K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

16 tháng 12 2018

Chỉ một tuần sau khi Bác đi xa, một số cán bộ của Bộ Tư lệnh Công binh và Tiểu đoàn 144 - Bộ Tổng tham mưu đã lên K9 để khảo sát, thiết kế cải tạo lại công trình. Ban đầu, Ban chỉ đạo gìn giữ thi hài Bác định sử dụng ngôi nhà đã có sẵn để lắp đặt máy móc, thực hiện nhiệm vụ gìn giữ thi hài Bác ở ngay trên mặt đất. Nhưng về sau, Quân ủy Trung ương quyết định phải cải tạo lại cả hệ thống hầm ngầm để có thể đưa thi hài Bác xuống khi chiến tranh có thể lan rộng tới khu vực này.
Lịch sử đã và sẽ mãi còn ghi lại dấu ấn đặc biệt này. 9h47 ngày 2/9/1969, cả dân tộc phải đau đớn vĩnh biệt một con người vĩ đại của dân tộc. Bác Hồ kính yêu đã ra đi… Nhiệm vụ bảo vệ, gìn giữ lâu dài thi hài Bác cho muôn đời con cháu mai sau là một nhiệm vụ đặc biệt và Đoàn 69 (tiền thân của Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày nay) là đơn vị được vinh dự nhận nhiệm vụ này.

Bài viết dưới đây sẽ tái hiện lại một phần công việc vinh quang nhưng cũng đầy khó khăn, vất vả của cán bộ chiến sĩ Đoàn 69 trong thời gian bảo vệ và gìn giữ thi hài Bác Hồ kính yêu tại Đá Chông với mật danh K9.

"Yêu Bác lòng ta trong sáng hơn"

Được sự đồng ý của Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Lâm, Chính ủy Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôi ngược Hà Nội lên K9. Đó là một ngày chớm đông, Hà Nội se lạnh. Nhưng ngược lên phía Sơn Tây là bắt đầu có nắng. Nắng hanh hao vàng, rải trên những đồi thông xanh mướt, tạo cho khung cảnh nơi đây vẻ đẹp yên bình, thơ mộng. Vùng đất này có tên gọi là Đá Chông bởi ở đây có nhiều đá hình mũi chông cao thấp nhấp nhô, lô xô vươn về phía sông Đà.

Nhìn địa hình ta dễ hình dung ra khu vực này mang dáng dấp một con rồng, đầu đang cúi xuống uống nước sông Đà còn U Rồng là đỉnh cao nhất của khu đồi. Huyền thoại Sơn Tinh - Thủy Tinh, bản anh hùng ca hùng tráng nhất về sức mạnh Việt Nam trong thời kỳ đầu dựng nước, đã sinh ra ở vùng đất sơn thủy hữu tình này.

Sau năm 1975, sau khi đón thi hài Bác Hồ về Lăng, K9 trở thành một khu di tích do Đoàn 285 Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh quản lý. Hôm tôi đến, Đại tá Đoàn trưởng Bùi Hữu Hưng có cho tôi gặp một người mà nói như lời anh thì đây là một người đặc biệt. Anh là 1 trong 4 chiến sĩ tiêu binh đầu tiên được vinh dự đứng bên thi hài Bác trong buổi tổ chức lễ viếng Bác đầu tiên tại Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng ngày 29/8/1975.

Không chỉ thế, anh còn có một vinh dự nữa là cả 3 cha con anh đều được đứng trong đội ngũ của Quân đội nhân dân Việt Nam trong 3 lễ duyệt binh lớn của đất nước. Anh tham gia lễ duyệt binh năm 1975, con trai lớn của anh cũng là chiến sĩ thuộc Bộ Tư lệnh Lăng tham gia năm 1995 và con trai út của anh tham gia năm 2005 khi đang là sinh viên của Học viện Biên phòng. Người cán bộ có được nhiều vinh dự đặc biệt này là đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Đội trưởng Đội di tích Khu K9.

Đồng chí Nghĩa người dân tộc Mường, quê ở Thanh Sơn, Phú Thọ. Anh bảo, có vào bộ đội mới được may mắn xuống Hà Nội, biết thủ đô chứ anh sinh ra và lớn lên trên núi, quanh năm mù sương, từ lúc sinh ra đến lúc vào bộ đội chưa bao giờ được nhìn thấy đèn điện.

