Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Vào tháng 10/2014, tiểu thuyết gia người Pháp- Patrick Modiano đã vinh dự được nhân giả Nobel Văn chương. Ông là nhà văn thứ 15 của Pháp dành giải thưởng danh giá này. Trước đó, vào năm 2008, một người đồng hương của Patrick Modiano là Jean-Marie Gustave Le Clézio cũng nhận giải thưởng tương tự.
Kết quả của Viện hàn lâm Thụy Điển năm đó là bất ngờ đối với giới văn học và ngay cả bản thân tác giả. Bởi trong danh sách đề cử của giải Nobel Văn chương 2014, hai cái tên được nhiều kỳ vọng hơn cả là Haruki Murakami và Ngugi Wa Thiong'o. Nhưng may mắn lại đến với Patrick Modiano vào phút cuối, khi ông đã ghi tên mình vào giải thưởng danh giá bậc nhất của nền văn chương thế giới ở tuổi 69 và gắn thêm vào “bộ sưu tập” của mình một ngôi sao sáng chói.
Nói như vậy bởi Patrick Modiano là một người khá có duyên với các giải thưởng. Và câu nói “tuổi trẻ tài cao” hoàn toàn xứng đáng để ngợi khen tác giả. Năm 1968, khi chỉ mới 23 tuổi, Patrick Modiano đã giành được “cúp đúp” khi đạt cùng lúc hai giải thưởng Roger Nimier và Fenéon cho cuốn tiểu thuyết đầu tay Quảng trường ngôi sao. Năm 1970, nhà văn tiếp tục khẳng định tên tuổi của mình với giải Goncourt cho Phố những cửa hiệu u tối (tựa tiếng Pháp: Rue des boutiques obscures) cho đến nay cuốn tiểu thuyết này vẫn được xem là tác phẩm nổi tiếng nhất của Patrick Modiano. Năm 2000, ông được nhận giải thưởng Paul- Morand ở hạng mục “Thành tựu trọn đời”.
Nhà văn Pháp Patrick Modiano.
Hai đề tài xuyên suốt trong sáng tác của Patrick Modiano là đi tìm bản ngã và sự bất lực của cá nhân trước những hỗn mang của thời đại. Các nhân vật trong tiểu thuyết của Patrick Modiano phần lớn đều không có quá khứ và luôn muốn đi tìm quá khứ của chính mình như cách xác định căn cước bản thân. Chính sự “say mê khám phá quá khứ” của tác giả đã khiến Thư kí thường trực của Viện hàn lâm Thụy Điển- Peter Englund phải thốt lên: “Patrick Modiano có thể được coi là Marcel Proust trong thời đại của chúng ta”. Chính tuổi thơ bất hạnh, thiếu tình thương đã khiến nhà văn coi quá khứ như nguồn cảm hứng bất tận.
Bố của Patrick Modiano là Albert Modiano- người Pháp gốc Do Thái, một kẻ lang bạt kỳ hồ, không nghề nghiệp, từng trốn đi lính trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Còn mẹ của nhà văn là Louisa Colpeyn, một diễn viên người Bỉ. Họ gặp nhau trong thời kỳ Pháp bị chiếm đóng và nhanh chóng kết hôn. Con trai đầu lòng của họ là cậu bé Patrick ra đời năm 1945.
Trong khi Albert Modiano bận nay đây mai đó cho những kế hoạch buôn bán vốn toàn mang lại thất bại. Còn Louisa Colpeyn suốt ngày bận rộn với những chuyến lưu diễn. Vậy nên tuổi thơ của Patrick thiếu vắng tình cảm của cha mẹ. Ban đầu cậu bé được ông bà ngoại chăm sóc, nhưng sau đó liên tục bị gửi đến các khu ký túc xá trong trường nội trú.
Em trai Rudy là người duy nhất đem lại cho Patrick Modiano cảm giác ấm áp của tình thân. Nhưng thật không may khi Rudy đã qua đời vào năm 1957, khi mới 10 tuổi, do bệnh bạch cầu. Cái chết của em trai đã trở thành vết thương lớn trong tâm hồn của nhà văn. Cái chết, sự chia ly, nỗi cô đơn, hay cảm giác trống trải được Patrick Modiano nhắc đi nhắc lại trong các tiểu thuyết ở thời kỳ đầu sáng tác như một cách tưởng nhớ đến em trai.
