tay chăm chút, trong niềm mừng vui đón nhận của gia đình. Mẹ cha cẩn thận đếm từng bước đi của con “một bước”, “hai bước” với hết thảy những nâng niu, trong chờ, dõi theo từng cử chỉ, từng bước chân bé nhỏ.Thước phim được chuyển đến cảnh đứa bé bi bo tiếng "cha", tiếng "mẹ" ngọng nghịu trong niềm tự hào, niềm vui rạo rực và cảm xúc vỡ òa của mẹ cha. Con như sứ giả của hạnh phúc mà Thượng Đế đã ban tặng cho gia đình mình, biết bao lo toan, mệt nhọc của cha mẹ đều vượt qua được là nhờ vào "tiếng nói", "tiếng cười" của con. Là một thi sĩ từng đi lính âm hưởng, trong thơ của Y Phương còn vang lên những tiếng "một - hai", "một bước - hai bước" như chính khẩu hiệu đi đều của khúc ca hành quân. Tiếng thơ cứ thế vấn vương, khơi gợi trong "ốc đảo" tâm hồn con thơ và bạn đọc muôn đời một điều tâm niệm của người cha: gia đình là cội nguồn sự sống là chốn bình yên luôn yêu thương con vô điều kiện, luôn đón chào, ôm ấp con.
Gia đình trao cho con sinh mạng, và con lớn lên, trưởng thành còn nhờ vào cuộc sống lao động, văn hoá của người làng mình, nhờ quê hương thơ mộng và thiên nhiên sâu nặng nghĩa tình:
“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”
Với tình cảm tha thiết, chân thành, Y Phương đã nhắc đến "Người đồng mình" qua câu thơ chan chứa âm điệu trìu mến, kết đọng trong một từ "yêu". "Yêu" ấy là gắn bó, là cảm mến và tự hào. Các động từ "đan, cài, ken" nối tiếp nhau gợi đến quá trình lao động miệt mài, tỉ mỉ. Người đồng mình lao động với bản chất khéo léo, với đôi bàn tay cần mẫn đan những nan tre, nan nứa để chiếc lờ - một dụng cụ đánh bắt cá bình thường cũng mang dáng hình của “nan hoa”. Phải chăng "nan hoa" mà tác giả nhắc đến còn phúng dụ cho sự "đom hoa kết trái", những thành quả của tháng ngày hăng say làm việc. Vách nhà của người Tày không chỉ được ken bằng ván gỗ mà còn bằng cả câu ca, tiếng hát hồn nhiên, vui tươi. Khi những tia nắng yếu ớt cuối ngày ngất lịm phía sau lưng đồi, họ quay quần bên nhau trong một ngôi nhà rộng để cùng hát ca, nhảy múa, để cuộc sống thêm tràn ngập niềm vui. Lối liên tưởng “vách nhà ken câu hát” còn ẩn chứa một nét văn hóa phi vật thể của người dân tộc. “Vách nhà” là chứng nhân cho tình yêu lứa đôi. Những đêm trăng sáng lở lửng trên đỉnh đầu, người con trai ngồi ngoài vách, người con gái ở bên trong vách. Họ cùng nhau tâm sự những vui buồn của cuộc sống, hát cho nhau nghe những bản tình ca tuổi trẻ, hát tràn đêm đến sáng bạch. Từ những câu hát ấy, tình yêu được kết tinh, nghĩa vợ chồng son sắt được hình thành.