Vào bộ đội, anh được về huấn luyện ở Hà Tây cũ. Rồi nhờ được trời phú cho vóc dáng cao to, nước da trắng, quân dung tươi tỉnh nên anh mới được cấp trên chọn lựa là 1 trong số 100 người trong lớp tiêu binh đầu tiên.

Trước khi Lăng Bác khánh thành, anh và đồng đội được đưa đi huấn luyện ở Phú Thọ. Anh bảo, hồi đó huấn luyện rất gian khổ nhưng chúng tôi ai cũng thấy vinh dự, tự hào nên đã vượt qua tất cả, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Kết thúc khóa huấn luyện, anh cùng với 3 chiến sĩ khác được chọn lựa làm nhiệm vụ trong ca đầu tiên ở vị trí tiêu binh thi hài (tức là vị trí ngay sát thi hài Bác) vào buổi lễ viếng Bác đầu tiên.

Đã hơn 30 năm trôi qua, người chiến sĩ trẻ măng ngày ấy bây giờ trên đầu tóc đã điểm bạc mà nhớ lại ca tiêu binh đầu tiên ấy, anh vẫn còn vẹn nguyên cảm giác buồn đau xen lẫn hồi hộp, vừa vinh dự vừa lo lắng.

Đồng chí Nghĩa ở Bộ Tư lệnh Lăng từ ngày ấy. Sau một thời gian làm việc trong Đoàn nghi lễ, theo phân công của tổ chức, anh về K9 với vị trí là Đội trưởng Đội di tích. Cùng với đồng đội thuộc Đoàn 285, anh đã góp phần vào việc bảo đảm an ninh an toàn cho khu di tích, bảo tồn bảo tàng các hiện vật lịch sử gắn liền với cuộc đời của Bác, đón tiếp nhân dân đến dâng hương tưởng niệm Bác.


Đội trưởng Đội di tích Nguyễn Trọng Nghĩa giới thiệu với khách tham quan về khu di tích K9.

Trong vòng 10 năm từ 1996 đến 2006, Khu K9 đã đón tiếp hơn 400.000 lượt cán bộ nhân dân từ khắp mọi miền Tổ quốc đến dâng hương tưởng niệm Bác và tham quan khu di tích. Riêng trong năm 2008, K9 đã đón tiếp hơn 2.000 đoàn với trên 65.000 lượt người. Công việc của anh Nguyễn Trọng Nghĩa và anh em trong Đội Di tích là hướng dẫn khách tham quan, giới thiệu những kỷ vật liên quan đến Bác Hồ trong thời gian Người ở K9.

Với lòng kính yêu Bác vô hạn, anh và cán bộ chiến sĩ Đoàn 285 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Nhà nước và nhân dân giao phó, để nơi đây xứng đáng là một di tích có giá trị lớn về lịch sử - văn hóa, là nơi giáo dục truyền thống "Uống nước nhớ nguồn" của mọi người dân Việt Nam hôm nay và mai sau.

Nhưng không chỉ làm nhiệm vụ bảo tồn, giữ gìn khu di tích, cán bộ chiến sĩ Đoàn 285 còn đảm đương cả nhiệm vụ giữ rừng, tăng gia sản xuất. Đại tá Bùi Hữu Hưng rất tự hào khi đưa tôi đi thăm cảnh quan của toàn Khu K9. Được giao nhiệm vụ quản lý cả một vạt rừng rộng đến hơn 200 ha với 2 hồ lớn rộng 16,5 ha, cán bộ chiến sĩ Đoàn 285 đã tích cực trồng cây, thả cá, nuôi bò để cải thiện đời sống cho bộ đội.

Có một điều lạ là cây trái trồng ở đây, mùa nào thức ấy, cây nào cũng sai trĩu quả. Đại tá Bùi Hữu Hưng bảo, chả biết là tại đất tốt hay do tay người trồng. Nhưng mà, đất trù phú thế, lại được bộ đội chăm chỉ vun xới hàng ngày thì cây cũng chả phụ lòng người, quả ngon, trái lành, mùa nào cũng tươi tốt, sum suê.