Một số tiểu thuyết của Patrick Modiano được xuất bản tại Việt Nam gần đây.
Các tiểu thuyết của Patrick Modiano khá mỏng, chưa có cuốn nào dày tới 300 trang nhưng khiến người đọc phải suy ngẫm và khắc khoải khi gấp cuốn sách lại. Bao trùm lên toàn bộ tác phẩm là một âm điệu buồn đến nao lòng được thể hiện bằng lối văn chậm rãi, đẹp mà giàu chất thơ.
Độc giả Việt Nam tiếp cận với các tác phẩm của nhà văn người Pháp từ cuối những năm 1980, đầu những năm 1990 với các tiểu thuyết như Phố những cửa hiệu u tối, Quảng trường ngôi sao, Những đại lộ ngoại vi… thông qua các bản dịch của dịch giả Dương Tường.
Gần đây một số tiểu thuyết mới của ông cũng đã được dịch sang tiếng Việt. Ngoài sáng tác tiểu thuyết, Patrick Modiano còn viết kịch bản phim, viết lời cho ca khú
LÊ LỢI
Hồi ấy, giặc Minh sang xâm chiếm nước ta, đối đãi với dân ta vô cùng tàn ác. Không một ai là không nghiến răng chau mày. Bấy giờ có Lê Lợi nổi quân đánh bại lại chúng; nhưng trong lúc mới khởi nghĩa, quân ít lương thiếu, mấy lần bị giặc đánh đuổi, mỗi người chạy một nơi. Nhưng ông không ngã lòng nản chí. Ít lâu sau, được mọi nơi giúp của giúp người nên thanh thế lại dần nổi lên.
Một hôm, đội quân của Lê Lợi bị thua nặng. Một mình ông thoát được vòng vây chạy về một xóm kia. Nhưng một toán quân Minh đã phát hiện ra, đuổi theo rất gấp.Khi đi qua một lùm cây,ông bỗng thấy hai vợ chồng một ông lão đang be bờ bắt cá ở ruộng. Ông liền chạy xuống nói với ông lão:
- Cụ làm ơn cho tôi bắt cá ở đây với, lũ chó Ngô sắp tới bây giờ!
Ông lão cởi ngay chiếc áo đang mặc ném cho ông, và ra hiệu bảo ông cứ xuống mà bắt.
Lê Lợi vừa thò tay xuống bùn thì cả toán quân giặc đã sồng sộc chạy tới. Một đứa trong bọn nhìn quanh nhìn quất rồi dừng lại bên cạnh đám ruộng:
- Này lão kia có thấy Lê Lợi chạy qua đây không?
Ông lão lắc đầu:
- Từ khi chúng tôi tát cá ở đây chả có người nào chạy qua cả.
Trong lúc những tên giặc khác đang lục soát bờ bụi, thì Lê Lợi cũng ngẩng đầu lên nhìn theo. Ông lão quát:
- Thằng bé kia, mày không bắt đi để còn về ăn cơm, nhìn ngó cái gì?
Lê Lợi biết ý, lại cúi xuống bắt cá như cũ. Quân giặc đứng trên bờ tưởng người nhà ông lão nên không hỏi thêm gì nữa. Một chốc sau, chúng rút đi nơi khác.
Tối hôm ấy, ông lão đưa Lê Lợi về nhà mình. Một đám quân bị lạc chủ tướng lúc này cũng tìm được đến đây với Lê Lợi. Đây là một thôn ở gần núi, dân cư rất nghèo, thường ngày ăn uống rất kham khổ. Trong nhà ông lão có nuôi một con khỉ. Thấy không có gì đãi quân khởi nghĩa, mà đi mua bán thì sợ không giữ được kín tiếng, hai ông bà bàn nhau giết thịt con khỉ kho lên cho mọi người làm thức ăn, riêng Lê Lợi thì có thêm một đĩa cá chép vừa bắt được lúc chiều. Cơm dọn ra. Cả tướng lẫn quân vừa mệt vừa đói nên ăn rất ngon lành. Mờ sáng hôm sau trước khi từ giã, Lê Lợi nắm lấy tay ông lão, nói:
- Chúng tôi không bao giờ quên ơn lão. Sau này lúc nước nhà hưng phục, sẽ mong có dịp báo đền.