Khi viết về quê hương, nếu nhà thơ Tế Hanh nhớ về dòng sông quê xanh biếc "nước gương trong soi tóc những hàng tre" thì Y Phương thì lại viết về núi rừng và những con đường nghĩa tình. Rừng cho hương sắc của hoa, rừng che chở, cung cấp nguồn nhựa sống dồi dào và duy trì sinh kế cho người dân tộc. Với người dân chài:
“Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
(Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận)
Còn với người dân Tày, những cánh rừng hoa ban trắng xòe tinh khôi hay hồng tím nhẹ nhàng đã làm đẹp cho cuộc đời và dạy cho họ biết yêu quý thiên nhiên. Dường như tất cả những gì tinh túy, đẹp nhất mẹ thiên nhiên đều ưu ái ban tặng cho con người. Không phụ tấm lòng thiên nhiên, người đồng mình đã sống hòa mình gắn bó và trân quý rừng thiêng sông núi. "Con đường" cũng mở rộng vòng tay chào đón những đứa con về với làng, với bản, đón chào "những tâm hồn" đôn hậu, bình dị, hồn nhiên, vô tư. Nhờ nó mà con người có thể đến gần với nhau. Vì thế, con đường là sợi chỉ đỏ kết nối tình cảm, cũng là sợi tơ duyên để nối kết những tâm hồn, trong đó có cha và mẹ. Hình ảnh “ngày cưới” là “ngày đầu tiên”, là ngày “đẹp nhất”, đáng nhớ nhất trong đời. Ngày cưới - ngày mà lời ca của cha mẹ trong những đêm trăng tròn đã tạo nên tình yêu trọn vẹn. Ngày cưới - ngày khởi đầu ngày đặt nền móng cho hạnh phúc gia đình. Nhìn con khôn lớn, suy ngẫm về tình nghĩa làng bản quê nhà, nhà thơ muốn con biết chính quê hương đã tạo cho cha mẹ cuộc sống hạnh phúc, mạnh mẽ, bền lâu. Dặn dò con về quê hương ,về “người đồng mình", nhà thơ “chắt” vào con ý thức nhân sinh đẹp đẽ, đó là tình yêu quê hương, bản quán.
Thi sĩ đã nâng nâng niu, ôm ấp và thổi vào hồn thơ vẻ đẹp phẩm chất của người dân Tày:
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”
Mỗi lần nhắc đến "người đồng mình", trái tim Y Phương lại thổn thức cất tiếng "yêu lắm" và "thương lắm". Thứ tình cảm ấy cứ tha thiết chân thành, ngân dài bất diệt trong xuyên suốt một bài thơ và cả một đời thơ. Có lẽ từ "thương" mang trong mình một cung bậc cảm xúc da diết, trìu mến hơn "yêu". “Thương” ấy còn ẩn chứa một cái gì đó nghẹn ngào, xót xa. Hình ảnh sóng đôi "nỗi buồn - chí lớn" phúng dụ cho phẩm tính của người dân Tày. "Nỗi buồn" gợi đến đời sống tâm hồn rộng mở của người đồng mình được dựng xây từ những nỗi niềm trầm tư. Còn "chí lớn" là ý chí quật khởi, khát vọng sống mãnh liệt. Bằng lối tư duy hình tượng độc đáo, tác giả đã lấy thước đo vô cùng, vô tận của không gian để thể hiện tầm kích tình cảm, chí hướng của con người. Có thể nói, cuộc sống của người đồng mình vẫn còn đó những nỗi buồn thầm kín, những nỗi lo mưu sinh, cơm áo gạo tiền. Song, họ sẽ vượt qua tất cả như hoa hướng dương vươn mình chiêm ngưỡng cuộc đời, bởi trong họ luôn thường trực ý chí và nghị lực cùng niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Người đồng mình dù phải oằn mình trong nghèo khổ, gian nan thì tình cảm thủy chung gắn bó với quê hương, cội nguồn vẫn mãi vẹn nguyên vẹn toàn:
“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung
nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh”