Anh em trong đơn vị hầu hết nhà đều ở Hà Nội, cách K9 chừng hơn 70 cây số, ấy thế nhưng vì nhiệm vụ thiêng liêng ở đây mà vẫn phải sống cảnh xa nhà, như thời chiến. Đại tá Hưng có khi hàng tháng trời mới về nhà một lần.

Chính trị viên Nguyễn Thanh Huống cũng vậy, tranh thủ họp hành trên Bộ Tư lệnh thì ghé về nhà chơi với con một lát rồi lại đi. Tất cả cán bộ chiến sĩ, từ anh lính trẻ đến người chỉ huy vẫn tuân thủ chế độ ăn cơm tập thể, nằm giường cá nhân. Nhưng Đại tá Hưng bảo, thế vẫn còn sướng chứ ngày xưa ở khu vực này hoang vu, không có đường, chỉ toàn núi với rừng, bộ đội còn cực hơn nhiều mà vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ. Lòng kính yêu Bác Hồ là một động lực lớn giúp bộ đội vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đúng như câu thơ của nhà thơ Tố Hữu: "Yêu Bác lòng ta trong sáng hơn".

Trở về "cõi Bác xưa"

Theo lịch sử Bộ đội Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, vào một ngày của tháng 5/1957, Bác đến thăm Sư đoàn 308 diễn tập bên sông Đà. Cũng như khi Người đi công tác các tỉnh, thường không ăn cơm ở đó mà mang theo cơm nắm, thức ăn và Bác cháu cùng dùng bữa cơm dọc đường, lần này Bác dừng chân nghỉ ăn cơm trưa trên đỉnh đồi.

Hồ Chủ tịch đã đứng ở vị trí Đá Chông, nhìn ra sông Đà trước mặt thấy nơi đây phong cảnh sơn thủy hữu tình, gần dân mà xa đường quốc lộ. Với tầm nhìn của một nhà chiến lược thiên tài, Bác đã chọn vị trí này làm khu căn cứ của Trung ương. Và, gần 3 năm sau chuyến đi của Bác, ngày 15/3/1960, công trình được hoàn thành và được gọi bằng mật danh K9. Bác Hồ đã tới dự buổi khánh thành.

Những năm sau này, nhiều lần Bác đã cùng với các đồng chí trong Bộ Chính trị lên làm việc ở đây. Cũng tại nơi này, Bác đã từng tiếp đón bà Đặng Dĩnh Siêu - phu nhân Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai, ông Hà Vỹ - Đại sứ Trung Quốc và Đoàn cán bộ Quân đội Liên Xô do Anh hùng phi công vũ trụ G.M Ti-tốp dẫn đầu.

Ở K9 bây giờ, ngày ngày, những cây ngọc lan và 2 cây vàng anh do Bác cùng các vị khách quý trồng vẫn bốn mùa xanh lá, trổ hoa thơm ngát, tượng trưng cho tình bạn, tình đồng chí của nhân dân Việt Nam với bạn bè quốc tế.

Tôi đã trải qua một cảm xúc thật lạ kỳ khi được theo chân Đại tá Bùi Hữu Hưng, Đoàn trưởng Đoàn 285, đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý Khu di tích K9, nương theo những con đường trải sỏi, hai bên rợp bóng cây dẫn đến khu nhà làm việc của Bác Hồ. Mọi cảnh vật ở nơi đây dường như vẫn còn in dấu chân Người. Vùng đất huyền thoại này không chỉ là nơi Người đã từng sống và làm việc mà còn là nơi được chọn để gìn giữ thi hài của Người trong những năm chiến tranh, suốt từ khi Người vĩnh biệt chúng ta năm 1969 cho đến năm 1975, trước khi đón Người về Lăng ở Quảng trường Ba Đình.


Quang cảnh khu di tích K9.

Đại tá Bùi Hữu Hưng kể lại những câu chuyện của năm 1969, cách đây gần 4 thập niên mà giọng vẫn đầy bồi hồi xúc động. Đối với Bộ đội Bảo vệ Lăng nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung, bao giờ, những câu chuyện về Bác cũng là những câu chuyện gây nhiều xúc động nhất.

Khi Bác Hồ qua đời cũng là lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn ác liệt nhất. Đề phòng địch tiếp tục leo thang mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, K9, nơi bảo đảm được các yếu tố yên tĩnh, bí mật, xa Hà Nội, thuận tiện giao thông đã được Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định chọn là nơi giữ gìn thi hài Bác.