*
Lần thứ hai, Lê Lợi lại bị thua to, quân sĩ không chống nổi với lực lượng hùng hậu của giặc nên xiêu bạt mỗi người một nẻo. Lê Lợi một mình trốn về rừng già, có ba tên giặc đuổi theo sát nút. Qua một đoạn đường rẽ ông bỗng bắt gặp thây một cô gái bị giặc hãm hiếp và giết chết. Ông vẫn còn đủ thì giờ dừng lại khấn: -"Xin vong hồn nàng hãy cứu ta lúc này, ta sẽ vì nàng ra sức báo thù lúc khác".
Khấn đoạn lại chạy, nhưng bấy giờ nguy cấp quá, ông đành chui liều vào một bụi cây. Quân Minh đuổi theo đến khoảng đó thì dừng lại nhìn ngó quanh quất, chưa biết nên tìm ngả nào, chúng xuỵt chó đi sục sạo. Thấy con chó cắn vang ở phía bụi có Lê Lợi nấp, chúng liền lấy giáo thọc vào bụi, đâm phải đùi ông. Lê Lợi cắn răng để khỏi phải kêu lên, và trước khi ngọn giáo rút ra, ông vẫn không quên dùng vạt áo lau máu dính ở giáo.
Nhưng chó vẫn cứ nhằm bụi cây cắn inh ỏi. Lũ giặc tin chắc có người nấp trong đây; chung toan lao giáo vào một lần nữa, thì bỗng trong bụi nhảy vụt ra một con chồn. Chó thấy chồn lập tức đuổi theo cắn râm ran. Lũ giặc thấy vậy đánh chó và mắng: -"Chúng tao nuôi mày để săn người An-nam chứ có phải săn chồn đâu?". Và rồi chúng kéo nhau bỏ đi nơi khác. Nhờ thế Lê Lợi lại được thoát nạn.
*
Sau những ngày chiến đấu gian khổ, quân đội khởi nghĩa bắt đầu thu hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, quân Minh cũng tiếp tục mất hết thành nọ đến thành kia. Cuối cùng bọn giặc phải bỏ giáp quy hàng. Lê Lợi lên ngôi vua ở Thăng Long. Nhưng ông chẳng bao giờ quên những người đã cứu giúp mình và nghĩa quân ngày trước. Ông mới sai đại thần mang một mâm vàng bạc về tận nhà hai ông bà già để tặng. Song bấy giờ cả hai vợ chồng đều đã chết cả. Ông bèn sai dựng một ngôi đền ở ngay trên nền nhà cũ. Hàng năm ông bắt các quan phải tới đây làm lễ quốc tế. Cỗ cúng rất đơn giản, chỉ có một đĩa xôi, một bát thịt khỉ và một đĩa cá chép nướng, đúng như lúc hai vợ chồng lão dọn cỗ cho nghĩa quân ăn.
Còn chỗ có thây cô gái chết, ông cũng sai lập một miếu thờ vì nghĩ rằng chỉ có hồn thiêng của nàng đã hóa làm chồn đánh lạc hướng bầy chó của giặc thì ngày ấy mình mới qua cơn hiểm nghèo. Không biết tên của nàng, ông sai gọi nàng là Hộ quốc phu nhân, nghĩa là bà phu nhân giúp nước. Người ta cũng gọi là Hồ Ly phu nhân.[1]
KHẢO DỊ
Người Nghệ-An có truyền thuyết Núi Phù Lê:Ở một hòn núi thuộc huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh) ngày ấy có một cây đa sống lâu đến tám, chín trăm năm, ruột rỗng thành lỗ. Bị giặc Minh đánh đuổi, Lê Lợi chui vào cái lỗ ấy ẩn nấp. Giặc xuỵt chó đi tìm. Đến cây đa, chó đánh hơi và sủa mạnh. Từ trong lỗ bỗng vụt nhảy ra một con chồn. Chó đuổi theo và giặc cũng theo chân chó, nhờ vậy Lê Lợi thoát nạn. Khi bước ra khỏi lỗ một quãng thì thấy có thây một đàn bà chết. Lê Lợi nghĩ rằng chính người đàn bà ấy đã hóa thành chồn để cứu mình, bèn bảo quân chôn cất. Và khi dẹp xong giặc nước, vua phong cây đa ấy là cây Phù Lê, núi cũng mang tên ấy. Người đàn bà được phong thần, sau dân lập đền thờ.[2]
Người Nghệ- an còn có một truyện khác cắt nghĩa nguồn gốc cái tên làng Cẩm-bào (nay thuộc xã Diễn- trường, Diễn-châu, Nghệ An):
Khi đánh quân Minh, Lê Lợi có lần bị giặc đuổi, chạy qua đây. Lúc này có một người đang làm ngoài đồng. Người ấy bảo:-"Hãy cởi áo bào tôi cứu cho". Nói xong người ấy đổi áo cho Lê Lợi. Giặc đến thấy người mặc áo bào tưởng là người mà mình đang tìm bèn giết chết. Còn Lê Lợi thì lẩn vào trong xóm thoát được. Khi lên ngôi vua, ông sai đặt tên làng ấy là Cẩm-bào để nhớ ơn. Nay còn cái cầu gần ga Yên-lý mang tên ấy.[3]
[1] Theo Phạm Đình Hổ. Vũ trung tùy bút, đã dẫn.