Không lo cực nhọc" Ba chữ “dẫu làm sao” đặt ở đầu câu thơ làm nhịp thơ thoáng chốc ngập ngừng. "Dẫu làm sao” chăng nữa, dẫu cuộc đời có “vạn biến” khó lường, "cha vẫn muốn" con giữ được tâm thế “bất biến”, không được quên cội nguồn sinh dưỡng. Có lẽ cõi lòng người cha chứa đầy những dự cảm, đau đáu, lo âu về cái thời kỳ mà "cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả gấp gáp kiếm tìm tiền bạc". Và nối tiếp dự cảm là khao khát, là lời nhắc nhở con cũng như căn dặn chính mình phải biết tự hào, gìn giữ và lưu truyền nếp sống ngàn đời của tổ tiên. Điệp từ “sống”, điệp cấu trúc cùng các hình ảnh "sống trên đá, sống trong thung" gợi lên cuộc sống đầy những gam màu lao lực, gian khổ. Thành ngữ "lên thác xuống ghềnh" tạo nhịp vận động không ổn định như chính cuộc sống bấp bênh của những người con bản làng thấm đẫm mồ hôi trên từng thửa ruộng. Có những kiếp người "dầm chân trong đời nghèo”, triền miên trong nỗi bâng khuâng "quê tôi còn nghèo lắm" (Tiếng hát tháng giêng) nhưng họ vẫn "không chê" đá, nghĩa là không chê mảnh đất nghĩa nặng tình sâu. "Không chê" thung, nghĩa là không chê cuộc sống lam lũ, nghèo khổ và "không lo", không ngại nhọc nhằn, thiếu thốn. Với sự lạc quan, nghị lực cùng tình yêu xứ sở, đồng bào nơi đây tìm mọi cách để thích nghi và vươn lên cái khắc nghiệt, để ươm mầm hạnh phúc và hy vọng. Một lòng dành trọn tâm tư cho quê hương, nhà thơ Y Phương vẫn giữ nguyên vẹn những "rung động bằng trái tim suối nguồn và suy tư bằng sừng sững đá”. Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi đến sức sống bền bỉ, sống giao hòa với thiên nhiên bốn bề. Người đồng mình sống với tâm hồn tràn đầy sinh lực, rộng mở, lãng mạn và khoáng đạt như hình ảnh đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ tựa như dòng sông trong veo và ngọt lành đã tưới mát những tâm hồn lạc lõng giữa muôn trùng nỗi buồn. Tiếng thác suối thì thầm vang vọng, mang theo cả bóng dáng quê hương khắc tạc vào linh hồn người Tày, giúp họ thêm kiên định "sinh hoạt như những người Tày ngay giữa lòng Thủ đô..."
Ở những câu thơ tiếp theo, tác giả đã ngợi ca nét đẹp tự lập từ cường và tinh thần tự tôn dân tộc của người đồng mình:
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương”
Tác giả đã gặt hái được thành công nhờ hình ảnh đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong. Người miền núi bàn tay chai sạn, da thịt thô ráp, và chính sự "thô sơ da thịt" ấy đã tạo cho người Tày một nét đẹp chất phác, thật thà. Song, người quê mình “chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”. Bởi trong họ, ý chí nghị lực đã thấm nhuần máu xương, cốt cách tự tôn đã ăn sâu da thịt và niềm tin, niềm kiêu hãnh chưa bao giờ vơi cạn. Giản dị, hồn hậu mà mạnh mẽ, kiên gan đã trở thành phẩm chất ngàn đời của người miền núi. Hình ảnh "tự đục đá" gợi về một nét văn hóa gắn liền với cuộc sống của "người đồng mình". Đó là việc họ đẽo đá kê chân cột nhà, làm nên những lối đi nghĩa tình... Sự liên hoàn của ba thanh trắc " tự - đục - đá" tạo nên thứ âm điệu trúc trắc nhằm tái hiện nỗi nhọc nhằn của “người đồng mình” trong việc kiến tạo quê hương trên đá. Sự liên hoàn của các thanh bằng “kê - cao - quê - hương” lại mở ra hình ảnh một thế đứng, một tầm vóc cao vời vợi của quê hương giữa mênh mang đất trời. Bằng chính đôi bàn tay khéo léo cùng tinh thần tự lực tự cường, họ đã xây đắp và nâng đỡ quê hương thăng hoa trên những nấc thang phát triển. Âm điệu chuyển từ trúc trắc đến nhẹ nhàng tựa như một thước phim về hành trình của quê hương từ thuở “khai thiên lập địa” đầy khó nhọc, nặng nề đến khi ung dung, khoan khoái đứng vững trên những “gập ghềnh” của đá. Chính cuộc hành trình phảng phất những giọt mồ hôi, nước mắt ấy đã làm nên truyền thống, làm nên phong tục cho mảnh đất quê hương. Và những truyền thống tốt đẹp của bản quán là nền tảng, là điểm tựa tinh thần vững chắc để từ đó ta được lớn lên, được trưởng thành, được "sống đàng hoàng như một con người".