Chỉ một tuần sau khi Bác đi xa, một số cán bộ của Bộ Tư lệnh Công binh và Tiểu đoàn 144 - Bộ Tổng tham mưu đã lên K9 để khảo sát, thiết kế cải tạo lại công trình. Ban đầu, Ban chỉ đạo gìn giữ thi hài Bác định sử dụng ngôi nhà đã có sẵn để lắp đặt máy móc, thực hiện nhiệm vụ gìn giữ thi hài Bác ở ngay trên mặt đất. Nhưng về sau, Quân ủy Trung ương quyết định phải cải tạo lại cả hệ thống hầm ngầm để có thể đưa thi hài Bác xuống khi chiến tranh có thể lan rộng tới khu vực này.

Trong điều kiện thi công khó khăn, phải đảm bảo bí mật, thời gian gấp nhưng các cán bộ chiến sĩ đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Công trình gìn giữ thi hài Bác gồm phòng giữ gìn thi hài Bác, được xây ốp gạch men trắng, có hệ thống điều hòa thông gió và phòng làm thuốc đặc biệt, trong phòng đặt quan tài kính do Bộ Tư lệnh Công binh thi công.

Ngày 15/12/1969, sau hơn 3 tháng làm việc khẩn trương, công trình phục vụ nhiệm vụ giữ gìn thi hài Bác hoàn thành. Để giữ bí mật, K9 được đổi thành K84.

Sau ngày đất nước thống nhất, non sông liền một dải, toàn Đảng, toàn dân lại đón Bác trở về Hà Nội, đón Bác vào Lăng. Đúng 16 giờ ngày 18/7/1975, đoàn xe đặc biệt chở thi hài Bác xuất phát rời K9, tạm biệt khu căn cứ, tạm biệt núi rừng thân thương đã bao năm nâng giấc Bác để đưa Người về nơi an nghỉ vĩnh hằng. Nhiệm vụ gìn giữ, tôn tạo, bảo vệ Khu di tích K9 được giao cho Đoàn 285, một đơn vị trực thuộc Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng từ bấy cho đến nay.

10 tháng 7 2020

2 > Đại dịch Covid-19 khiến chúng ta nhớ lại Ebola, SARS bởi hậu quả mà nó để lại thật sự rất khó lường. Nó khiến hàng quán phải đóng cửa, giao thông bị phong tỏa, kinh tế rơi vào trạng thái bất ổn định,... và cùng với đó là việc học sinh, sinh viên không được tới trường - một trong những điều đáng lo ngại nhất. Có người cho rằng, việc cho học sinh, sinh viên nghỉ học quá lâu sẽ gây ra tình trạng hổng kiến thức nhưng cũng có những ý kiến đồng tình vì sức khỏe chung của cộng đồng. Thực chất, việc cho học sinh, sinh viên nghỉ học là điều tất yếu phải làm trong tình hình dịch bệnh căng thẳng và mỗi cá nhân cần có ý thức tự học. Việc chúng ta có bảo đảm kiến thức hay không hoàn toàn tùy thuộc vào ý thức tự học bởi cho dù có đến trường nhưng lại lơ đễnh, lười nhác thì hoàn toàn không đem lại hiệu quả, thậm chí dịch bệnh còn lây lan, khó kiểm soát. Chúng ta hãy coi đây là "thời cơ" để bản thân tự tổng hợp, ôn luyện lại những kiến thức trong suốt quá trình học vừa qua, hiện nay, sở giáo dục và đào tạo đã tổ chức chương trình học trên truyền hình, chúng ta hoàn toàn có thể tự trang bị kiến thức cho mình ngay tại nhà. Tự học cũng chính là biện pháp tốt để chúng ta đẩy lùi dịch bệnh, giảm thiểu, hạn chế nguy cơ lây lan của vi-rút. "Người lạc quan sẽ thấy cơ hội trong thách thức, sẽ thấy thuận lợi trong cả khó khăn. Vậy nên hãy tranh thủ thời gian để ta tự học và rèn luyện, đồng thời cùng chung tay đẩy lùi dịch bệnh.