[2] Theo Bản khai xã Thanh-tân. Cũng có người cho núi này sở dĩ mang tên Phù Lê là do công lao mẹ con bà Bạch Ngọc, hoàng hậu nhà Trần khai thác điền trang ở vùng Hương-sơn, giúp vua Lê nên có tên ấy.
[3][3] Theo lời kể của người Nghệ-an.
Nhờ gia đình khá giả nên 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đều được học với thầy giỏi khắp vùng lúc đó là Trương Văn Hiến, người dân quen gọi là Giáo Hiến.
Giáo Hiến vốn từng làm quan cho chúa Nguyễn, nhưng bị quyền thần Trương Phúc Loan trù dập hăm diệt, ông phải trốn vào phủ Quy Nhơn, mở trường dạy học ở đất An Thái. Ông mang theo hoài bão lớn muốn dạy nên lứa học trò có thể diệt loạn thần phò giúp chúa Nguyễn thịnh trị trở lại. Chính ông đã phát hiện ra khả năng khác thường của Nguyễn Huệ. Ông cũng dặn dò 3 anh em nhà Tây Sơn rằng : “Hết lòng giúp chúa Nguyễn để phục hồi nền nhất thống”.
Năm 1771, nhân lúc quyền thần Trương Phúc Loan nắm hết mọi quyền lực, nhưng chỉ lo vơ vét làm giàu khiến dân Đàng Trong cực khổ oán thán, 3 anh em nhà Tây Sơn liền đứng lên khởi nghĩa.
Khẩu hiệu ban đầu của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn là diệt Trương Phúc Loan, phò hậu duệ chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Dương. Tuy nhiên sau khi Trương Phúc Loan bị giao nộp cho quân Trịnh, và nhà Tây Sơn đã có được Nguyễn Phúc Dương, thì anh em Tây Sơn lại tìm cách tận diệt hậu duệ của chúa Nguyễn.
Năm 1777 quân Tây Sơn chiếm được Gia Định liền giết hết hoàng tộc chúa Nguyễn, kể cả Nguyễn Phúc Dương (người mà Tây Sơn có khẩu hiệu phò tá ban đầu). Trong hoàng tộc chỉ có Nguyễn Phúc Ánh trốn thoát được.
Mâu thuẫn
Sau khi chiếm được Gia Định, mâu thuẫn giữa anh em nhà Tây Sơn bắt đầu lộ diện. Nguyễn Huệ muốn tiến đánh quân chúa Trịnh ở Phú Xuân (lúc này kinh đô Đàng Trong là Phú Xuân đang bị quân chúa Trịnh chiếm), thế nhưng do không rõ tình hình quân Trịnh mạnh yếu thế nào nên Nguyễn Nhạc không đồng ý. Sau đó Nguyễn Hữu Chỉnh báo lại tình hình Phú Xuân thì Nguyễn Nhạc mới đồng ý cho đánh.
Sau khi đánh chiếm được Phú Xuân rồi, Nguyễn Huệ tự tiện đưa quân thẳng tiến ra Bắc Hà, Nguyễn Nhạc biết tin thì không yên tâm với sự phát triển thế lực riêng của Nguyễn Huệ, nên cho quân tiến ra Bắc gọi Nguyễn Huệ trở về.