Bốn câu thơ ngắn dài đan xen ở cuối thi phẩm vừa khép lại "khúc nhạc đàn tính" - Nói với con, vừa khơi gợi trong lòng người đọc biết bao suy tư về lời thủ thỉ thiết tha, chân tình của Y Phương dành cho con:
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được”
“Nghe con” tiếng gọi “con ơi” được lặp đi lặp lại trong bài thơ như chan chứa niềm mong mỏi rằng lời dạy của cha sẽ mãi bên con, cùng con vượt qua sự đời "thương hải tang điền". Ý thơ “Tuy thô sơ da thịt” một lần nữa được xướng lên càng trở nên da diết, sâu sắc hơn. Có lẽ dụng ý của nhà thơ là muốn mượn cái hình thức giản dị bề ngoài của thôn làng đơn sơ để gợi nhớ đến truyền thống vĩ đại của quê hương, khắc sâu trong con những phẩm chất cao đẹp của “người đồng mình”. Rồi một mai này đây, con chẳng còn chập chững những bước đi đầu đời, con bắt đầu khăn gói "lên đường", va vấp với xã hội ngoài kia. Rồi một mai này đây, cha thấy bóng lưng đứa trẻ năm nào đang rảo bước trên con đường đời, con đường của chân trời mới, con đường dẫn đến thế giới của "người trưởng thành". Mong rằng khi ấy, con phải thật mạnh mẽ, vững vàng, không được "ôn nghèo kể khổ", yếu mềm buông xuôi trước những thách thức của cuộc đời. Cách nói “nghe con” như một lời khuyên chí tình dành cho con, cũng như thế hệ trẻ được nuôi nấng trong tình thương của buôn làng. Hãy nhớ rằng gia đình và quê hương luôn dõi mắt theo những bước chân của con như một người cha, luôn dang rộng vòng tay ôm con vào lòng như một người mẹ, để chữa lành những vết xước trong con, để con có thêm dũng khí, sức mạnh và niềm tin. Bởi vậy, con hãy sống sao cho xứng đáng với truyền thống của quê hương, với cái nôi linh thiêng của mình.
Bài thơ có bố cục chặt chẽ, phong cách miền núi với ngôn ngữ “thổ cẩm” rất độc đáo. Hình ảnh đối xứng, mộc mạc giàu liên tưởng. Thi phẩm còn là sự hòa hợp nhuần nhuyễn giữa tư duy hình tượng của người dân tộc và tư duy thơ Tượng trưng, Siêu thực hiện đại. Chất miền núi thấm sâu, lan tỏa trên từng câu thơ song hành cùng giọng điệu thiết tha trìu mến như đã góp phần làm sáng toả, nổi bật lên những lời thủ thỉ, tâm tình mà "Nói với con" muốn truyền tải. Nhà thơ Y Phương đã chọn cách sáng tạo thơ rất nhạy bén, sâu sắc, tinh tế, liền mạch và tự nhiên thể hiện tình yêu của mình đối với con, với quê hương xứ sở.
Chất thơ sung mãn, lối viết khoáng đạt giàu hình ảnh, giàu sắc thái dung hòa con người với tự nhiên đã tạo cho "Nói với con" của Y Phương một sức sống bền bỉ. Sức sống ấy không chỉ ở ngôn từ, mà nó đã bật trào ra khỏi con chữ và phập phồng trên trang giấy. Tiếng thơ là lời răn dạy của người cha, mong rằng dẫu mai này con có đi vào biển người tấp nập, dấn thân vào nơi hào nhoáng của đô hội, con cũng phải biết "uống nước nhớ nguồn", biết rằng mình sinh ra là nhờ cái nôi hạnh phúc của gia đình, nhờ những truyền thống tốt đẹp của quê nhà. Cha cũng mong con phải khắc cốt ghi xương hai tiếng "quê hương" vào tâm hồn và trái tim như Xuân Quỳnh từng viết:
“Mỗi người có một quê
Ngày dại thơ để ở
Tuổi thiếu niên để yêu
Và lớn lên để nhớ…”
“Nói với con” đã lẳng lặng trở thành một bài thơ đời. Để rồi có những phút ngã lòng, ta vịn vào thi phẩm để thêm yêu gia đình, để biết tự hào, giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của văn hoá dân tộc ta.