9 tháng 6 2016
Dàn ý

I. Mở Bài

Hiện nay, nhân loại hàng ngày hàng giờ đang phải đương đầu với nạn dịch tràn qua mọi châu lục như một trận gió đen. Đó là nạn dịch HIV, bệnh dịch suy giảm miễn dịch, chưa có phương thức cứu chữa. HIV có thể quét sạch tất cả, không trừ một ai. Thậm chí đó là những đứa trẻ, mầm non của tương lai, là những chàng thanh niên khỏe đẹp có thể biến thiên nhiên thành điện thép cho con người hạnh phúc mai sau. Vì vậy, nhân ngày 1-12-2003, Tổng thư kí Liên hợp quốc đã đưa thông điệp khẩn thiết phòng chống AIDS: “Hãy sát cánh cùng tôi, bởi lẽ cuộc chiến chống lại HIV/AIDS bắt đầu từ chính các bạn”, ở một đoạn khác, ông viết tiếp: Trong thế giới khốc liệt của AIDSkhông có khái niệm “chúng ta và họ”, “thế giới đó”, im lặng đồng nghĩa với cái chết”.

II. Thân bài

1. HIV/AIDS là một thế giới khốc liệt, là thảm họa của loài người.

a. Gần hai thập kỉ cuối cùng của thế kỉ XX và nay đã bước sang thập niên của thế kỉ XXI, mặc dù tất cả các nhà y học tài ba của thế giới đã vào cuộc để tìm ra một thứ thuốc hữu hiệu để chữa căn bệnh đồng nghĩa với tử thần. Đó là căn bệnh có cái tên gớm ghiếc HIV. Nhưng tất cả đang bó tay, chưa tìm được một thứ vacxin nào có thể phòng ngừa và tiêu diệt được thứ virut khủng khiếp ấy. Những thứ thuốc tốt nhất hiện có cũng chỉ có ý nghĩa giúp bệnh nhân có thể kéo dài sự sống và những biện pháp phòng ngừa cũng chỉ nhằm giảm bớt sự lây lan căn bệnh quái ác ấy từ người này sang người khác, không để nó trở thành đại dịch mang tính toàn cầu mà thôi.

b. HIV dù chưa là một đại dịch nhưng cho đến nay nó đã lấy đi hàng triệu sinh mệnh. Nếu tính bình quân, chỉ tính đến năm 2007 thì cứ mỗi ngày trôi qua, thế giới có thèm mười tám nghìn người nhiễm HIV, nghĩa là cứ mỗi giờ thì có bảy trăm năm mươi người mắc vào thứ bệnh mà lưỡi hái tử thần đang kề tận cổ ấy. Tất nhiên cho đến giờ phút này, con số thống kê đang tăng lên một cách đáng sợ.

c. Điều đáng buồn và đáng sợ hơn là hầu hết bệnh nhân đều là những người trẻ tuổi, cái tuổi của tương lai, cái tuổi đang trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần và là niềm hi vọng của mỗi gia đình. Giờ đây họ chẳng những không lao động được mà còn phải tập trung vào chữa bệnh. Kèm theo đó là bao người thản phải tập trung chăm lo cho những người bệnh ấy, chưa kể là bao nhiêu của cái phải lần lượt đội nón ra đi vì căn bệnh hiểm nghèo ấy. Thế là hậu quả biết bao người vợ mất chồng, người mẹ mất con. Có biết bao trại trẻ mồ côi làng SOS dành cho những đứa trẻ đã mang virut HIV/AIDS mọc lên như nấm. Các bạn hãy tưởng tượng, riêng khu vực châu Phi cận sa mạc Sahara với dân số một phần mười thế giới thì số người dương tính với HIV đã chiếm gần bảy tám phần trăm dân số. Còn ở nước ta, con số nhiễm bệnh đã lên tới ba trăm nghìn người, số người đã chết lên tới con số hàng mấy chục ngàn người. Theo công bố cua Bộ Y tế, cứ mười phút trôi qua, thì có thêm một người nhiểm phải căn bệnh hiếm nghèo đó.