Nguyễn Huệ từ Bắc Hà trở về mang theo rất nhiều của cải lấy được, Nguyễn Nhạc yêu cầu nộp lại số vàng bạc đã lấy từ kho chúa Trịnh nhưng Nguyễn Huệ không đồng ý.
Nguyễn Huệ cũng đưa ra lý do rằng vùng Thuận Hóa (tức Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế ngày nay) mới lấy được cần củng cố, nên xin ở lại Phú Xuân. Nguyễn Nhạc cũng đành phải đồng ý dù rất không bằng lòng.Ở vùng Thuận Hóa, Nguyễn Huệ tự ý xây dựng thành quách, thưởng cho các quan mà không tấu trình. Nguyễn Nhạc cũng nhiều lần cho gọi Nguyễn Huệ về Quy Nhơn nhưng lần nào Huệ cũng có lý do không đi.
Huynh đệ tương tàn cảnh đáng thương
Nguyễn Nhạc cho rằng mình bị xem thường, nên năm 1787, Nhạc đem binh ra Phú Xuân hỏi tội. Nghe tin, Nguyễn Huệ vỗ án nói:
Tội gì mà hỏi? Ðánh Nam dẹp Bắc để giữ vững ngôi báu cho anh, đó là tội à? Còn đất Thuận Hóa này là của ta lấy nơi tay Chúa Trịnh. Ta thọ phong chẳng qua vì tình anh em đó thôi. Chớ đâu phải anh ta cắt đất của mình phong cho ta, mà bắt ta nhất nhất phải tuân theo mệnh lệnh? Công có lại quên, tội không có lại buộc! Sao lại bất công thế. Ta không chịu nổi.
Nói rồi Nguyễn Huệ chạy ra gặp Nguyễn Nhạc.
Nguyễn Nhạc gặp Huệ thì nói:
Làm em mà không nghe lời anh là bất nghĩa, làm tôi mà không nghe lời vua là bất trung. Tôi chạy ngược xuôi buôn bán nuôi cậu từ nhỏ. Tôi chăm sóc mẹ, cậu và mấy đứa em nheo nhóc, để bây giờ cậu phản tôi à?
Nguyễn Huệ cũng lớn tiếng đáp trả, anh em cãi nhau to. Trước mặt quân sĩ hai bên hai anh em cùng mang vũ khí quyết đánh một trận. Quân sĩ hai bên im phăng phắc quan sát chủ tướng để chờ lệnh.
Nguyễn Huệ vẫy tay ra phía sau ra hiệu cho quân sĩ không được can dự vào, Nguyễn Nhạc cũng làm tương tự. Hai bên xông vào đánh nhau nảy lửa, nhưng do từ nhỏ đến lớn học võ cùng một sư phụ, biết hết thế miếng của nhau, nên đánh rất lâu mà không phân thắng bại. Từ chuyện này trong dân gian lưu truyền câu thơ:
Đao đỡ thương rồi thương đỡ đao,
Thương qua đao lại chẳng ai nhường.
Quy Nhơn chiến địa nơi binh dữ,
Huynh đệ tương tàn cảnh đáng thương.
Anh em nội chiến
Sau khi đánh nhiều hiệp không phân thắng bại, cả hai đều thở hổn hển vì mệt, nhưng Nhạc mệt và xuống sức hơn do cao tuổi hơn. Lợi dụng tình thế này Nguyễn Huệ đánh Nguyễn Nhạc bị thương nhẹ.
Nguyễn Nhạc tức giận chạy về, cho nổi trống thúc quân lên đánh, Nguyễn Huệ lên ngựa cho quân rút lui. Nghĩ rằng Huệ đã sợ, Nguyễn Nhạc cho quân đuổi gấp.
Đang hăng máu đuổi gấp, Nguyễn Nhạc đột nhiên nghe thấy quân sĩ hò reo dậy đất, phục binh hai bên đổ ra đánh, đồng thời Nguyễn Huệ cũng cho quân quay lại đánh kịch liệt. Quân Nguyễn Nhạc bị bất ngờ không chống nổi, chết rất nhiều, Nguyễn Nhạc đành thúc ngựa chạy thẳng về thành Quy Nhơn cố thủ.