trong cuộc sống của mỗi con người chúng ta có rất nhiều điều tuyệt vời và những điều tuyệt vời ấy đều là do chính bản thân chúng ta tạo ra.vậy phép màu gì đã giúp chúng ta tạo ra những điều tuyệt vời ấy?
đó chính là lời động viên vậy lời động viên là gì?là những lời nói khích lệ tinh thần của mọi người dành cho những người gặp khó khăn về những vấn đề gì đó
vậy những lời khích lệ đem lại cho chúng ta những lợi ích gì?giúp cho chúng ta có thêm động lực và niềm tin vào cuộc sống này hơn.giúp cho nhiều người có thể vượt qua mọi khó khăn để tìm thấy tương lai mình trước mặt.nhiều lúc lời động viên đúng lúc còn thể hiện sự quan tâm của con người dành cho nhau.lời động viên còn giúp cho nhiều người thoát khỏi cái chết vô bờ ,và từ đó cố gắng sống có ích cho đời hơn và cống hiến tất cả cho cuộc đời.
lời động viên còn giúp cho nhiều người tỉnh ngộ,tránh đi vào tội lỗi và tránh đi vào những tệ nạn xã hội.lời động viên còn giúp cho những người gặp khó hắn thấu hiểu về cuộc sống này hơn rất là nhiều.
bên cạnh đó thì vẫn còn một số người thờ ơ và không bao giờ quan tâm tới những người gặp khó khăn gây ra những hậu quả vô cùng xấu.vì vậy lời động viên như 1 viên ngọc uqy có phép màu kì diệu mà chỉ có con người mới bán cho con người được thôi.các bn hãy mở lòng và bán cho những người khó khăn bên cạnh mình những lời động viên để họ tiếp tục sống và cống hiến cho đời nhé
“Kể từ sau vụ khủng bố 11/9, mối quan hệ giữa Mỹ và Nga trở nên vô cùng xấu. Sự kiện ấy đã khiến nhiều người Mỹ có định kiến không tốt về người Nga. Trong bài luận này, tôi sẽ….”. Tôi cười sặc sụa khi đọc được đoạn mở đầu này trong một bài luận của sinh viên. Tôi vẽ một vòng tròn đỏ gọn gàng quanh chữ “Nga” kèm lời phê “Em xem lại kiến thức phần này nhé. Cấu trúc bài thì OK nhưng kiến thức chưa chắc chắn”. Đang hoan hỉ với lời nhận xét của mình thì tôi bị giật mình bởi giọng nói sang sảng của thầy:
-Mai, em có thấy cậu sinh viên Martin đến gặp em không?
-Em gặp cậu ấy rồi. Cậu ấy hay đến các giờ văn phòng của em để hỏi bài. Trước khi nộp bài luận, cậu ấy còn mang dàn ý đến cho em góp ý. Hôm kia, Martin đến hỏi em mấy câu hỏi để chuẩn bị cho bài kiểm tra cuối kỳ.
Martin là cậu sinh viên người Mỹ mắt sáng, thông minh, hay nói và rất nhiệt tình trong học tập. Cứ có chỗ nào không hiểu là cậu lại vác sách đến nhờ tôi giải đáp. Nếu vẫn chưa rõ, cậu cũng chẳng ngần ngại email cho tôi để hỏi cho thật tường tận mới thôi. Tôi rất quý em sinh viên này. Khi tôi đưa điểm bài kiểm tra cuối kỳ lên website, chỉ mấy phút sau, tôi nhận được email của Martin “Có thật, em được 97 điểm không ạ? Vậy là A ạ. Em cảm ơn rất nhiều!” Tôi trả lời lại: “Đúng vậy, em đã rất chăm chỉ và cố gắng kỳ học vừa qua. Chúc mừng em”.