2. Không có khái niệm “chúng ta” và “họ”

a. Không ai được phép coi đây là việc của người khác, chỉ liên quan đến “họ”, tức là những người nhiễm HIV, hay đang bước sang thời kì AIDS. Trước hết, với đạo lí làm người, không ai được quyền dửng dưng trước tai họa của nhân loại. Vì như Mác đã nói: “Đã là con người thì không ai được phép quay lưng với nỗi đau khổ của đồng loại”. HIV đang tác động xấu đối với đời sống
của loài người. Mỗi năm thế giới chúng ta bỏ ra hàng chục, thậm chí là hàng trăm tỉ đô la để chữa trị và ngăn ngừa căn bệnh hiểm nghèo ấy. Số tiền đó đáng lẽ có thể dùng để sản xuất ra của cải, lương thực, phòng ngừa thiên tai, xóa đỏi giảm nghèo cho những nước còn chậm phát triển.

b. Căn bệnh quái ác nói trên có nhiều đường lây lan như truyền máu không an toàn, lây từ mẹ sang con, đời sống tình dục không lành mạnh, thiếu ý thức. Nếu xem căn bệnh này chỉ là của ai đó, không liên quan đến mình, không có những biện pháp phòng ngừa triệt để thì thần chết vẫn có thể đến gõ cửa mỗi chúng ta và từng nhà.

3. Phải lên tiếng, phải hành động.

a. Mỗi người phải làm gì? Trước hết phải lên tiếng: phải cảnh báo với mọi người về nguy cơ lây nhiễm căn bệnh quái ác này đế mọi người tích cực phòng tránh. Phải có cái nhìn đúng đắn và thái độ đối xử đúng với những người nhiễm HIV. Phải coi họ như những người không may bị nhiễm căn bệnh mà đến nay y học đang bất lực.

b. Từ những con đường lây nhiễm được xác định, người ta có thể gần gũi, không được coi họ như những người bỏ đi. Không được mặc cảm, định kiến, phải biết yêu thương, giúp đỡ họ tạo dựng được niềm tin và nghị lực để sống khỏe, sống vui. Bởi một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ. Bởi tình thương nói như Nam Cao là tiêu chuẩn cao nhất để xác định tư cách làm người. Không có tình thương, con người chí là một con vật bị sai khiến bởi lòng ích kỉ. Một lời động viên; an ủi đối với những người nhiễm HIV sẽ tích thêm năng lượng đề họ sống mạnh mẽ, lạc quan hơn.

III. Kết luận

Không được tự chia ra hai thế giới “chúng ta và họ”. Trong thế giới đó, "im lặng đồng nghĩa với cái chết”. Hãy sát cánh bên nhau, bàn tay ấm nóng tình thương, tay trong tay, chúng ta hãy cùng nhau đẩy lùi và tiêu diệt căn bệnh quái ác, khủng khiếp này để loài người không phải sống trong nước mắt mà trong nụ cười tươi vui thân thiện và hạnh phúc.

9 tháng 6 2016

- Nhìn chung nhà nước và toàn thể cộng đồng đã có sự quan tâm sâu sắc đến vấn đề đại dịch HIV và với những người mắc phải căn bệnh này. Nhiều tổ chức, nhiều cơ quan tuyên truyền ( báo chí, đài truyền thanh, truyền hình) đã nỗ lực tham gia “cuộc chiến” chống lại hiểm hoạ chung. Đã có những trung tâm tư vấn, điều trị miễn phí, những cá nhân công khai căn bệnh của mình trước cộng đồng: có những cá nhân tình nguyện chăm sóc cho những người bệnh nặng không nơi nương tựa...

   - Nhưng trên thực tế, vẫn còn sự kì thị, phân biệt đối sử vơi những người bị bệnh. Nhiều khi họ bị đồng nhất với các đối tượng có vấn đề trong xã hội (như người nghiện hút, tiêm chích ma tuý, gái mại dâm,người có lối sông buông thả). Nhiều người bệnh bị chính người thân, gia đình mình xa cánh, thậm chí khinh miệt của mọi người xung quanh,…Điều này gây nên những tác hại khôn lường: phần đông người mắc bệnh không dám công khai chữa trị, nhiều người rơi vào tâm trạng tuyệt vọng phẫn uất,…

  - Từ tình hình thực tế đó ta cần có những biện pháp tích cực để góp phần vào cuộc đấu tranh chống lại hiểm hoạ chung của nhân loại.