Nguyễn Huệ cho quân đến, nhưng thành Quy Nhơn vốn dễ thủ khó công, cho quân đánh thẳng vào thì sẽ hao tổn rất nhiều lính. Vì thế Nguyễn Huệ quyết định cho quân vậy chặt thành, cắt mọi nguồn lương thực, để Nguyễn Nhạc hết lương phải đầu hàng.
Thế nhưng quân từ Phú Xuân đến lại không đủ vây chặt thành. Theo thư của một số Linh mục Pháp thời đấy còn lưu lại, thì để có 6 vạn quân vây thành Quy Nhơn, Nguyễn Huệ đã cho bắt tất cả đàn ông ở Thuận – Quảng đi lính, khiến nhiều vùng không còn đàn ông nữa.
Nguyễn Nhạc thấy lương thực cạn dần thì lo lắng, viết thư cho Nguyễn Lữ báo tin Nguyễn Huệ tạo phản, nhờ em đến giải vây. Rồi cho người mang thư vượt thành đến Gia Định gửi cho Nguyễn Lữ.
Nguyễn Lữ nhận thư, không rõ tình hình thế nào liền sai Đặng Văn Trấn đem binh cứu anh mình. Thế nhưng Nguyễn Huệ đoán biết Nhạc sẽ nhờ Lữ đến cứu, nên sai quân mai phục sẵn ở Phú Yên. Quân của Đặng Văn Trấn đến Phú Yên thì bị đánh bất ngờ nên tan tác, tướng Đặng Văn Trấn bị bắt sống.
Thấy Nguyễn Nhạc không chịu hàng, Nguyễn Huệ tìm cách công thành nhưng không hạ được, liền chiếm núi Long Cốt, rồi đưa đại bác lên núi cao bắn vào thành, những vị trí xung yếu trong thành đều bị phá.
Đạn pháo bắn rung cả thành khiến gia quyến Nguyễn Nhạc lo lắng, Nguyễn Nhạc phải lên mặt thành kêu khóc với Nguyễn Huệ rằng: “Bì oa chử nhục, đệ tâm hà nhẫn”.
Trước đây Nguyễn Nhạc không dám nói thật cho mẹ biết, giờ không thể dấu được nên đành nói thật. Bà mẹ biết được thì ra khỏi thành gặp Nguyễn Huệ, rồi sau đó Nguyễn Lữ cũng đến nói thêm, nhờ đó anh em mới được giải hòa
Sau sự việc việc, để tiện cho anh em cai quản các nơi, tháng 4 năm 1787, Nguyễn Nhạc đã phân chia như sau:
- Nguyễn Nhạc xưng là Trung Ương Hoàng đế, đóng đô ở Quy Nhơn.
- Phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương, cai quản vùng đất Gia Định.
- Phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, cai quản vùng đất từ đèo Hải Vân trở ra Bắc.
Sau sự phân chia đó, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ vẫn ngầm mâu thuẫn. Tuy nhiên, năm 1788, sau khi sai Nguyễn Duệ đánh Nguyễn Huệ không thành, Nguyễn Nhạc nhụt chí, lui về trao quyền cho Nguyễn Huệ làm vua Quang Trung và cầu khẩn em mang gấp đại binh vào cứu Nam Bộ (theo chiếu lên ngôi của Quang Trung). Lúc này, Nguyễn Phúc Ánh ngày một mạnh lên nhờ được lòng người dân Nam Bộ, khiến Nguyễn Nhạc không thể kìm chế.
Tuy nhiên năm 1789, vua Quang Trung còn bận rộn với quân Thanh và ổn định Bắc Hà. Đến năm 1792, Nguyễn Nhạc thua Nguyễn Phúc Ánh ở cửa Thị Nại, vua Quang Trung đang chuẩn bị vào Nam thì qua đời…
Vì các cuộc thám hiểm đó đã giúp con người tìm thấy và khai phá được những vùng đất mới trên thế giới.
Những cuộc thám hiểm trên là những phát kiến lớn về địa lí vì : Những cuộc thám hiểm đó đã tìm ra những con đường biển mới, những vùng đất mới, những dân tộc mới.
LÊ LỢI
Hồi ấy, giặc Minh sang xâm chiếm nước ta, đối đãi với dân ta vô cùng tàn ác. Không một ai là không nghiến răng chau mày. Bấy giờ có Lê Lợi nổi quân đánh bại lại chúng; nhưng trong lúc mới khởi nghĩa, quân ít lương thiếu, mấy lần bị giặc đánh đuổi, mỗi người chạy một nơi. Nhưng ông không ngã lòng nản chí. Ít lâu sau, được mọi nơi giúp của giúp người nên thanh thế lại dần nổi lên.