-Martin đã rất chịu khó kỳ vừa qua. Cậu ấy bắt đầu không được tốt lắm, nhưng thầy rất phục những nỗ lực của em ấy. Có gì em lưu ý khi chấm bài cho cậu ấy nhé.
-Vâng ạ, thầy cứ yên tâm. Những em sinh viên nào chăm chỉ và cố gắng, em đã ghi lại tên vào một cuốn sổ riêng rồi ạ.
Thầy gật đầu, hài lòng chào tôi, và rời đi. Chưa được nửa phút, tôi đã thấy thầy chạy vội lại và nói với tôi:
-Phương châm dạy của thầy là luôn động viên và khuyến khích sinh viên. Ngày trước, thầy có một trợ giảng có “triết lý” rất khác thầy. Bạn ấy quan niệm rằng “yêu là phải cho roi cho vọt, muốn sinh viên giỏi phải phê bình, chỉ trích”. Thầy hoàn toàn không đồng ý! Kết quả là, sau bài thi thử đầu tiên, hơn 1/3 sinh viên xin rời lớp. Em hãy cố gắng luôn động viên sinh viên nhé. Thế sinh viên mà bài giữa kỳ được điểm 0 thế nào rồi em?
-À, em ấy cũng đến gặp em khoảng hai lần rồi ạ. Nghe lời thầy, em cũng động viên em ấy rất nhiều. Em nghĩ em ấy có học bài, nhưng chưa biết chọn lọc thông tin để trả lời câu hỏi. Em nói với em ấy rằng, điều đó không phải hiếm đối với sinh viên năm đầu. Em cũng yêu cầu em ấy đến gặp em để em xem qua dàn bài bài luận trước khi nộp. Và em ấy đã viết tốt hơn rất nhiều.
-Thế tốt rồi, đối với những sinh viên có cố gắng, đừng bao giờ ngần ngại tặng cho họ những lời động viên, khuyến khích.
Có lẽ bài học lớn nhất tôi học được sau một kỳ làm trợ giảng là học cách động viên, khuyến khích người khác và học cách sử dụng từ ngữ làm sao để tăng sự tự tin, lạc quan của người nghe. Nếu bạn biết tôi ngoài đời trước đây, có thể bạn đang trợn tròn mắt ngạc nhiên. Tôi không phải là người thật sự khéo léo với từ ngữ, đôi khi tôi lỡ lời nói một điều gì đó làm người nghe cảm thấy không hài lòng. Tôi cũng không phải là người hay động viên và khen ngợi người khác. Có thể tôi rất yêu quý và trân trọng một ai đó, nhưng những lời nói “hoa mỹ”, động viên vẫn bướng bỉnh không chịu thoát ra khỏi miệng tôi. Tôi đã từng nghĩ rằng, mình cứ sống thật là mình, mình chân thành thì dù mình không khéo cho lắm cũng không sao. Nhưng dần tôi hiểu rằng, tại sao mình không hào phóng cho đi những lời khen ngợi, và động viên người khác. Điều này lại càng quan trọng trong giáo dục. Một lời chê, một lời phê bình thiếu tế nhị có thể giết chết sự tự tin của một học sinh, một sinh viên, một con người.
Tôi chợt nhớ đến những buổi họp phụ huynh ngày còn nhỏ. Mọi khuyết điểm và “lỗi lầm” của học sinh sẽ được đem ra bàn luận trước tất cả phụ huynh. Học sinh nào có nhiều “sai phạm” là y rằng sẽ bị phân tích rất gay gắt và nặng nề. Có lần, đi họp phụ huynh về, mẹ nói với tôi “đừng chơi với bạn X, vừa học dốt vừa hư”. Giờ đây nghĩ lại, tôi thấy thật tội nghiệp cho những ai giống bạn X. Thử tưởng tượng một đứa trẻ, tính cách còn chưa thành hình thành khối, bị nhận xét giữa công chúng rằng nó dốt, nó không có năng lực, đứa trẻ ấy sẽ thế nào? Câu trả lời có lẽ ai cũng hiểu phải không? Đừng nghĩ rằng, chỉ cần ta thật sự yêu thương thì ta cứ tha hồ vô tư “cho roi cho vọt”. Biết đâu những vết roi vọt ấy lại tạo thành những vết sẹo không bao giờ lành? Thay vào đó, nếu giáo viên nói riêng với phụ huynh và động viên em “em còn chưa tốt điểm này, nhưng cô tin rằng nếu em chăm chỉ, em sẽ làm được”. Kết quả sẽ khác lắm!