Cuộc sống là một bức tranh đa màu bởi nó được ghép nên từ suy nghĩ đa dạng của rất nhiều cá nhân. Chỉ khi nào ta tin tưởng vào suy nghĩ độc lập của bản thân thì khi đó một tư duy riêng biệt mới được hình thành trong ta. Đừng nghĩ rằng người khác không đồng tình với ta nghĩa là ta không đúng. Trên thực tế, đôi khi theo đuổi một cách nhìn riêng biệt sẽ giúp ta có được những cống...
Đọc tiếp

Cuộc sống là một bức tranh đa màu bởi nó được ghép nên từ suy nghĩ đa dạng của rất nhiều cá nhân. Chỉ khi nào ta tin tưởng vào suy nghĩ độc lập của bản thân thì khi đó một tư duy riêng biệt mới được hình thành trong ta. Đừng nghĩ rằng người khác không đồng tình với ta nghĩa là ta không đúng. Trên thực tế, đôi khi theo đuổi một cách nhìn riêng biệt sẽ giúp ta có được những cống hiến to lớn và ý nghĩa nhất cho bản thân và người khác. Vì thế, hãy trân trọng suy nghĩ của riêng mình.

Ngược lại, cũng không nên ép buộc người khác phải có cách nhìn nhận giống mình. Cố gắng thuyết phục các thành viên trong gia đình tin tưởng những điều mình từng trải qua là một việc làm vô nghĩa, bởi trước tiên, mỗi người đều có những trải nghiệm của riêng mình. Bên cạnh đó, mỗi người lại có tầm hiểu biết riêng và thái độ về sự hiện diện cũng như vai trò của bản thân trong cuộc sống cũng rất khác nhau. Cho rằng bằng cách nào đó, họ sẽ suy nghĩ giống ta là một điều ảo tưởng. Mỗi chúng ta trải qua tuổi thơ của mình theo những cách khác nhau và mỗi người đều có quyền giữ những cảm nhận đó cho riêng mình.

Hãy vui vẻ khi là chính mình và hãy để người khác cũng có được cảm giác ấy.

 Câu 1Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.

 Câu 2. Theo tác giả, vì sao không nên ép buộc người khác phải có cách nhìn nhận giống mình?

 Câu 3. Nêu nội dung chính của đoạn trích.

 Câu 4. Anh/ Chị có đồng tình với ý kiến: Hãy vui vẻ khi là chính mình và hãy để người khác cũng có được cảm giác ấy? Vì sao?

0
10 tháng 6 2020

Trong cuộc sống của mỗi chúng ta, có rất nhiều khó khăn thách thức nên ta phải có nghị lực sống để vượt qua.(1) Nghị lực sống là nỗ lực của chúng ta để có một cuộc sống tốt đẹp, không có áp lực trong cuộc sống. (2)Nghị lực sống biểu hiện ở khắp mọi phạm trù và lĩnh vực, không nản chí dù gặp khó khăn, áp lực hoặc gặp những hoàn cảnh hiểm nghèo. (3) Dù gặp những căn bệnh hiểm nghèo nhưng họ vẫn không nản chí. (4) Trong xã hội có rất nhiều người có nghị lực sống phi thường như Nick Vujicic anh không có tay hay chân kể từ khi mới ra đời nhưng nhờ nghị lực sống phi thường anh đã vượt qua khó khăn để trở thành một người truyền cảm hứng cho giới trẻ trên toàn thế giới. (5) Dù ở trong xã hội vẫn có rất nhiều tấm gương về nghị lực sống nhưng bên cạnh đó có rất nhiều người không có nghị lực sống(6). Họ gặp hoàn cảnh khó khăn, họ nản chí, họ phó mặc cuộc sống của mình và họ không biết cố gắng. (7) Liệu những người như vậy có làm được gì cho xã hội hay không ?.(8) Những điều đó đã khiến cho những tệ nạn xã hội đến với họ như là điều tất yếu. (9) Đối với những người có nghị lực sống họ sẽ làm cho cuộc sống của họ thêm ý nghĩa mặc dù lâm vào hoàn cảnh nào.(10) Hãy làm cho cuộc sống ý nghĩa hơn. (11) "Có chí thì nên" Chủ tịch Hồ Chí Minh