Một hôm, đội quân của Lê Lợi bị thua nặng. Một mình ông thoát được vòng vây chạy về một xóm kia. Nhưng một toán quân Minh đã phát hiện ra, đuổi theo rất gấp.Khi đi qua một lùm cây,ông bỗng thấy hai vợ chồng một ông lão đang be bờ bắt cá ở ruộng. Ông liền chạy xuống nói với ông lão:
- Cụ làm ơn cho tôi bắt cá ở đây với, lũ chó Ngô sắp tới bây giờ!
Ông lão cởi ngay chiếc áo đang mặc ném cho ông, và ra hiệu bảo ông cứ xuống mà bắt.
Lê Lợi vừa thò tay xuống bùn thì cả toán quân giặc đã sồng sộc chạy tới. Một đứa trong bọn nhìn quanh nhìn quất rồi dừng lại bên cạnh đám ruộng:
- Này lão kia có thấy Lê Lợi chạy qua đây không?
Ông lão lắc đầu:
- Từ khi chúng tôi tát cá ở đây chả có người nào chạy qua cả.
Trong lúc những tên giặc khác đang lục soát bờ bụi, thì Lê Lợi cũng ngẩng đầu lên nhìn theo. Ông lão quát:
- Thằng bé kia, mày không bắt đi để còn về ăn cơm, nhìn ngó cái gì?
Lê Lợi biết ý, lại cúi xuống bắt cá như cũ. Quân giặc đứng trên bờ tưởng người nhà ông lão nên không hỏi thêm gì nữa. Một chốc sau, chúng rút đi nơi khác.
Tối hôm ấy, ông lão đưa Lê Lợi về nhà mình. Một đám quân bị lạc chủ tướng lúc này cũng tìm được đến đây với Lê Lợi. Đây là một thôn ở gần núi, dân cư rất nghèo, thường ngày ăn uống rất kham khổ. Trong nhà ông lão có nuôi một con khỉ. Thấy không có gì đãi quân khởi nghĩa, mà đi mua bán thì sợ không giữ được kín tiếng, hai ông bà bàn nhau giết thịt con khỉ kho lên cho mọi người làm thức ăn, riêng Lê Lợi thì có thêm một đĩa cá chép vừa bắt được lúc chiều. Cơm dọn ra. Cả tướng lẫn quân vừa mệt vừa đói nên ăn rất ngon lành. Mờ sáng hôm sau trước khi từ giã, Lê Lợi nắm lấy tay ông lão, nói:
- Chúng tôi không bao giờ quên ơn lão. Sau này lúc nước nhà hưng phục, sẽ mong có dịp báo đền.
*
Lần thứ hai, Lê Lợi lại bị thua to, quân sĩ không chống nổi với lực lượng hùng hậu của giặc nên xiêu bạt mỗi người một nẻo. Lê Lợi một mình trốn về rừng già, có ba tên giặc đuổi theo sát nút. Qua một đoạn đường rẽ ông bỗng bắt gặp thây một cô gái bị giặc hãm hiếp và giết chết. Ông vẫn còn đủ thì giờ dừng lại khấn: -"Xin vong hồn nàng hãy cứu ta lúc này, ta sẽ vì nàng ra sức báo thù lúc khác".
Khấn đoạn lại chạy, nhưng bấy giờ nguy cấp quá, ông đành chui liều vào một bụi cây. Quân Minh đuổi theo đến khoảng đó thì dừng lại nhìn ngó quanh quất, chưa biết nên tìm ngả nào, chúng xuỵt chó đi sục sạo. Thấy con chó cắn vang ở phía bụi có Lê Lợi nấp, chúng liền lấy giáo thọc vào bụi, đâm phải đùi ông. Lê Lợi cắn răng để khỏi phải kêu lên, và trước khi ngọn giáo rút ra, ông vẫn không quên dùng vạt áo lau máu dính ở giáo.