Càng ngày tôi càng hiểu rằng, giáo dục xét cho cùng không phải là công cụ để chỉ ra ai giỏi, ai dốt, để phê bình chỉ trích, mà là để phát huy những tiềm năng trong mỗi còn người. Vì lý do này, tôi phản đối việc dán điểm của học sinh, sinh viên trên bảng tin toàn trường hoặc đưa điểm lên mạng mà tất cả mọi người có thể xem được. Thử nghĩ xem nếu một sinh viên bị điểm kém, và tất cả sinh viên trong trường đều có thể nhìn thấy, em ấy sẽ nghĩ thế nào? Tôi vẫn nhớ những lời đồn đại “đứa đấy học dốt”, “nó không thông minh”. Ngày trước tôi cũng hùa theo những lời nói ấy. Nhưng giờ đây khi đã đọc, học và tham gia vào quá trình giảng dạy, tôi tự đặt cho mình những câu hỏi “thế nào là thông minh?”, “Liệu có một tiêu chuẩn nào để đánh giá sinh viên này thông minh hơn sinh viên kia?”, “Giỏi toán/lý/hoá/anh là thông minh hơn những người không giỏi”, “thông minh là lập tức đưa ra câu trả lời mà ..chưa cần nghĩ?”, “không học mà vẫn…thi đỗ là thông minh?” Với tôi của hiện tại, tất cả những định nghĩa về học sinh giỏi, học sinh thông minh như thế thật vô cùng nông cạn. Tôi đã từng chia sẻ rất nhiều lần một quan điểm trên trang blog này, và hôm nay tôi muốn nhắc lại một lần nữa: Tôi tin sâu sắc rằng, đằng sau mỗi cá nhân đều có một năng lực nào đó, mỗi người mỗi vẻ, mỗi người một tiềm năng. Và một lời động viên, một câu khen ngợi khích lệ đúng lúc biết đâu sẽ khiến cái tiềm năng ấy không còn bướng bỉnh trốn tránh nữa!
Để tôi kể cho bạn chuyện này nhé. Mấy năm trước, khi đang dự lễ tốt nghiệp của khoá sinh viên năm ấy, bố mẹ của một sinh viên (cả hai đều là luật sư thành đạt) tìm thầy và nói lời cảm ơn “Nhờ có thầy mà cháu mới có được ngày hôm nay. Thầy đã động viên cháu rất nhiều. Trong năm đầu đại học, bài thi giữa kỳ môn của thầy, cháu chỉ được điểm C. Cháu vẫn còn nhớ, thầy đã động viên “em có thể đạt được điểm A”. Chỉ một câu nói ấy thôi, cháu đã tự tin và nỗ lực rất nhiều”.
Thầy nói với tôi:
-Thầy thật sự không nhớ mình đã nói thế với cậu học sinh ấy. Nhưng thầy rất vui, vì chỉ một câu nói đơn giản ấy thôi đã có thể giúp cậu ấy rất nhiều. Kể từ ấy, thầy luôn lên lớp với triết lý: LUÔN KHUYẾN KHÍCH VÀ ĐỘNG VIÊN HỌC SINH CỦA MÌNH.
Câu chuyện của thầy đã chạm vào sâu thẳm cảm xúc trong tôi. Đã có một khoảng thời gian dài, tôi loay hoay đi tìm bản thân mình. Những câu hỏi như “tôi thực sự giỏi cái gì?”, “ước mơ của tôi là gì?”, “điểm mạnh của tôi là gì?”, vân vân và vân vân, đằng đẵng bám theo tôi. Tôi chợt nhận ra những “thiếu tự tin”, những hoài nghi về chính bản thân mình không chỉ bắt nguồn từ cách người lớn đã từng so sánh tôi với người khác khi tôi còn là một đứa trẻ, mà còn vì tôi đã không nhận được lời động viên, khích lệ khi cần thiết.