Nhưng chó vẫn cứ nhằm bụi cây cắn inh ỏi. Lũ giặc tin chắc có người nấp trong đây; chung toan lao giáo vào một lần nữa, thì bỗng trong bụi nhảy vụt ra một con chồn. Chó thấy chồn lập tức đuổi theo cắn râm ran. Lũ giặc thấy vậy đánh chó và mắng: -"Chúng tao nuôi mày để săn người An-nam chứ có phải săn chồn đâu?". Và rồi chúng kéo nhau bỏ đi nơi khác. Nhờ thế Lê Lợi lại được thoát nạn.
*
Sau những ngày chiến đấu gian khổ, quân đội khởi nghĩa bắt đầu thu hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, quân Minh cũng tiếp tục mất hết thành nọ đến thành kia. Cuối cùng bọn giặc phải bỏ giáp quy hàng. Lê Lợi lên ngôi vua ở Thăng Long. Nhưng ông chẳng bao giờ quên những người đã cứu giúp mình và nghĩa quân ngày trước. Ông mới sai đại thần mang một mâm vàng bạc về tận nhà hai ông bà già để tặng. Song bấy giờ cả hai vợ chồng đều đã chết cả. Ông bèn sai dựng một ngôi đền ở ngay trên nền nhà cũ. Hàng năm ông bắt các quan phải tới đây làm lễ quốc tế. Cỗ cúng rất đơn giản, chỉ có một đĩa xôi, một bát thịt khỉ và một đĩa cá chép nướng, đúng như lúc hai vợ chồng lão dọn cỗ cho nghĩa quân ăn.
Còn chỗ có thây cô gái chết, ông cũng sai lập một miếu thờ vì nghĩ rằng chỉ có hồn thiêng của nàng đã hóa làm chồn đánh lạc hướng bầy chó của giặc thì ngày ấy mình mới qua cơn hiểm nghèo. Không biết tên của nàng, ông sai gọi nàng là Hộ quốc phu nhân, nghĩa là bà phu nhân giúp nước. Người ta cũng gọi là Hồ Ly phu nhân.[1]
KHẢO DỊ
Người Nghệ-An có truyền thuyết Núi Phù Lê:Ở một hòn núi thuộc huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh) ngày ấy có một cây đa sống lâu đến tám, chín trăm năm, ruột rỗng thành lỗ. Bị giặc Minh đánh đuổi, Lê Lợi chui vào cái lỗ ấy ẩn nấp. Giặc xuỵt chó đi tìm. Đến cây đa, chó đánh hơi và sủa mạnh. Từ trong lỗ bỗng vụt nhảy ra một con chồn. Chó đuổi theo và giặc cũng theo chân chó, nhờ vậy Lê Lợi thoát nạn. Khi bước ra khỏi lỗ một quãng thì thấy có thây một đàn bà chết. Lê Lợi nghĩ rằng chính người đàn bà ấy đã hóa thành chồn để cứu mình, bèn bảo quân chôn cất. Và khi dẹp xong giặc nước, vua phong cây đa ấy là cây Phù Lê, núi cũng mang tên ấy. Người đàn bà được phong thần, sau dân lập đền thờ.[2]
Người Nghệ- an còn có một truyện khác cắt nghĩa nguồn gốc cái tên làng Cẩm-bào (nay thuộc xã Diễn- trường, Diễn-châu, Nghệ An):
Khi đánh quân Minh, Lê Lợi có lần bị giặc đuổi, chạy qua đây. Lúc này có một người đang làm ngoài đồng. Người ấy bảo:-"Hãy cởi áo bào tôi cứu cho". Nói xong người ấy đổi áo cho Lê Lợi. Giặc đến thấy người mặc áo bào tưởng là người mà mình đang tìm bèn giết chết. Còn Lê Lợi thì lẩn vào trong xóm thoát được. Khi lên ngôi vua, ông sai đặt tên làng ấy là Cẩm-bào để nhớ ơn. Nay còn cái cầu gần ga Yên-lý mang tên ấy.[3]
[1] Theo Phạm Đình Hổ. Vũ trung tùy bút, đã dẫn.
[2] Theo Bản khai xã Thanh-tân. Cũng có người cho núi này sở dĩ mang tên Phù Lê là do công lao mẹ con bà Bạch Ngọc, hoàng hậu nhà Trần khai thác điền trang ở vùng Hương-sơn, giúp vua Lê nên có tên ấy.
[3] Theo lời kể của người Nghệ-an.