Tôi thường nghe người ta “nguỵ biện” mỗi khi phê bình, chỉ trích hoặc giao tiếp một cách thẳng thắn thiếu tế nhị rằng: Yêu thì mới cho roi cho vọt, nói khó nghe thế thôi nhưng sâu thẳm lại nhiệt tình tốt bụng. Bây giờ tôi nhận ra, tất cả những điều ấy chỉ là vỏ bọc hoàn hảo cho sự bất lịch sự và thiếu nhạy cảm trước cảm xúc của người khác. Giờ đây tôi hiểu rằng, nói thẳng những khuyết điểm và chê bai thì dễ đấy, nhưng chỉ để vuốt ve cái tôi của ta thôi. Còn nói làm sao để người khác thấy được những nhược điểm của họ, nhưng lại có thể khích lệ họ tiến lên, khiến họ không mất tự tin lại là cả một nghệ thuật. Một nghệ thuật có lẽ ta phải học cả đời.
Trong khoá học Research Design, chúng tôi có một bài giảng về cách đưa ra nhận xét đối với nghiên cứu của đồng nghiệp. Nhiều người cho rằng, khoa học chỉ cần chính xác, cần gì phải lựa lời ăn tiếng nói khi đưa ra nhận xét: Sai thì chỉ trích là sai, đúng thì bảo là đúng thôi. Giáo sư của tôi lại có quan điểm khác: trong giới khoa học, những giáo sư được tôn trọng nhất lại là những người vừa giỏi chuyên môn, vừa khéo léo, tế nhị khi làm việc với sinh viên và những nhà nghiên cứu trẻ mới vào nghề. Họ nhận xét những công trình nghiên cứu của người khác một cách lịch sự, đầy tính xây dựng, và luôn khiến người được nhận xét cảm thấy khích lệ động viên và tôn trọng. Tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm này. Xét cho cùng, làm khoa học hay bất cứ ngành nghề gì, ta cũng chẳng tránh được mối quan hệ giữa người và người!
Mấy hôm trước, tôi nhận được email của cậu sinh viên Martin “cảm ơn cô đã luôn khuyến khích động viên em trong học kỳ vừa qua. Thật vui vì được làm việc cùng với cô. Nhờ có những lời động viên của cô mà em mới tin mình có thể học để đạt được điểm A”. Tôi xúc động lắm, tôi không ngờ những lời động viên của mình có thể khiến cậu ấy cố gắng đến thế.
Nếu bạn cũng có niềm tin như tôi, hãy cùng tôi bắt đầu năm mới bằng cách trao đi những lời khích lệ, động viên bạn nhé. Nếu ai đó sẻ chia với bạn ước mơ của họ, đừng bắt đầu bằng “bạn không làm được đâu”, “làm thế để làm gì”, “khó lắm, làm sao làm được”. Ta không bao giờ biết được những lời ấy có thể để lại một vết sẹo lớn thế nào trong lòng người khác. Ta hãy nói “tôi tin bạn làm được”, “bạn có năng lực mà”. Nếu ta thấy họ còn thiếu kỹ năng gì thì đừng nói “không biết làm ABC, mà cũng đòi làm XYZ”. Hãy nói “nếu bạn cố gắng hoàn thiện kỹ năng ABC, tôi tin bạn sẽ làm được những điều bạn muốn”. Tôi tin một cách sâu sắc rằng, ta đừng bao giờ nói với một đứa trẻ, một sinh viên, một học sinh rằng “em/con không thể làm được điều ấy đâu”, “em/con dốt, không giỏi như bạn này bạn kia”. Đó chẳng khác nào một nhát dao cắt vào sự tự tin của người khác!
Cảm ơn bạn đã đọc tâm sự của tôi đến những dòng cuối cùng. Chúc bạn một thứ hai thật nhiều niềm vui!